Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

F. Phạm Vi Của Thức Ấm

22 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 16682)
F. Phạm Vi Của Thức Ấm

Tây Tạng Tự - Bình Dương

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Người dịch: Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế Thiền Sư


PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG V: PHÂN BIỆT CÁC NGHIỆP QUẢ TẠO THÀNH TAM GIỚI. CHỈ RÕ CÁC CẢNH GIỚI TU CHỨNG VÀ CÁC CHƯỚNG NGẠI


VII. PHÂN BIỆT CÁC ẤM MA

F. PHẠM VI CỦA THỨC ẤM

Kinh: “Anan, thiện nam tử ấy tu Tam Ma Đề, Hành Ấm hết rồi thì cái then chốt chung u ẩn giản phác máy động sanh ra các loài thế gian bỗng chốc nát tan. Giềng mối vi tế, mạch ngầm gây nghiệp chịu quả báo của ngã thể chúng sanh, cảm ứng đều dứt bặt. Người ấy hầu như sắp đại minh ngộ trong bầu trời Niết Bàn, ví như gà gáy lần chót, ngắm về phương Đông đã có sắc tinh sáng. Sáu Căn rỗng sạch, không còn rong ruổi, trong ngoài trong lặng sáng suốt, nhập vào cái Không Chỗ Vào. Thấu suốt nguyên do nắm lấy cội nguồn, các loài không còn hấp dẫn được. Nơi mười phương thế giới đã được tính Đồng. Cái sắc tinh sáng chẳng chìm, phát hiện u ẩn bí mật. Đây gọi là phạm vi của Thức Ấm.

“Nếu trong tính Đồng đã chứng được của các loài mà tiêu tan sáu căn, khi hợp, khi chia được thành tựu, thấy nghe thông nhau, dùng thay lẫn nhau một cách thanh tịnh, mười phương thế giới cùng với thân tâm như ngọc lưu ly, trong ngoài sáng suốt thì gọi là Thức Ấm hết. Người ấy có thể siêu vượt Mệnh Trược. Xét lại nguyên do, cội gốc là vọng tưởng điên đảo, ảo tượng rỗng không.

Thông rằng: Tánh của thế gian không ra ngoài tánh của mười hai loài sanh diệt. Cái Hành Ấm giản phác u ẩn máy động thì tuy không có tướng sanh diệt thô, nhưng cái cội nguồn máy động mỗi mỗi chẳng ngừng. Đó là then chốt chung sinh ra các loài. Hành Ấm hết thì cái then chốt này tan nát. Gọi là then chốt (cơ) vì sâu xa không thể thấy, vi tế không thể chỉ ra, như giềng mối của lưới, như bâu cổ của áo. Cái giềng mối then chốt này là căn nguyên của sanh diệt. Ngã Thể chúng sanh (Bổ Đặc Già La) là cái thân trung ấm hướng theo các nẻo, đền nhân trả quả, mạch lạc cảm ứng, mảy tóc không sai. Nay thì cái then chốt sanh khởi nát tan thì nghiệp nhân đã tiêu mất, lấy gì dẫn quả? Đã không có báo thân, lấy gì đền nhân? Nhân, quả đều mất, cảm ứng dứt bặt, ấy là tuyệt mất cái mạch ngầm sâu xa vi tế truyền tống chủng tử vậy. Sự chuyển động của mạch ngầm rất là vi tế. Mạch ngầm không dứt thì Mệnh Căn chẳng đoạn. Mạch dứt, then chốt tiêu vong, mới có thể vào cảnh Vô Sanh vậy.

Ở trước, ba Ấm hết thì như gà mới gáy, chưa phân sắc tinh quang, vẫn còn tối tăm. Ở đây, Hành Ấm hết thì như gà gáy lần chót, ngắm về phương Đông đã có sắc sáng. Thấu vào cái Thức Ấm này, sáu căn liền rỗng sạch, không còn cái tướng giong ruổi khởi động, trong lặng sáng suốt im phắc suốt ngần. Nhập vào lại vào thêm, sâu xa lại sâu thêm, cho đến nhập vào cái Không Chỗ Nhập, thẳng thấu đến chỗ bổn nguyên. Bởi thế, ở trước thì chưa rõ cái mối manh của mỗi sanh mạng, chỉ mới thấy cái then chốt sanh khởi chung. Nay thì rõ thông cái nguyên do thọ mạng của mười hai loài. Ấy là đã thấy cái Đồng mà chưa thấy cái sanh khởi. Xét thấy nguyên do nắm lấy cội nguồn, chẳng cho dời đổi, chẳng để giong ruổi. Đây đã không đầu mối, thì kia tự chẳng hấp dẫn. Hết cả mười phương cõi, duy Tâm duy Thức mà thôi. Còn đâu có được cái chẳng đồng?

Đã được tánh Đồng, thì trời đất cùng ta đồng gốc, vạn vật như ta một Thể, thuần nhiên một Biển Tạng Thức vậy. Ngắm qua cái sắc tinh sáng, không đến nổi mờ chìm (hôn trầm). Ắt chẳng thấy, chẳng nghe gọi là cùng cực huyền áo; không tiếng, không mùi gọi là cùng cực thâm mật. Ở đây, dần dần phát hiện lộ bày. Tuy phát hiện mà chưa đến chỗ trong suốt sáng rỡ, còn bị Thức Ấm ngăn che, nên gọi là phạm vi của Thức Ấm.

Nếu ở chỗ nguyên do thọ sanh của mười hai loài mà đã được tánh Đồng, lại dùng cái sức Định Huệ làm tiêu tan sáu căn, khiến cho sự phân chia có thể hợp lại, sự nghẽn che có thể mở ra. Mở chia, đóng hợp tự do, sáng sạch chẳng nương theo căn, cái thấy ấy, cái nghe ấy gần với chỗ viên thông thì sáu căn thanh tịnh, có thể dùng thay nhau. Đó là chỗ ở trước nói “Ngược dòng toàn nhất, sáu Dụng chẳng hành, ngay đây mười phương cõi nước rỡ ràng thanh tịnh, như ngọc lưu ly, ở trong treo trăng sáng”. Ở đây cũng nói “Mười phương thế giới cùng với thân tâm như ngọc lưu ly”. Đó là trứng vàng của loài chim Kim Xí, trong trẻo sáng suốt rỡ ràng như kim cương, không thể phá hoại vậy.

Trong là thân tâm, ngoài là thế giới đã trong ngần sáng suốt, thì không những cái sắc tinh sáng phát hiện ra, mà cái Mật Viên Tịnh Diệu của hết thảy Như Lai đều hiện ra trong đó. Người ấy liền được Vô Sanh Pháp Nhẫn, tức là chỗ gọi là Càn Huệ Địa. Thức Ấm mà chưa hết thì chẳng thể đến đây được. Thức Ấm là cái tế vi khó đoạn, tức là cái Mạng Căn, nguyên do thọ sanh đều bắt đầu ở đó. Nay Thức Ấm hết, ắt căn nguồn đều hết. Các loài không còn kêu mời đến được, bèn cùng với cái không-thể-mời mà vong mất. Mười phương đều đồng, bèn cùng với tính Đồng mà hết mất. Bởi thế, có thể siêu vượt Mệnh Trược vậy.

Các vị thầy xưa lấy Hơi Thở, Hơi Nóng và Thức, ba cái hòa hợp thành Mạng Căn. Lúc thọ sanh thì Thức Ấm đến trước hết. Còn Thức đã ra khỏi thì Hơi Thở và Hơi Nóng diệt theo. Cái việc Thức ra khỏi thì mạng chung này phàm phu đều vậy, đâu có thể gọi là siêu vượt Mệnh Trược được ư?

Nói “Thức Ấm hết” là đã không còn cái Thức đến trước đi sau. Nói “Vượt khỏi Mệnh Trược” là đã chứng quả A La Hán, không còn chịu thân sau, đâu có thể bàn bạc mơ hồ ư?

Trước thì Thân Trung Ấm hướng theo các nẻo, mỗi mỗi tùy theo loại, Hành Ấm hết thì đã dứt cái mạch này. Còn cái mạng mạch của Thức Ấm lại càng vi tế, nên gọi là ảo tượng rỗng không. Ảo là hình như không. Tượng là hình như có. Hình như có, hình như không, lại rốt ráo rỗng không. Rỗng không chẳng sanh chẳng diệt là cái thể Chân Như vậy. Ảo tượng là cái bóng dáng sanh diệt trong tám Thức. Thế nên, y theo Chân Như thì gọi là Chánh Giác, y vào Thức Thứ Tám liền hệ lụy với vọng giác. Trái Giác, hợp Trần nên gọi là vọng tưởng điên đảo. Thức Ấm hết sạch tức là chuyển Thức thành Trí, chuyển sanh diệt mà trụ nơi chẳng sanh diệt. Trừ cái Vọng Tưởng điên đảo vi tế Ảo tượng rỗng không này đâu có dễ gì ư?

Nhà sư hỏi Tổ Hương Nham: “Như sao là Đạo?”

Tổ Nham nói: “Rồng ngâm nga trong cây khô”.

Hỏi rằng: “Như sao là người trong Đạo?”

Tổ Nham rằng: “Con ngươi ở trong sọ khô”.

Nhà sư đem hỏi Tổ Thạch Sương: “Như sao là “Rồng ngâm trong cây khô?”

Tổ Sương nói: “Còn đeo cái vui trong ấy”.

Hỏi rằng: “Như sao là “con ngươi trong sọ khô”?”

Tổ Sương nói: “Còn mang cái thức trong ấy”.

Nhà sư lại hỏi Tổ Tào Sơn: “Như sao là “Rồng ngâm trong cây khô”?”

Tổ Sơn nói: “Huyết mạch chẳng đoạn”.

Hỏi rằng: “Như sao là con ngươi trong sọ khô?”

Tổ Sơn nói: “Chưa khô hết!”

Hỏi: “Chưa rõ lại có người được nghe chăng?”

Tổ Sơn nói: “Khắp đại địa chưa có một ai chẳng nghe”.

Hỏi: “Chưa rõ Rồng ngâm là chương cú gì?”

Tổ Sơn nói: “Chẳng cần biết đó là chương cú gì, người nghe qua đều chết mất”.

Tổ Sơn lại dùng bài kệ chỉ dạy cho:

“Cây khô rồng ngâm, thật thấy Đạo

Sọ khô không Thức, mắt tinh

Vui, Thức hết rồi, tin tức hết

Đâu người để biện sạch trong dơ?”.

Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng: “Vua ở trong cửa, thần chẳng ra ngoài, nên cái vui, Thức đều hết, ắt con về với cha”.

Gọi là “Khô ráo hết” tức là Thức Ấm hết. Chẳng có chương cú như vậy làm sao rõ được chương cú này?

Kinh: “Anan, phải biết thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh Không của các Hành, về đến nguồn Thức, đã diệt sanh diệt nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Người ấy có thể khiến nơi thân mình, các Căn khác nhau khi hợp, khi chia và cùng với các loài mười phương thông chung Tánh Giác. Cái Giác Tri thông suốt một màu vắng lặng, có thể nhập vào nguồn viên mãn.

“Nếu ở chỗ quay về, lập ra cái nhân chân thường mà sanh thắng giải, thì người ấy sa vào cái chấp Nhân Sở Nhân, thành bạn bè với đám Sa Tỳ Ca La, quy về Minh Đế, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.

“Đó gọi là hạng Thứ Nhất, lập ra cái tâm có chỗ đắc, thành cái quả có chỗ quy về, trái xa tánh Viên Thông, ngược với đạo Niết Bàn, sanh vào giống ngoại đạo.

Thông rằng: Cái Thức Ấm trong lặng sáng suốt, do Hành mà trôi chuyển. Hành Ấm đã Không, đã diệt cái tướng trôi chảy sanh diệt, nhưng còn nương cái nguồn Thức trong lặng chẳng trôi, nên ở chỗ tịch diệt, sự tinh diệu chưa viên mãn.

Tịch Diệt nghĩa là sanh diệt đã diệt, không còn phải dùng cái Diệt để diệt Sanh Diệt nữa vậy. Ở đây thì diệt Sanh Diệt tức là còn thuộc về sự dùng công phu, nên chưa là Diệu, nguồn Thức vẫn còn, nên chưa được Viên. Nhưng đã về nguồn Thức, tiêu tan sáu Căn, về trong một chỗ nên có thể khiến nơi thân mình sáu Căn ngăn cách nhau mà có thể dùng thay nhau, hợp chia không ngại. Mượn Căn mà phát ra sự sáng suốt, nắm bỏ tự tại như nhiên, không chỉ cái Tự Giác bên trong sáng rỡ mà còn cùng với với các loài mười phương thông chung tánh Giác. Tánh Giác của tất cả các loài tức là cái Giác của ta, Tánh Giác của ta tức là cái Giác của tất cả các loài. Cái Giác Tri thông nhau, dung hợp không hai. Có thể vào nguồn Giác, viên dung không vướng ngại. Cái cội nguồn này viên mãn cùng cực là cội nguồn thọ mạng của các loài, cũng là cội nguồn phát ra cái giác của các loài. Mạng do đấy mà lập, giác do đấy mà khởi.

Đã là phát xuất từ cái giác nhưng không thấy có tướng tri giác, nên cho cái giác này là chẳng phải thường, vô giác mới là thường. Thế nên, Giác trở về với Vô Giác đó là Chân Thường, về đến nguồn Thức, đó là cái nhân của Chân Thường. Vậy là lấy cái mơ màng mờ mịt của lúc tám Thức chưa thành hình mà làm chỗ nương náu, cái đó ngoại đạo gọi là Minh Đế vậy. Đã có chỗ trở về, lại có cái sở nhân, mà năng nhân và sở nhân đều là hư vọng. Lập cái Tâm có chỗ đắc, để thành ra cái quả có chỗ đắc thì nhân ấy quả ấy đều sa vào cái sở vọng. Có Sở thì chẳng phải Viên, có Sở tức chẳng Chân, nên nói là trái xa tánh Viên Thông, ngược với Vô Thượng Niết Bàn mà giong ruổi vậy.

Thiền sư Vân Cái Sơn Chí Nguyên nhân có Ông Đạo Chánh ở Đàm Châu dâng biểu xin Mã Vương mời sư luận nghĩa.

Nhà vua mời Ngài lên điện, ra mắt uống trà xong, sư đến xin vua cây gươm, rồi cầm gươm hỏi Đạo Chánh: “Trong giáo pháp của ông có nói “Mơ mơ màng màng trong ấy có vật”, đó là vật gì? “Mờ mờ mịt mịt trong ấy có tinh”, đó là tinh hoa gì? Nói được không chém, không nói được thì chém!”

Ông Đạo Chánh hoang mang mờ mịt, bèn lễ bái sám hối.

Thiền sư nói với Vua: “Bệ hạ biết người này không?”

Vua đáp: “Biết”.

Sư nói: “Là ai thế?”

Vua nói: “Đạo Chánh”.

Sư nói: “Chẳng phải! Đạo ấy mà chánh thì đã đối đáp khế hợp được với sơn tăng. Đó chỉ là cây hòe côi vô chủ”.

Giá như ông đạo sĩ chẳng có phân vân mà đối đáp liền được rõ ràng thì cũng chẳng ra khỏi Minh Đế! Đối cùng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cách nhau quá xa vậy.

Kinh: “Anan, lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu ở chỗ quay về mà ôm làm tự thể của mình, tất cả chúng sanh trong mười hai loài khắp cả hư không đều ở trong thân mình tuôn khởi ra, rồi sanh thắng giải thì người ấy sa vào kiến chấp Năng, Phi Năng, thành bạn bè với Trời Ma Hê Thủ La, hiện thân Vô Biên, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.

“Đó gọi là hạng Thứ Hai, lập ra cái tâm Năng Vi, thành cái quả Năng Sự, trái xa tánh Viên Thông, ngược với đạo Niết Bàn, sanh vào giống Đại Mạn Thiên, cho cái Ta là cùng khắp viên mãn.

Thông rằng : Ở trước là luận Thường, Vô Thường, ấy là xem thấy cái tâm diệu minh cùng khắp mười phương cõi, trong lặng như nhiên mà cho là Thần Ngã rốt ráo. Từ đó suy tính rằng cái Ta thì cùng khắp mười phương, lặng sáng chẳng động, còn tất cả chúng sanh tự sanh tự chết ở trong tâm mình. Tức là ở đây nói “Đều ở trong thân mình tuôn khởi ra”. Nhưng ở trước là chỉ thấy cái Hành Ấm, nên so tính về cái Năng Vi [Cái làm ra, cái tạo ra]. Tuy chấp rằng mình có khả năng sanh các thứ loài mà thực ra không có khả năng đó, nên nói là cái chấp Năng, Phi Năng.

Nguyên do thọ sanh của mười hai loài nằm ở tại Ta, thì cho là từ Ta mà ra, không gì chẳng được. Cớ sao lại nói rằng “Phi Năng”? Bởi vì, Ba cõi duy Tâm, vạn pháp duy Thức, không có cái ngã tướng để đắc nên có thể làm chủ muôn tượng vậy. Nay ở nơi nguồn Thức mà ôm làm tự thể của mình, rồi cho rằng vũ trụ ở nơi tay, vạn vật hóa sanh từ nơi Thân. Ấy là trộm thấy biển cả sanh ra bọt nước, mà tự thân chưa lìa khỏi bọt nước, thì bọt nước có thể sanh bọt nước ư? Một khi có cái Năng Chấp thì tuy hiện thần thông quảng đại, đều quay về chỗ kiêu mạn, vì Bất Năng mà gắng gượng cho là Năng vậy.

Ma Hê Thủ La [Đại Tự Tại Thiên] ba mắt tám tay, cỡi trâu trắng, cầm phất trắng hay biến hiện vô biên thân chúng sanh, rồi nói rằng chúng sanh từ ta tuôn khởi ra. Sống ở cõi Trời Sắc Đảnh [Cao nhất cõi Sắc Giới], chưa có thể vượt khỏi Tam Giới mà cho rằng có thể sanh Tam Giới thì há chẳng ngạo mạn ư? Lập ra cái tâm Mình có thể sanh kia, cho rằng Mình có thể thành tựu chuyện của kia. Hễ còn một chút năng kiến thì chẳng tự viên mãn, nên gọi là trái xa tánh Viên Thông, ngược với đạo Niết Bàn.

Tổ Tuyết Phong khai thị đại chúng rằng: “Khắp cả đại địa giúm lại thành hạt gạo lớn, ném ngay trước mặt. Thùng sơn [Danh từ Thiền chỉ lúc chưa ngộ] chẳng hiểu thì đánh trống khắp mời xem!”

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Hết đầu trâu, tới đầu ngựa

Trong gương Tào Khê tuyệt bụi trần

Đánh trống xem kìa, sao không thấy

Trăm hoa xuân đến, nở vì ai?”.

Ngày khác, Tổ Tuyết Phong lại nói: “Khắp cả đại địa là một con mắt lẻ của Sa Môn, các ông hướng về đâu mà đi cầu?”

Tổ Triệu Châu nghe kể lại, nói: “Nếu ông trở về, cho gởi cái mai!”

Ngài Hải Ấn Tín tụng rằng:

“Mắt lẻ Sa Môn không chứa vật

Muôn tượng sum la từ kia xuất

Cái mai, ai nhỉ, biết Triệu Châu

Cái chuyện “phóng hành”, cần miên mật”.

Ngài Biệt Phong Ấn tụng rằng:

“Tuyết Phong đi cầu chỗ nào

Triệu Châu gởi cái mai?

Con mắt lẻ Sa Môn

Bừa bãi mới như vậy

Ha! Ha! Ha!

Trong nước Đại Đường tiếng trống nổi

Trong nước Tân La múa quá chừng!”.

Xem cái cử xướng này của Tổ Tuyết Phong, chỉ cốt yếu biết lấy cái bổn lai tuôn khởi ra tất cả, cái chỗ thật tế rốt ráo không chút bóng dáng dấu vết. Nếu nói “Hay Hiểu”, “Hay Ngộ”, “Hay làm Nguồn Cội cho muôn pháp”, ấy là tay nói tào lao, cần sử dụng cái mai của Triệu Châu mới được.

Kinh: “Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu ở chỗ quay về mà có chỗ nương tựa, tự nghi rằng thân tâm mình từ chỗ kia phát sanh ra, và cả mười phương hư không cũng đều do chỗ kia sanh ra, rồi ngay nơi cái chỗ sanh ra tất cả đó cho là thể chân thường không sanh diệt. Vậy là ở trong sanh diệt sớm chấp là thường trụ. Đã lầm là chẳng sanh, mà còn mê sự sanh diệt. An trụ trong mê lầm trầm trọng mà sanh thắng giải thì người ấy sa vào cái chấp Thường, Phi Thường, thành bạn bè của những kẻ chấp Tự Tại Thiên, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.

“Đó gọi là hạng Thứ Ba, lập ra cái tâm Nhân Y, thành cái quả Vọng Kế, trái xa Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra dòng giống Đảo Viên.

Thông rằng: Trước nói “Nếu y nơi chỗ quay về mà lập ra cái nhân Chân Thường”. Quay về đã có chỗ, ấy là mình có chỗ về. Cái chỗ ta trở về quả thật có thể sanh ra ta, do vậy mà tự nghi thân tâm mình từ nguồn Thức kia tuôn phát ra, mười phương hư không cũng do kia sanh khởi. Không tự mình khởi, nên nói là đều khởi. Chẳng tự mình phát, nên nói là tuôn xuất ra. Khi chưa có ta thì trước đã có Thức này, không chỉ sanh mình ra mà còn sanh tất cả. Do đó mà mơ hồ thấy Thần NgãVô Thường, còn nguồn Thức là Thường. Thần Ngã còn thuộc về Thức Thứ Bảy. Nguồn Thức thuần là Thức Thứ Tám, cái ban sơ chưa động vậy; bèn lấy nguồn Thức làm cái thể Chân Thường không sanh không diệt. Ở chỗ lặng trong không động này, trong chỗ sanh diệt vi tế mà sớm chấp là Thường Trụ. Không chỉ không thấy tánh chẳng sanh chẳng diệt chân thật mà còn mê, không biết pháp sanh diệt hiện tại. An trụ trong mê lầm trầm trọng mà cho là thắng giải. Đó là lấy cái chẳng phải Thường làm Thường, nên sa vào cái chấp Thường, Phi Thường. Như cho là Tự Tại Thiên sanh ra mình mà cho đó là Thường, chẳng biết Tự Tại Thiên cũng chẳng phải là cõi trời Thường Trụ.

Đạo Thư nói: “Thái Ất là cái khí nguyên nhất. Ban đầu sanh ở trên Thái Hư, có cõi trời Ngọc Kinh. Bốn phương, mỗi phương đều có tám cõi trời, ba mươi hai vị Đế ở đó. Ở trên cõi Ngọc Kinh có ba cõi Trời Tam Thanh: Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh. Ở trên cõi trời Tam Thanh lại có mười cõi trời Hư Hoàng, là chỗ ở của Nguyên Lão Nguyên Tôn và Thiên Hoàng Cửu Hoàng”. Đó là cõi trời Sắc Đảnh và Không Cư, ngoại đạo không thể biết rõ, bèn cho đó là cội gốc sanh trời sanh đất. Và chỗ nói rằng “Thiên Hoàng giáng cửu khí làm ra cái Hỗn Độn” thì cũng như bên Tây Vực cho Đại Phạm Thiên làm chủ tể của vũ trụ, đều phát xuất từ kiến chấp trên. Đó là lập ra cái tâm Nhân Y [Nương cái nhân], nương vào cái nhân là nguồn Thức, cho là sanh ra mình mà thành cái quả Vọng Kế [Suy lầm], lầm cho là Thường Trụ, chẳng phải do mình vậy.

Trước kia thì suy tính rằng ta sanh ra tất cả vật, ở đây thì nghĩ rằng mình hoàn toàn do cái kia sanh, nên gọi là Đảo Viên. Đó là muốn quên Ngã, quên Năng mà không thể mất hết cái tướng sanh, nên nói là “Trái xa tánh Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn”.

Thiền sư Đại Ninh Khoan khai thị đại chúng, đưa cây gậy lên, nói: “Tánh mạng của Phật trước, kỷ cương của Phật sau đều trọn ở trong ấy. Như nay sử dụng đến thì làm mây, làm mưa, làm điềm tốt, làm điềm lành, lợi người, lợi trời, ra sanh vào tử. Thế giới tha phương khởi chìm, cuốn mở. Dù cho suốt thân là miệng, nói cũng chẳng có, suốt thân là mắt, soi chẳng hết. Một niệm tương ưng, sát na vạn kiếp!”

Tổ Từ Minh khai thị đại chúng: “Đạo Ngô gióng trống, bốn đại bộ châu cùng dự. Trụ trượng quơ ngang, quả y hết Càn Khôn đại địa. Bình bát mà chuyển, che hết hằng sa thế giới. Thử hỏi tất cả các ông hướng về chốn nào để an thân lập mệnh? Nếu mà biết chỗ an thân lập mệnh: Bắc Cu Lô Châu ăn cơm, xơi cháo. Nếu mà chẳng biết: Ngồi mãi trên sàng xơi cháo, ăn cơm!”

Đây là các vị tôn túc chỉ thẳng ra cái Chẳng Sanh Chẳng Diệt, là thể Chân Thường. Thử nói xem là có về nương hay không về nương? Đừng ngại, nghi đi!

 

Kinh: “Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu nơi chỗ hay biết, nhân sự hay biết cùng khắp mà lập ra cái nhận thức rằng cỏ cây mười phương đều gọi là hữu tình, không khác với người. Cây cỏ làm người, người chết rồi trở lại thành cỏ cây mười phương. Ở nơi cái hay biết cùng khắp, không có chọn lựa và cho là thắng giải. Người ấy sa vào kiến chấp Tri, Vô Tri, thành bạn bè của bọn Bà Tra, Tiển Ni chấp tất cả đều có hay biết, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.

“Đó gọi là hạng Thứsuy tính cái tâm Viên Tri thành cái quả sai lầm, trái xa tính Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra giống Đảo Tri.

Thông rằng: Ở trước thì quay về Minh Đế, mờ mịt không biết, nhưng cái biết thì không thể diệt được, nên nhân cái biết lập ra nhận thức rằng Nguồn Thức có biết, mà tất cả các pháp đều do cái Biết biến khởi ra. Bởi cho rằng cái thể của tánh Biết trải khắp cùng các pháp, đến nỗi nói rằng loài vô tình đều có biết, không có chọn lựa. Đó là lấy cái Không Biết làm cái Biết, nên gọi là Đảo Tri [Biết Ngược].

Bộ Hóa Thơ của Ông Đàm Tử [Thuộc Đạo Gia] có nói: “Cây Phong già hóa làm đạo sĩ. Hạt lúa mục hóa làm bướm. Đó là từ vô tình mà thành hữu tình vậy. Cô hiền nữ hóa thành bia đá, con trùn núi hóa thành cây bách hợp. Đó là từ hữu tình mà thành vô tình vậy. Thế thì cái gì là người, gì là ta, gì là có thức, gì là vô thức? Vạn vật là một vật, vạn thần là một thần vậy”.

Đó là kiến chấp “Cỏ cây làm người, người làm cỏ cây” vậy.

nhà sư hỏi Quốc sư Huệ Trung: “Cổ đức nói “Xanh xanh trúc biếc trọn là Pháp Thân, rờ rỡ hoa vàng đâu không Bát Nhã”. Có người không chịu, bảo là tà thuyết. Cũng có người tin, nói bất tư nghì. Không biết như thế nào?”

Quốc sư nói: “Đây là cảnh giới của Đức Phổ Hiền, Văn Thù chẳng phải hàng phàm phu tiểu khí có thể tin nhận. Ý chỉ hợp với kinh Đại Thừa Liễu Nghĩa. Bởi thế, Hoa Nghiêm kinh nói “Phật Thân đầy tràn Pháp Giới, khắp hiện trước tất cả chúng sanh, tùy duyên cảm hiện không đâu chẳng khắp mà hằng tại tòa Bồ Đề này”. Trúc biếc đã chẳng ngoài Pháp Giới, há chẳng phải Pháp Thân đấy sao? Lại nữa, kinh Bát Nhã nói: “Vì Sắc vô biên nên Bát Nhã cũng vô biên”. Hoa vàng đã chẳng vượt ngoài Sắc, há chẳng phải là Bát Nhã đó sao? Lời nói sâu xa, kẻ chưa tỉnh ngộ khó mà hiểu được”.

Nghe xong, thiền khách làm lễ mà đi.

Lại có thầy Tòa Chủ giảng Hoa Nghiêm hỏi Hòa Thượng Đại Châu rằng: “Thiền khách cớ sao chẳng chịu “Xanh xanh trúc biếc trọn là Pháp Thân, rờ rỡ hoa vàng không chi chẳng là Bát Nhã”?”

Tổ Châu nói: “Pháp Thân không có hình tượng, ứng ra trúc biếc mà thành hình. Bát Nhã vô tri, đối hợp hoa vàng mà hiện tướng. Chẳng phải hoa vàng, trúc biếc kia mà có Bát Nhã, Pháp Thân. Thế nên, kinh nói “Chân Pháp Thân của Phật giống như hư không. Ứng vật hiện hình như trăng trong nước”. Nếu hoa vàng thật là Bát Nhã thì Bát Nhã đồng với vô tình. Trúc biếc nếu thật là Pháp Thân thì Pháp Thân là đồ ứng dụng. Tọa Chủ có hiểu không?”

Đáp rằng: “Chưa hiểu được ý này”.

Tổ Châu nói: “Như là người thấy Tánh thì nói phải cũng được, nói chẳng phải cũng được, tùy chỗ dùng mà nói, chẳng kẹt phải hay chẳng phải. Còn như người chẳng thấy Tánh, nói trúc biếc thì dính mắc trúc biếc; nói hoa vàng thì dính mắc hoa vàng; nói Pháp Thân thì kẹt Pháp Thân; nói Bát Nhã chẳng hay Bát Nhã. Bởi thế mà đều thành ra tranh luận”.

Vị Tọa Chủ lễ tạ rồi đi.

Tổ Diệu Hỷ nói: “Trong chúng thương lượng Đạo, hai vị tôn túc thiết tha thế kia. Một người được cái Thể, một người được cái Dụng. Được cái Dụng thì trên Sự mà kiến lập, được cái Thể thì trên Lý mà quét dẹp. Đó là chỗ nói là “Thật Tế Lý Địa không nhận hạt bụi, trong cửa Phật sự chẳng bỏ một pháp” vậy. Ta làm Pháp Vương, nơi pháp tự tại, hoặc đè hoặc nâng, không được không mất, cái kiến giải như vậy gọi là anh lùn xem kịch! Chỗ thấy của Diệu Hỷ, các ông cũng cần chung biết. Há chẳng nghe nói “Đập tan xương sống con lừa, leo lên chân con ruồi xanh” ư?”

Lại có nhà sư hỏi Tổ Vân Môn: “Như sao là Thanh Tịnh Pháp Thân?”

Tổ Môn nói: “Hoa Dược Lan”.

Nhà sư hỏi: “Bèn cứ như vậy thì sao?”

Tổ Môn nói: “Sư tử lông vàng”.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Hoa Dược Lan, chớ mơ màng!

Vạch số ở cán, không tại bàn cân

Bèn như vậy, thật không mối manh

Sư tử lông vàng, tay tổ ngắm”.

Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng: “Giặc đến cần đánh, khách tới cần đãi. Vân Môn, Tuyết Đậu, cả hai đều là tay tổ. Trong ấy làm gì có chuyện “Bèn cứ như vậy” đâu ? Rất kỵ chạm đầu, đụng trán đấy!”

Căn cứ theo chỗ thấy của các vị tôn túc trên thì cái Viên Diệu còn không thể “Bèn cứ như vậy”, huống gì trong ấy lại so tính cái tâm “Biết hết” để thành cái quả sai lầm ư?

 

Kinh: “Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu ở trong chỗ viên dung của các Căn dùng thay lẫn nhau đã được tùy thuận, bèn ở nơi tánh viên dung biến hóa phát sanh các thứ mà cầu cái ánh sáng của Hỏa Đại, ưa cái trong sạch của Thủy Đại, thích cái tràn khắp của Phong Đại, ngắm cái thành tựu của Địa Đại. Mỗi mỗi đều sùng phụng cho các Đại kia là bản nhân, lập thành cái nhận thức thường trụ thì người ấy sa vào cái kiến chấp sanh vô sanh, thành bè bạn của nhóm Ca Diếp BaBà La Môn, đem hết thân tâm thờ nước, thờ lửa để cầu ra khỏi sanh tử, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.

“Đó gọi là hạng Thứ Năm, chấp trước sùng phụng, mê tâm theo vật, lập ra cái nhân mong cầu hư vọng mà đợi cái quả giả dối, trái xa tánh viên thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra giống Điên Hóa.

Thông rằng: Hành Ấm đã không, thì sáu Căn dùng thay nhau. Các Căn đều viên dung, phát sanh biến hóa, tùy thuận không ngại bèn ở nơi tánh viên dung biến hóa tất cả đều có thể phát sanh mà cho rằng sáu Căn này do bốn Đại thanh tịnh mà có, cái tánh của bốn Đại thanh tịnhthường trụthế gian, chưa từng ngừng diệt. Đã có thể hóa khởi sáu Căn thì tất cả tiền trần đều do đó mà phát khởi, vậy bốn Đại thanh tịnh là bổn nhân khởi ra mọi thứ. Trước mắt thì Địa, Thủy, Hỏa, Phong biến diệt vô thường mà cái Địa Bổn Nhân thì thường trụ không đổi, nên cầu cái ánh sáng của Hỏa Đại, nghĩa là cầu cái tánh thường trụ của ánh sáng vậy. Ưa cái trong sạch của Thủy Đại, nghĩa là cái tánh thường trụ của trong sạch. Thích cái tràn khắp của Phong Đại, nghĩa là cái tánh thường trụ của tràn khắp. Nắm cái thành tựu của Địa Đại, nghĩa là cái tánh thường trụ của thành tựu vậy. Ở mỗi cái đều sùng phụng, cầu ra khỏi sanh tử. Chẳng phải sùng phụng cái Tướng suông, mà muốn nhân cái Tướng mà được cái Tánh. Như đồng tử Nguyệt Quang ban đầu tu tập pháp Quán Nước, qua nhiều kiếp mới có thể làm một với nước. Cái ý sùng phụng của ngoại đạo cũng mường tượng như vậy, muốn hợp làm một với cái tánh của bốn Đại, thường trụthế gian mà gọi là chẳng sanh diệt. Đây chẳng phải là chỗ cầu mà lại cầu, nên gọi là “Cầu hư vọng”, chẳng phải chỗ đợi mà đợi nên gọi là “Đợi giả dối”.

Việc sanh của bốn Đại, là cái sanh của hữu vi. Sự hóa của bốn Đại, là cái hóa của hữu vi. Bốn Đại là cái bị sanh chứ thật chẳng có thể sanh. Bốn Đại là cái bị hóa, chứ thật chẳng có thể hoá. Chấp cái không có sanh này mà cho là sanh thì điên đảo cái lý biến hóa, nên gọi là Đảo Hóa. Tâm vốn là nguồn gốc của vạn hóa. Tất cả vạn vật đều do Tâm mà có ra. Nay đây chẳng biết Tâm mà chạy theo vật, bỏ gốc theo ngọn mà muốn ra khỏi sanh tử, lại ngược vào sanh tử, bỏ mất Chánh Tri Kiến, ngu si đến nỗi như vậy thì há chẳng trái xa tánh Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn ư? Do thế mà quên mất cái Biết, hết mất chỗ thấy thì mong cái chẳng sanh diệt quả là khó vậy!

Xưa, Ngài Lỗ Tổ hễ thấy có nhà sư đến bèn quay mặt vô vách.

Tổ Nam Tuyền nghe vậy, nói: “Tôi bình thường hướng về người khác mà nói: “Hãy nhận lãnh cái “Không kiếp về trước”, hiểu lấy cái “Thuở Phật chưa ra đời” mà còn chưa được một phần, nửa phần. Kia như vậy, thì tết Lừa thôi!”

Ngài Bửu Phước hỏi Tổ Trường Khánh: “Như Ngài Lỗ Tổ, phẩm hạnh ở chỗ nào mà bị Tổ Nam Tuyền nói như thế?”

Tổ Khánh nói: “Lui mình nhường người, trong muôn người không có được một”.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Trong nhạt có vị

Diệu thoát tình phàm

Miên miên nhược tồn, hề, trước khi hình tượng

Lù đù như ngu, hề, đạo kia thật quý

Ngọc chạm mất đi thuần diệu

Châu trong vực hằng tự tươi

Mười phần khí trong, hề, nắng thu sạch bóng

Một mảnh mây nhàn, hề, xa phân trời nước”.

Chỗ này há hạng Bà La Môn “Nhìn Vách” có thể góp lời được ư?

Lại Tổ Tuyết Phong hỏi nhà sư: “Chốn nào đến?”

Đáp: “Thần Quang đến”.

Tổ Phong nói: “Ngày thì gọi là Nhật Quang. Đêm thì gọi là Hỏa Quang. Thế nào là Thần Quang?”

Nhà sư không chỗ trả lời.

Tổ Tuyết Phong tự thay thế nói rằng: “Nhật Quang, Hỏa Quang. Có nói Nhật Quang, Hỏa Quang thì hãy dẹp quách cái Thần Quang cho xong!”

Cần phải thấy các Tướng chẳng phải Tướng mới liền hợp với ý chỉ Vô Sanh!

Kinh: “Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu ở nơi chỗ viên minh, chấp sự trống không trong viên minh, bác bỏ tiêu diệt các sự vật biến hóa. Lấy sự vĩnh viễn diệt mất làm chỗ quy y, rồi sanh thắng giải thì người ấy sa vào kiến chấp Quy Vô Quy thành bè bạn của nhóm chấp Không trong Vô Tưởng Thiên, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.

“Đó gọi là hạng Thứ Sáu, vẹn thành tâm hư vô, kết nên cái quả Không Vong, trái xa tánh Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra giống Đoạn Diệt.

Thông rằng: Ở trước thì vọng chấp bốn Đại là chẳng sanh diệt, bèn sa vào Thường Kiến. Ở đây thì phá diệt các sự vật biến hóa mà nương về cái vĩnh viễn diệt mất, đó là sa vào Đoạn Kiến.

Cái trống không trong cái sáng, cái sáng trong cái trống không, thì hình như bày hiện tánh Viên Minh, độc chỉ chấp chặt cái trống rỗng ở trong tánh sáng, lấy cái vô quy làm quy, trụ yên nơi tánh không bèn sa vào quả Vô Tưởng Thiên.

Nhóm Chấp Không không có thân cảm xúc, ở trong hào quang của Phật, ánh sáng khiến tạm thấy. Do lấy Không làm Nhân, nên cũng lấy Không làm Quả, thế bèn dứt mất chủng tánh Như Lai, nên gọi là “Cháy mầm, hư giống” vậy. Ngoại đạo lấy đó làm Niết Bàn, nên cách xa Niết Bàn chân thật ngàn dặm muôn dặm!

nhà sư hỏi Tổ Vân Môn: “Khi cây héo lá rụng thì thế nào?”

Tổ Môn nói: “Thể lộ gió vàng!”

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Hỏi đã có Tông

Đáp cũng tương đồng

Ba câu rõ được [Vân Môntam cú]

Một cú rộng không

Đồng rộng hề, gió mát rào rào

Trời cao hề, mưa xa lất phất

Anh chẳng thấy

Thiếu Lâm ngồi mãi, khách chưa về

Yên nương Hùng Nhĩ, chùa rộn rịp”.

Tổ Huyền Sa thượng đường rằng: “Phật Đạo mênh mông không đường lối nhất định. Không có cửa là cửa giải thoát, không có ý là ý đạo nhân. Chẳng ở ba mé [Quá khứ, hiện tại, vị lai] nên không thể thăng trầm. Kiến lập thì trái với Chân nên chẳng thuộc về tạo tác. Động ắt khởi lên cội gốc sanh tử, Tịnh thì mê muội nơi chốn hôn trầm. Động Tĩnh đều mất thì lạc vào Không Vong. Động tĩnh đều thâu thì mơ hồ Phật Tánh. Hẳn phải đối trần, đối cảnh như tro lạnh, cây khô. Lúc đến hạp dùng, chẳng mất phép tắc. Như gương soi hình tượng, chẳng loạn ánh sáng. Chim bay trong không chẳng lấm vẻ không. Bởi thế, mười phương không có ảnh tượng, ba cõi bặt dứt hành tung. Chẳng sa vào cái cơ lui tới, chẳng trụ nơi cái ý trung gian. Trong chuông không có tiếng vang của trống, trong trống không có tiếng vang của chuông. Chuông trống chẳng tương giao, câu câu không sau trước. Như tráng sĩ duỗi tay chẳng nhờ tha lực, sư tử dạo chơi nào cần bạn lứa? Hư không hết nhặm, nào do soi suốt! Một dải quang minh chưa hề mờ tối. Đến vào trong ấy, thể bặt bặt, thường sáng quắc, mặt trời chói rực, bày bố vô biên! Trong Viên-Giác-Không chẳng động lay. Nuốt sáng Càn Khôn soi tột khắp”.

Tổ Huyền Sa, Vân Môn thấy suốt chân thể Niết Bàn vốn không sanh diệt, phát huy chỗ tinh diệu như vậy đủ cho hàng ngoại đạo dựng tóc gáy.

Kinh: “Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu nơi tánh Viên Thường củng cố cái thân cho thường trụ như tánh ấy, mãi không suy mất mà sanh thắng giải, thì người ấy sa vào cái chấp Tham Phi Tham, thành bè bạn của nhóm A Tư Đà, cầu được mạng sống lâu dài, mê muội Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.

“Đó gọi là hạng Thứ Bảy, bám níu cái Mệnh Căn, lập cái Nhân Củng cố vọng thân hướng theo cái Quả Khổ nhọc lâu dài, trái xa tánh Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra giống Vọng Diên [Kéo dài sự hư vọng].

Thông rằng: Thoáng thấy tánh Viên Minh, bèn chấp theo tướng “Trống không trong cái sáng”. Thoáng thấy chỗ Viên Thường bèn chấp theo cái tướng Thường chẳng hư hoại. Chỗ này thì người trí cũng không tránh khỏi. Nhưng tánh Viên Minh chưa từng chẳng trống không, mà cái trống không đó chẳng thể chấp níu. Chấp nắm cái trống không ấy thì sa vào Không. Cái tánh thuần trong toàn vẹn chưa từng chẳng Thường, mà cái Thường kia không thể chấp níu. Chấp nắm cái Thường ắt chạy theo khổ nhọc.

Trang Tử nói “Đại khối làm nhọc ta vì cái sống”. Các cách tu luyện như gấu vươn vai, chim ngẩng cổ, nôn cũ thâu mới cũng là chuyện nhọc nhằn, nên gọi là “Khổ nhọc lâu dài”. Vả chăng, cái sắc thân bốn Đại này bị định nghiệp ràng buộc. Cái phân đoạn sanh tử chẳng thể làm cái biến dịch sanh tử, cái biến dịch chẳng thể làm cái phân đoạn. Thân vốn vô thường, thật chẳng thể tham mà nay lại bám níu muốn được lâu dài, nên gọi là cái chấp Tham Phi Tham. Tuy các vị tiên trường thọ có được cái thuật này mà chứng sự trường thọ chẳng qua là củng cố cái vọng thân mà thôi, đối với tánh Chân Thường không hư hoại rất là xa cách, nên gọi là trái xa tánh Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn.

Bám níu Mạng Căn, lặng đứng cái Thức Tinh, lắng trong chẳng giao động bèn có thể vượt khỏi Vô Tưởng Thiên mà sanh cõi trời Phi Phi Tưởng. Đây gọi là hạng ngoại đạo Đệ Nhất ở Tây Vực, trọng việc củng cố thân cho thường trụ, cùng lắm là hết tám vạn kiếp lại lọt vào luân hồi. Thế thì sao có thể thường trụ ư?

Tổ Huyền Sa nhân uống lầm thuốc, cả người đỏ rần, có nhà sư hỏi: “Thế nào là Pháp Thân kiên cố?”

Tổ Sa nói: “Cõi đất mủ giọt lộp độp!”

Hòa Thượng Hoài tụng rằng:

“Nhểu nhểu suốt thân là mủ thối

Trên thuyền câu cá, hiển gia phong

Người đời chỉ ngó trên dây nhợ

Chẳng thấy hoa lan đối liễu hồng”.

Hòa Thượng Đoan nói: “Từng có người hỏi Ngài Pháp Hoa “Thế nào là thanh tịnh Pháp Thân?”, thì Ngài chỉ đáp “Cứt thúi ngất trời”. Lại nói: “Trên lá hoa sen hóa làm trẻ nhỏ”. Thử nói là đồng hay khác với cổ nhân?”

Ngài Pháp Hoa cũng có bài tụng:

“Cứt thúi ngất trời cũng ngẫu nhiên

Pháp Hoa đâu dám vì ông tuyên

Mũi kia mà có thông thiên khiếu [Lỗ thông trời]

Cứ việc hoành hành khỏi xỏ xiên”.

Ở đây, các vị tôn túc đối với cái Pháp Thân kiên cố trong đàm luận mà còn muốn nôn ra, huống gì cái sắc thân thô lậu này mà muốn giả dối kéo dài ư?

Nhưng cũng có vị nương nguyện lựctrở lại, chẳng phải nhờ tu luyện mà đắc.

Như Ngài Thiên Tuế Bảo Chưởng người Trung Ấn, sanh năm Thứ Mười Hai đời Châu Uy Việt, bàn tay trái nắm lại, đến năm bảy tuổi làm lễ cạo tóc mới mở ra, do đó mà có tên là Bảo Chưởng [Nắm tay quý báu]. Khoảng đời nhà Ngụy Tấn, sang Trung Hoa, vào đất Thục làm lễ Đức Phổ Hiền. Thường không ăn, hằng ngày tụng các kinh Bát Nhã hơn ngàn cuốn, có bài vịnh rằng:

“Nhọc nhằn răng ngọc lạnh

Tợ giòng suối tuôn nhanh

Có lúc đêm thâu ngồi

Trước thềm quỉ thần khóc”.

Một hôm, Ngài bảo đại chúng: “Ta có lời nguyện ở thế ngàn tuổi, năm nay là sáu trăm hai mươi sáu năm!”

Bởi thế có danh xưng là Thiên Tuế [Ngàn năm].

Kế đó, Ngài dạo núi Ngũ Đài, dời đến ở chùa Hoa Nghiêm, núi Chúc Dung, núi Song Phong ở Hoàng Mai; rồi chùa Đông Lâm ở Lư Sơn, đều tìm đến để xây dựng. Gặp lúc Tổ Đạt Ma vào nước Lương, bèn đến hỏi ý chỉ, được khai ngộ. Vua Võ Đế tôn kính tuổi đạo cao, mời vào trong triều. Chẳng bao lâu lại vào đất Ngô, có bài kệ rằng:

“Thành Lương gặp Đạo Sư

Tham thiềntâm địa

Rong chơi hai xứ Triết

Hết trọn non nước đẹp”.

Thuận dòng xuống miền Đông giáp Thiên Trúc, ở núi Mậu Phong, lên non Thái Bạch, vượt qua núi Nhạn Đảng, bàn luận ở núi Thúy Phong, cả thảy bảy mươi hai cái Am. Trở về Xích Thành, dừng nghỉ ở các nơi Vân Môn, Pháp Hoa. Trở lại núi Phi Lai, ngụ ở non Thạch Đậu, đi hết bốn trăm Châu của Trung Hoa. Trong xứ này gọi là Đạo Nhân du phương. Đó là năm Thứ Mười Lăm niên hiệu Trinh Quán. Sau ở chùa Bửu Nghiêm đất Phổ Giang, kết bạn hiền với Lãng thiền sư. Mỗi khi thăm hỏi thì cho con chó trắng mang thơ sang, Ngài Lãng cũng sai một con vượn xanh làm sứ giả. Nên nơi vách sư Lãng có câu “Chó trắng ngậm thơ đến. Vượn xanh rửa bát về”.

Ngày mồng Một Tết năm Thứ Hai niên hiệu Hiển Khánh, Ngài tự đắp một bức tượng, đến mồng Chín thì xong, mới hỏi đệ tửHuệ Vân: “Cái này giống ai?”

Đáp rằng: “Dạ, chẳng khác Hòa Thượng”.

Liền đó đi tắm, thay áo, ngồi kiết già, bảo Huệ Vân: “Ta trụ thế một ngàn lẽ bảy mươi hai năm, nay sắp từ giã.

“Hãy nghe kệ ta:

“Bổn lai không sanh tử

Nay cũng bày sanh diệt

Ta đặng tâm ở-đi

Lại về đây năm khác”.

Chốc lát lại dặn dò: “Sau khi ta tịch sáu mươi năm, có nhà sư đến lấy hài cốt ta thì đừng ngăn cản”.

Nói xong, thì đi thoát.

Hơn năm mươi bốn năm sau, có Trưởng Lão Thích Phù từ Vân Môn đến tháp, làm lễ rồi nói: “Xin tháp mở rộng ra”.

Chốc lát cửa tháp quả nhiên mở rộng, bộ xương liền nhau như màu vàng ròng. Thích Phù bèn mang sang đất Tần Vọng xây tháp chôn thờ.

Từ năm Đinh Mão đời Châu Uy Liệt đến năm Đinh Tỵ niên hiệu Hiển Khánh đời Đường Cao Tông đúng một ngàn lẽ bảy mươi hai năm! Đến nước này trải qua hơn bốn trăm năm. Hàng ngoại đạo cầu sống lâu mà có thể như Ngài Bảo Chưởng có mấy người ư?

Kinh: “Lại nữa, thiện nam tử ấy cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Xét Mệnh Căn thông lẫn với nhau, lại muốn giữ lại nơi trần lao, sợ nó tiêu hết. Bèn ở giới hạn này, ngồi cung liên hoa, hóa ra nhiều thứ bảy báu cùng nhiều mỹ nữ, buông lung tâm mình mà sanh thắng giải. Người ấy sa vào cái chấp Chân Vô Chân thành bè bạn của nhóm Tra Chỉ Ca La, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.

“Đó gọi là hạng Thứ Tám, lập cái nhân Tà Tư [Nghĩ Bậy] thành cái quả Xí Trần [Trần Cảnh Lẫy Lừng], trái xa tánh Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra giống Thiên Ma.

Thông rằng: Thức Ấm là cái cội nguồn mạng sống của mười hai loài chúng sanh. Mệnh của mình thông với kia, mệnh của kia thông với mình, nên gọi là thông lẫn nhau. Nếu Thức Ấm hết thì mạng của chúng sanh mười phương lập tức hết ráo, mạng mình cũng hết, ai chứng lý Chân Thường? Ai giáo hóa chúng sanh? Chỉ có Chân Thường mà không có người chứng Chân Thường, nên sợ tiêu hết, muốn ở lại nơi trần laođộ thoát chúng sanh. Ban đầu ngồi cung liên hoa, biến hóa ra nhiều các thứ bảy báu, ý chẳng phải xấu. Kế rồi thêm nhiều mỹ nữ, phóng túng tâm mình thì cái tà tư xen vào rồi vậy. Nương theo cái tà tư này mà muốn chứng Chân Thường, khởi ra cái Dụng biến hóa mà không biết lỗi lầm nên gọi là cái chấp Chân Vô Chân.

Tra Chỉ Ca La là trời Tha Hoá Tự Tại ở trên đỉnh Dục Giới, hay biến hóa ra cảnh Dục để tự vui thích. Trời Tha Hóa chưa hẳn đều là ma, nhưng việc thần biến của Ma Vương cũng cùng loại nên có ở chung. Chỉ vì dục trần như lửa nên gọi là Xí Trần. Mười loại Thiên Ma ở trước (Tưởng Ấm) đều lén làm việc tham Dục, đó là chỗ phát ra của Tà Tư, chẳng thể cấm ngăn. Không bám trước thì gọi là Trời, có bám trước thì gọi là Ma. Kinh Pháp Hoa nói: “Các ông chớ nên thích ở cái nhà lửa của ba cõi. Không nên tham các thứ Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc thô tệ. Nếu tham bám sanh ra Ái liền bị thiêu đốt”.

Xưa, Ông Uất Đầu Lam Phất dùng cái trí thế tục hàng phục được những mê lầm bậc thấp, được Phi Tưởng Định, đủ năm thứ Thần Thông. Nhà vua bấy giờ tôn trọng, mời vào cung, các cung nữ đón lấy chân ông mà làm lễ. Ông Uất Đầu Lam Phất tiếp xúc với tay người nữ, bèn sanh ham muốn, liền mất Thần Thông. Ăn xong, đi bộ từng bước về núi.

Nên chibài kệ rằng:

“Vừa sanh một niệm Dục

Liền mất Ngũ Thần Thông”.

Loại Thiên Ma thích biến hóa này, do trấn áp Thức Ấm mà được, nên hễ nghĩ bậy phát ra là mất. Quả báo Thần Thông đã hết thì rơi vào sự chìm đắm. Cái vui này đâu có thể thường, nên gọi là Chân Vô Chân vậy.

Như chỗ hiện thần lực của đại sĩ Duy Ma, lúc ấy Phật Tu Di Đăng Vương khiến cho ba vạn hai ngàn tòa sư tử rộng lớn nghiêm tịnh đến nhập vào thất của Đức Duy Ma Cật. Các vị Bồ Tát, Đại Đệ Tử, Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương thấy điều xưa giờ chưa từng thấy là cái thất rộng lớn mênh mông chứa trọn ba vạn hai ngàn tòa sư tử không hề trở ngại.

Thiền sư Bảo Giác nói: “Cho tòa sư tử là cao rộng, thất Tỷ Da là nhỏ hẹp, nghĩ đến cái khoảng chất chứa liền thành ra trở ngại. Đây là lực Thần Thông chân thật, nên chẳng thể nghĩ bàn!”

Kinh: “Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Ở trong chỗ cội gốc rỗng sáng của Mạng Căn, phân biệt cái tinh, cái thô để quyết rõ Chân, Ngụy. Nơi nhân quả đền đáp, chỉ cầu cảm ứng, trái ngược với đạo thanh tịnh là thấy Khổ, đoạn Tập, chứng Diệt, tu Đạo mà ở nơi chỗ Diệt cho là xong, không chịu tiến tới rồi sanh thắng giải. Người ấy sa vào hàng Định Tánh Thanh Văn, thành bạn bè của nhóm tăng Vô Văn là những người tăng thượng mạn, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.

“Đó gọi là hạng Thứ Chín, cố viên thành cái tâm Tinh Ứng, thành cái quả Thú Tịnh, trái xa tánh Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra giống Triền Không.

Thông rằng: Thức Ấm hiển lộ nên gọi là gốc Mạng Căn rỗng sáng. Cái Thức thì ngậm chứa chủng tử hữu lậuvô lậu. Nay ở trong đó phân biệt lựa chọn: Khổ, Tập là hữu lậu, gọi rằng thô, rằng ngụy; Đạo, Diệt là vô lậu, gọi rằng tinh, rằng chân. Chọn bỏ đi cái Khổ, Tập thô, ngụy mà giữ lại cái Diệt, Đạo tinh, chân. Tu Đạo là cảm, chứng diệt là ứng. Ý chỉ muốn nắm lấy điều này, chẳng chịu tiếp thêm. Đây là pháp luân Tứ Đế, vốn tu viên quán Pháp Giới bình đẳng, lìa cái dơ nhị biên, gọi là Thanh Tịnh Đạo.

Nay lại phát khởi cái tri giải “Ưa, Ghét” của Tiểu Thừa, chẳng rời nhân quả, dừng ở chỗ Diệt Đế mà ngừng nghỉ, đó là cái dơ của phía thanh tịnh, nên gọi là trái ngược. Hướng về chỗ tịnh lặng, bị ràng buộc nơi cái trống không, chứng nơi pháp Chân riêng lệch, so với cái đoạn diệt ở trước có hơi khác. Ở trước là một bề hướng về Không, thuộc về trời Vô Tưởng. Còn đây thì có Diệt Đế để chứng, thuộc về Tứ Không Thiên hay là ràng buộc nơi cái Không, mong viên thành tâm cảm ứng nên bị sự tịch lặng ràng buộc, không thể hướng về Đại Thừa.

Hàng định tánh Thanh Văn đã chứng Bát Định nhưng chưa chứng Lậu Tận, vướng mắc vào giáo pháp Tứ Đế, nên Phật gọi là Thanh Văn, không thể phát ngộ cầu tiến đến Vô Thượng Bồ Đề. Khi nghe đức Phật nêu lên pháp môn Đốn Giáo thì bèn bỏ chỗ rút lui, ấy gọi là Tăng Thượng Mạn. Chưa đắc cho là đắc, rốt rồi thuộc về nhóm Tỳ Kheo Vô Văn.

Người xưa nói “Chớ giữ cỏ lạ xanh hang lạnh. Mây trắng ngồi yên chẳng nhiệm mầu”. Bởi thế, am chủ Liên Hoa đưa cây gậy lên, chỉ bày đại chúng: “Người xưa đến trong ấy, vì sao chẳng chịu trụ?”

Đại chúng không có lời đáp.

Tổ tự thay thế nói rằng: “Vì kia đường lối chẳng đắc lực!”

Lại nói: “Rốt ráo là sao?”

Lại tự thay thế nói rằng: “Đòn gánh vác ngang chẳng đoái người. Thẳng vào ngàn, muôn đỉnh núi đi”.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Trong mắt: cát bụi; trong tai: đất

Ngàn ngọn, muôn ngọn nào chịu ở

Hoa rơi nước chảy cùng man mác

Dựng đứng lông mày, chỗ nào đi?”.

Lại có nhà sư hỏi thiền sư Vân Cư Giản: “Đỉnh côi độc ở thì thế nào?”

Tổ Cư nói: “Trong chín gian tăng đường chẳng có nằm, ai dạy ông đỉnh côi độc ở?”

Ngài Đơn Hà tụng rằng:

“Pháp thế, không tu, vốn trọn phần

Bình thường thù đáp quá phân minh

Tuy rằng chỉ thẳng Trường An lối

Khổ nỗi khách chơi chẳng bộ hành!”.

Bậc Thanh Văn hướng về Tịch Lặng, còn thuộc về công phu tu tập. Pháp là như thế, chẳng có sự Tu, đó là chân Tịch Diệt. Hạng độn căn kia chẳng chịu rõ chỗ này.

Kinh: “Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu ở trong tánh Giác Minh thanh tịnh viên dung phát minh chỗ thâm diệu bèn lập đó là Niết Bàn mà không tiến tới, sanh làm thắng giải, thì người ấy sa vào hàng định tánh Bích Chi, thành bạn bè của các vị Duyên Giác, Độc Giác chẳng hồi tâm hướng Đại Thừa, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.

“Đó gọi là hạng Thứ Mười, viên thành Giác Tâm vắng lặng, thành cái quả Trạm Minh, trái xa tánh Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra hạng giác Viên Minh, mà không dung hóa được tánh Viên.

Thông rằng: Đã thanh tịnh viên dung, thì những gì trái ngược với Đạo chẳng thể bì kịp. Đối trong bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh đã gần rồi vậy, chỉ vì chấp mà chưa dung hóa đó thôi. Kia lấy Giác làm Minh, thấy cái Viên thì vướng kẹt nơi Viên, thấy cái Minh thì vướng kẹt nơi Minh. Minh nên không lầm nơi chỗ cảm ứng nhân quả. Viên nên chẳng lẫn nơi chỗ Diệt cho là xong, ở chỗ này mà phát minh được sự thâm diệu. Thâm lại càng thâm nên chẳng sa vào cái Có, Diệu lại càng Diệu nên chẳng lọt vào cái Không. Ngay nơi cái Chẳng phải Có, chẳng phải Không này mà lập làm Niết Bàn chẳng sanh chẳng diệt rồi chẳng còn tiến thêm, đó là quả định tánh Bích Chi.

Bích Chi có hai hạng: Ra đời có Phật, gọi là Duyên Giác. Ra đời không có Phật, gọi là Độc Giác. Cả hai đều do quán sát nhân duyênngộ Đạo, đến chỗ chẳng còn giao động, tiếp hợp với Viên Giác. Nhưng chỉ một chữ Giác không thể trừ được, mắc vướng nơi một đường Viên Minh, cố chấp chẳng dung hóa nên nói là Chẳng Hồi Tâm. Đó là chỗ thiền gọi là “Ngoài rèm đêm sáng, khó chuyển thân” vậy.

Nhà sư hỏi thiền sư Kim Phong Chí: “Bốn biển lặng trong thì thế nào?”

Tổ Phong nói: “Còn là kẻ dưới thềm”.

Ngài Đơn Hà tụng rằng:

“Bốn biển khói trần đã lặng nhiên

Ngang hiên trăng sáng chiếu người nhàn

Tướng quân công lớn, không ban thưởng

Ngựa quý, thương vàng bỗng biếng xem”.

nhà sư hỏi Tổ Tào Sơn : “Trăng sáng trời không thì thế nào?”

Tổ Sơn nói: “Còn là kẻ dưới thềm”.

Thưa rằng: “Xin thầy tiếp lên thềm”.

Tổ Sơn nói: “Trăng lặn rồi đến tương kiến, chính lúc ấy đồng”.

Tổ Đầu Tử khai thị chúng rằng: “Nếu luận đến chuyện này, như chim loan, chim phụng bay ngút trời, chẳng hề để vết; dê rừng treo sừng, đâu thấy tăm hơi. Mặt trời chẳng giữ lại nơi đầm lạnh, mặt trăng há trú ở tại vết đen. Hoặc như lập ra Khách, Chủ thì phải ngoài nẻo Oai Âm lắc đầu. Hỏi, đáp, nói bày là việc đề xướng một bên huyền lộ [Đường huyền]. Nếu được như vậy, vẫn còn tại giữa đường. Bèn mới đứng tròng, chẳng phiền tương kiến”.

Tụng rằng:

“Trăng đầy, nước lặng, đạo nhân sầu

Hết diệu, không nương giống chẳng thâu

Ngoài kiếp: “Chánh, Thiên kiêm đới” nẻo

Trên cành không nảy (mầm), biện xuân thu”.

Bằng như ở các công án này có nẻo thấu triệt, bèn có thể làm thầy cho các bậc Duyên Giác, Độc Giác. Bậc Duyên Giác, Độc Giác này vốn là một giống hạng, trước kia phân ra thì chẳng phải.

Kinh: “Anan, mười loại Thiền Na như vậy, giữa đường hóa điên, do nương mê lầm trong chỗ chưa đủ lại cho đã chứng đủ, đều do Thức Ấm và tâm dụng công xen nhau mà sanh các thứ vị như thế. Chúng sanh mê dại, không biết tự xét, gặp cái đó hiện tiền, mỗi mỗi dùng cái tâm mê lầm còn ưa thích những tập quán cũ mà tự dừng nghỉ, cho đó là chỗ quay về rốt ráo, tự bảo đã đầy đủ Vô Thượng Bồ Đề, thành đại vọng ngữ. Các tà ma ngoại đạo khi nghiệp báo chiêu cảm hết rồi thì sa vào ngục Vô Gián. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác thì không thể tiến tới thêm.

“Các ông để tâm giữ gìn Đạo Như Lai, sau khi Ta diệt độ rồi, đem pháp môn này truyền bày trong đời mạt pháp, khiến khắp chúng sanh hiểu rõ nghĩa này, không để cho những ma tà kiến tự gây ra nạn lớn cho mình. Giữ gìn thương cứu, tiêu dứt các tà duyên, khiến cho thân tâm vào Tri Kiến Phật, từ bắt đầu đến thành tựu, không mắc các lối rẽ.

Thông rằng: Mười loại Thiền Na của Hành Ấm ở trước cho đến năm thứ Niết Bàn hiện ra là cùng tột, đã có cơ duyên tỏ ngộ nhưng còn chưa chứng quả. Ở đây, mười loại Thiền Na của Thức Ấm thì đến Niết Bàn của bậc Bích Chi là cùng tột, đã vào quả vị nên gọi là “Sanh các thứ vị như thế”.

Tám loại trước là ngoại đạo, trái với hai lý Chân và Trung, khởi lên các tà kiến Trong Tam Giới, hết nghiệp báo thì lại vào luân hồi. Hai loại sau là hàng Nhị Thừa, trái với Trung Đạo Đế, khởi cái tà kiến Ngoài Tam Giới, hồi tâm liền vào Đại Thừa, nên có thể tăng tiến. Hồi về Trí, hướng về Bi, tức là đạo Bồ Tát. Trước bảo rằng Tâm Ma, đây nói rằng Kiến Ma. Tâm thì còn lưu động gồm cả Thức Thứ Sáu. Kiến thì chỉ nắm giữ, gồm cả Thức Thứ Bảy. Tóm lại, không ra ngoài hai tập khí từ vô thủyKiến HoặcÁi Hoặc. Do nương theo mê hoặc nên chẳng thể rốt ráo. Trong chỗ chưa đủ mà sanh tâm cho là đã chứng đầy đủ. Đã đến chỗ trong lặng chẳng chao động của Thức Thứ Tám, nhưng chưa thể chuyển Thức thành Trí nên gọi là “Mê Lầm Tánh Bồ Đề”, bỏ mất Chánh Tri Kiến. Tri kiến này là Phật Tri Kiến, chẳng phải đắc quả mà mất đi vậy. Mê nơi Thức Ấm, chẳng được sáng suốt, vì bị Thức ngăn che, nên trái xa tánh Viên Thông.

Thức Thứ Tám là tánh của Như Lai Tạng. Ngộ nó thì chuyển được Thức thành Chánh Quả, mê nó thì bị Thức chuyển mà vào luân hồi. Bởi vậy, có thể “Khai, Thị, Ngộ, Nhập” Tri Kiến Phật thì từ bắt đầu vào cửa là được thành tựu, chẳng bị các Kiến Chấp ngõ rẽ làm mê lầm.

Tổ Vân Phong Duyệt thượng đường rằng: “Gốc của loài hữu tình là nương Biển Trí làm nguồn. Loài hàm thức đều lấy Pháp Thân làm Thể. Chỉ bởi Tình sanh nên Trí cách; Tưởng biến hóa mà Thể sai thù. Đạt Gốc thì Tình vong, biết Tâm thì Thể hợp. Quý thiền đức hiểu chăng? Cổ Phật cùng cây lộ trụ tương giao, điện Phật cùng cây đèn lồng cụng trán. Như nếu chẳng hiểu thì: Đơn, Trùng, Giao, Chiết!” [Đơn, Trùng, Giao, Chiết dùng để chỉ các hào trong quẻ bói Dịch. Đơn: hào dương, Trùng: hào dương động. Giao: hào âm động. Chiết: hào âm]

Nhà sư hỏi Hòa Thượng Ba Tiêu Triệt: “Có một người chẳng xả sanh tử, chẳng chứng Niết Bàn, thì thầy có nắm tay nhau với y không?”

Đáp rằng: “Chẳng nắm tay nhau”.

Hỏi: “Vì sao chẳng nắm tay?”

Đáp rằng: “Lão tăng cũng biết chút ít tốt xấu!”

Ngài Đầu Tử tụng rằng:

“Trẻ thơ trăm tuổi ra cửa rồi

Đầy người rần đỏ rước trần ai

Trong lửa dạo nhàn nơi mát mẻ

Người biết không sao dám gần nâng”.

Nếu biết “Người Ấy”, liền nhập Tri Kiến Phật, không mắc vào lối rẽ.

Kinh: “Pháp môn như thế, các Đức Như Lai như số vi trần trong hằng sa kiếp quá khứ đều nương cái Tâm mở tỏ này mà đắc đạo Vô Thượng. Khi Thức Ấm hết sạch rồi thì ngay hiện tiền, các Căn của ông đều có thể dùng thay lẫn nhau. Từ chỗ các Căn dùng thay lẫn nhau, bèn vào Kim Cương Càn Huệ Địa Bồ Tát, cái Tâm tinh diệu viên minh ở trong đó phát hóa ra như ngọc lưu ly thanh tịnh bên trong ngậm mặt trăng báu. Như thế mà vượt lên Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh Tâm và Thập Địa Kim Cương là chỗ Hành của Bồ Tát, cho đến địa vị Đẳng Giác Viên Minhthể nhập vào Biển Diệu Trang Nghiêm Như Lai, viên mãn Bồ Đề, về trong Vô Sở Đắc.

“Đó là những ma sự vi tế mà các đức Phật Thế Tôn đời quá khứ trước đã giác ngộ, nghiệm rõ và phân tích trong pháp Chỉ Quán. Nếu cảnh ma hiện ra mà ông rõ biết thì sự dơ nhiễm của tâm được rửa trừ, không lạc vào tà kiến, Ấm Ma tiêu diệt, Thiên Ma tan tác, Đại Lực Quỉ Thần hết hồn chạy trốn, Ly Mỵ, Vọng Lượng chẳng còn sanh ra, thẳng đến Bồ Đề, không có những thiếu sót. Hàng hạ liệt cũng được tăng tiến, đối trong Đại Niết Bàn Tâm không mê buồn. Nếu các chúng sanh mê dại trong đời mạt pháp chưa hiểu Thiền Na, chẳng rõ lời thuyết pháp mà ưa tu Tam Muội, ông e rằng họ lạc vào đường tà thì phải một lòng khuyên bảo họ trì chú Phật Đảnh Đà La Ni của Ta. Nếu chưa có thể tụng niệm, hãy viết nơi thiền đường hoặc đeo trong thân thì tất cả các ma không thể động đến. Ông nên kính vâng sự dạy bảo cuối cùng về đường tiến tu rốt ráo của mười phương Như Lai.

Thông rằng: Đoạn kinh này đầu đuôi tương ứng với đoạn ở trước, chỗ Ông Anan thành khẩn thưa hỏi các phương tiện ban đầu Xa Ma Tha, Tam Ma Bát Đề, Thiền Na để thành tựu Bồ Đề của mười phương Như Lai. Đó là những ma sự vi tế mà các đức Phật Thế Tôn đời quá khứ trước đã giác ngộ, nghiệm rõ và phân tích trong pháp Chỉ Quán, nên Ma không vào được. Nương cái Tâm mở tỏ này mà đắc đạo Vô Thượng. Cần yếuThức Ấm hết sạch mà thôi vậy.

“Đà Na Thức [Thức Ấm] vi tế, tập khí thành dòng xiết, sợ mê Chân, phi Chân; Ta thường chẳng khai diễn”. Bởi thế, nên không biết Thức Ấm thì giữa đường thành ra cuồng mà các Ma lừng lẫy. Hễ ngộ được thì chuyển Thức thành Trí, Bồ Đề hiện tiền. Nếu mỗi mỗi dùng cái tâm mê lầm còn ưa thích những tập quán cũ mà tự dừng nghỉ, chưa đắc mà cho là đắc, chưa chứng mà cho là chứng. Có đắc có chứng đấy thuôïc về Ma. Thức Ấm nếu hết, thì Thần Ngã đều tiêu tan, ngược dòng toàn nhất, các Căn dùng thay nhau. Trong chỗ dùng lẫn nhau thấu vào Kim Cang Càn Huệ Địa, ở trong đó phát khởi cái Chân Trí, như ngọc lưu ly thanh tịnh, trong ngậm mặt trăng báu. Cái mật viên tịnh diệu của tất cả Như Lai đều hiện ra trong đó. Ngay đó liền được Vô Sanh Pháp Nhẫn, bèn vượt lên Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh Tâm cho đến Kim Cang Thập Địa là chỗ Hành của hàng Bồ Tát, chứng nơi Đẳng Giác. Đẳng Giác viên minh, thể nhập vào Biển Diệu Trang Nghiêm Như Lai, tức là địa vị Diệu Giác. Ở đoạn trước nói rằng “Có Tam Ma Đề, tên Đại Phật Đảnh, Thủ Lăng Nghiêm Vương sẵn đủ muôn hạnh, mười phương Như Lai nẻo diệu trang nghiêm, nhất môn siêu xuất” là chỗ này vậy.

Kinh Lăng Nghiêm nói “Viên mãn Bồ Đề, về Vô Sở Đắc”. Kinh Kim Cang nói “Nếu có một Pháp để đắc thì Phật Nhiên Đăng chẳng thọ ký cho Ta”. Thế nên, đắc Vô Sở Đắc, chứng Vô Sở Chứng đó là thấy Tánh. Thấy Tánh tức thành Phật vậy. Do Càn Huệ Địa chứng ngay Bồ Đề, gọi là Siêu. Siêu nên Đốn vậy. Do Càn Huệ Địaan lập Thánh vị cho đến chỗ viên mãn Bồ Đề là Đốn mà Viên vậy. Đây là pháp môn Viên Đốn, lập tức chuyển Thức thành Trí. Các ma sự gốc gác ở Thức Ấm, từ đâu mà sanh ra? Bởi thế, nói rằng “Chẳng bám giữ thì không có cái phi huyễn, cái phi huyễn còn chẳng sanh thì pháp huyễn nương đâu lập?” Huyễn còn không có, sao có được ma sự? Nên chi, người phàm phubiết điều này thì thẳng đến Bồ Đề, không còn thiếu sót. Hàng Nhị Thừa mà biết chỗ này thì hồi tâm tiến tới, đắc Đại Niết Bàn. Cái pháp Xa Ma Tha, Tam Ma Bát Đề, Thiền Na vi diệu này bởi thế là phương tiện ban đầu, cũng là sự dạy bảo cuối cùng, chỉ có thể bỗng nhiên tự ngộ, chẳng do bởi người mà đắc được, cũng chẳng phải quán hạnh tu chứng tầm thường mà đắc. Đó là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Như tu Tam Muộitrì chú thì tất cả các Ma không có thể động đến. Điều ấy cũng không thể nghĩ bàn, nên ở đây lấy sự trì chú để kết thúc, tương ứng với Đại Phật Đảnh ở trước, vì để bày tỏ cái pháp môn Đệ Nhất cực tôn cực quí vậy.

Thiền sư Thanh Nguyên Hành Tư hỏi Đức Lục Tổ rằng : “Nên làm gì để không rơi vào thềm bực Giai cấp]?”

Tổ nói: “Ông từng làm gì?”

Hành Tư đáp: “Thánh Đế cũng chẳng làm”.

Tổ nói: “Rơi vào thềm bực nào?”

Hành Tư đáp: “Thánh Đế còn chẳng làm thì có giai cấp nào đâu!”

Tổ bằng lòng và khiến Ngài cầm đầu trong chúng, rồi dạy đi hóa độ một nơi khác.

Kệ rằng:

“Tâm địa chứa các giống

Mưa khắp ắt mầm sanh

Đốn ngộ hoa tình ấy

Bồ Đề, quả tự thành”.

Ngài Đầu Tử tụng rằng:

“Vô Kiến Đỉnh lộ, mây vẹt nhanh

Cành linh ngoài kiếp chẳng hơi xuân

Chẳng ngồi mé ấy, Không Vương điện

Đâu chịu cày bừa hướng vầng hồng”.

Ngài Đơn Hà tụng rằng :

“Cao trổi khó đem chánh nhãn nhìn

Siêu việt xưa nay chẳng sánh bằng

Rêu phong cổ điện không hầu cận

Trăng phủ cây già, phụng chẳng nương”.

nhà sư hỏi Tổ Thụy Nham: “Thương lượng làm sao để không rơi vào thềm bực?”

Tổ Nham nói: “Bày chẳng ra!” [Hay: “Đuổi chẳng ra”]

Hỏi rằng: “Vì sao bày chẳng ra?”

Đáp rằng: “Kia xưa nay không giai cấp”.

Hỏi rằng: “Chưa rõ ở vị thứ nào?”

Đáp rằng: “Chẳng ngồi điện Phổ Quang”.

Hỏi rằng: “Vậy có sửa sang giáo hóa không?”

Tổ Nham nói: “Danh nghe đầy ba cõi, chốn nào chẳng chầu về?”

Biển Diệu Trang Nghiêm đầy đủ Phước Huệ, vạn hạnh sẵn đủ, thật không thể nghĩ bàn. Thánh Đế còn chẳng đủ nói, huống là tục đế ư?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32342)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6395)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11023)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30188)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30265)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7860)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 11957)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12129)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11450)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12478)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34278)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9668)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52059)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10579)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10330)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10534)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10311)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12903)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16007)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21599)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9491)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 6982)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10260)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12446)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12612)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16065)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16325)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13685)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16327)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11882)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13650)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14198)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9088)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11634)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11162)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16045)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14213)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16047)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12578)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11901)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11637)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15516)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11359)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13874)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11856)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12409)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14783)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11833)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 12969)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14301)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20446)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13047)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10822)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20523)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14180)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20075)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17393)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13791)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31686)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11878)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant