Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Thứ Chín: Bát Nhã Ba La Mật

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 12582)
Phẩm Thứ Chín: Bát Nhã Ba La Mật


PHÁT BỒ ĐỀ TÂM KINH LUẬN
Bồ Tát Thế Thân tạo
Tam Tạng Pháp Sư Cưu La Ma Thập dịch Hán
Tỳ Kheo Thích Nhất Chân dịch Việt

PHẨM THỨ CHÍN
BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Bồ Tát tu hành trí huệ như thế nào? Trí huệ nếu vì để tự lợi, lợi tha, cả hai cùng lợi, trí huệ như thế sẽ có thể trang nghiêm được đạo Bồ Đề.

Bồ Tát vì muốn điều phục chúng sinh, khiến họ lìa xa khổ não nên tu trí huệ. Tu trí huệ là phải học trọn tất cả các sự việc ở thế gian, xả tham sân si, kiến lập tâm từ, lân mẫn hữu ích cho tất cả chúng sinh, thường nghĩ tưởng (niệm) cứu vớt, vì họ làm người dẫn đạo, có thể phân biệt nói rõ về chính đạo, tà đạo, cùng thiện báo, ác báo. Như thế gọi là sơ tâm trí huệ của Bồ Tát.

Do tu trí huệ nên lìa xa vô minh, trừ (diệt) phiền não chướngtrí huệ chướng, như thế gọi là tự lợi. Giáo hoá chúng sinh khiến họ được điều phục, như thế gọi là lợi tha. Đem vô thượng Bồ Đề do chính mình tu ra giáo hoá các chúng sinh khiến họ được ích lợi y như chính mình, như thế gọi là cùng lợi. Do tu trí huệđạt được sơ địa cho đến Tát Bà Nhã Trí, như thế gọi là trang nghiêm đạo Bồ Đề.

Bồ Tát tu hành trí huệ có hai mươi tâm có thể từ từ mà kiến lập. Những gì là hai mươi?

  1. Tâm sẽ phát thiện, muốn gần gũi bạn tốt (thiện hữu);
  2. Tâm không phóng dật, lìa bỏ kiêu mạn,
  3. Tâm tuỳ thuận lời răn dạy, ưa thích nghe pháp,
  4. Tâm nghe pháp không chán và khéo tư duy (về pháp),
  5. Tâm thật hành bốn phạm hạnhtu chính trí,
  6. Tâm quán hạnh bất tịnh sinh chán lìa (yếm ly),
  7. Mười sáu thánh tâm, quán bốn chân đế,
  8. Tâm quán mười hai nhân duyên tu minh huệ,
  9. Tâm nghe các ba la mật, nhớ tưởng và muốn tu tập,
  10. Tâm quán vô thường, khổ, vô ngã, tịch diệt.
  11. Tâm quán KHÔNG, vô tướng, vô nguyện, vô tác,
  12. Tâm quán ấm, giới, nhập có nhiều lỗi hại,
  13. Tâm hàng phục phiền não, (coi đó) không phải là bạn lữ,
  14. Tâm bảo hộ các thiện pháp, tự làm bạn lữ (với thiện pháp)
  15. Tâm chế ngự các ác pháp, khiến chúng đoạn trừ,
  16. Tâm tu tập chính pháp, khiến cho tăng trưởng rộng lớn,
  17. Tâm tuy tu nhị thừa mà thường lìa bỏ,
  18. Tâm nghe tạng Bồ Tát ưa thích phụng hành,
  19. Tâm tự lợi, lợi tha, tuỳ thuận tăng tiến các thiện nghiệp,
  20. Tâm trì hạnh chân thật cầu tất cả các Phật pháp.

Lại nữa Bồ Tát tu hành trí huệ lại có mười pháp tâm thiện tư duy, không cùng có chung với Thanh VănBích Chi Phật. Những gì là mười?

  1. Tư duy phân biệt định huệ căn bổn,
  2. Tư duy không bỏ hai biến đoạn và thường,
  3. Tư duy nhân duyên sinh khởi chư pháp,
  4. Tư duy không có chúng sinh, ngã, nhân, thọ mệnh,
  5. Tư duy không có các pháp theo ba thời khứ, lai, trụ,
  6. Tư duy không hề có pháp hành song không đoạn nhân quả,
  7. tư duy pháp KHÔNG song gieo trồng thiện pháp, không biết mệt mỏi.
  8. Tư duy vô tướng song (việc) độ chúng sinh không bỏ phế,
  9. Tư duy vô nguyện song không hề lìa bỏ (tâm) cầu Bồ Đề,
  10. Tư duy vô tác song (thị) hiện thọ (nhậc các) thân không bỏ.

Lại nữa, Bồ Tát có mười hai pháp môn khéo nhập. Những gì là mười hai?

  1. khéo nhập các tam muội KHÔNG này nọ, song không hề giữ lấy để chứng.
  2. khéo nhập các thiền tam muội, song không tuỳ theo thiền na mà sinh (vào đó),
  3. khéo nhập các thông, trí, song không chứng (lấy) pháp vô lậu,
  4. khéo nhập pháp nội quán, song không chứng quyết định,
  5. khéo nhập quán tất cả chúng sinh đều không tịch, song không xả bỏ đại từ,
  6. khéo nhập quán tất cả chúng sinh đều vô ngã, song không xả bỏ đại bi,
  7. khéo nhập sinh các ác thú, song chẳng phải do vì nghiệp nên sinh,
  8. khéo nhập lìa dục, song không chứng pháp lìa dục,
  9. khéo nhập xả bỏ các thứ dục lạc, song không xả bỏ pháp lạc,
  10. khéo nhập xả bỏ tất cả các giác hí luận, song không xả bỏ các quán phương tiện,
  11. khéo nhập tư lương hữu vi pháp nhiều lỗi hại, song không xả bỏ hữu vi,
  12. khéo nhập pháp vô vi thanh tịnh lìa xa, song không trụ vô vi.

Bồ Tát có thể tu được tất cả các pháp môn khéo nhập (này), tức sẽ có thể khéo hiểu ba thời KHÔNG không có gì hết (vô sở hữu). Nếu quán như thế, do lực trí huệ quán ba đời KHÔNG, nếu đối với vô lượng công đức mà chư Phật trong ba đời gieo trồng, trọn đều đem hồi hướng về vô thượng Bồ Đề, như thế gọi là Bồ Tát khéo quán phương tiện ba đời.

Lại nữa, tuy thấy các pháp (diệt) tận ở quá khứ không (đi) đến vị lai, song thường tu thiện tinh tiến không giải đãi. Quán pháp vị lai tuy không sinh ra, (song) không xả bỏ tinh tiến, nguyện hướng Bồ Đề. Quán pháp hiện tại tuy niệm niệm diệt, (song) tâm mình không quên phát tiến đến Bồ Đề. Như thế gọi là Bồ Tát quán phương tiện ba đời: quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến, hiện tại không trụ. Tuy quán tâm, tâm số pháp sinh diệt tán hoại như thế, song thường không xả bỏ việc tu tập thiện căn trợ cho pháp Bồ Đề. Như thế gọi là Bồ Tát quán phương tiện ba đời.

Lại nữa, Bồ Tát quán tất cả thiện bất thiện, ngã vô ngã, thật bất thật, KHÔNG bất KHÔNGthế đế chân đế, chính định tà định, hữu vi vô vi, hữu lậu vô lậu, hắc pháp bạch pháp, sinh tử Niết Bàn, như tính của pháp giới (chỉ) một tướng (thôi là) vô tướng. Trong (vô tướng) ấy không có pháp nào để có thể gọi là vô tướng, cũng không có pháp nào để lấy đó cho là vô tướng. Như thế ắt gọi là nhất thiết pháp ấn, bất khả hoại ấn. Ở trong ấn đó cũng không có tướng của ấn. Như thế gọi là chân thật trí huệ phương tiện Bát Nhã Ba La Mật.

Bồ Tát Ma Ha Tát phát tâm Bồ Đề phải học như thế, phải hành như thế. Hành như thế là sẽ gần với A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Bồ Tát Ma Ha Tát hành trí huệ (mà) tâm không có hành gì hết, do bởi pháp tính thanh tịnh, như thế ắt là đầy đủ hết Bát Nhã Ba La Mật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11647)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11973)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11122)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11361)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12077)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12574)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10776)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17999)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9961)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10187)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12362)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15357)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11256)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12119)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15384)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12013)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12426)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11196)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12097)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10628)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12567)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13181)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14852)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12702)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16588)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19679)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13118)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12276)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11867)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13548)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11964)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11853)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11647)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12778)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14532)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12627)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15672)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13637)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12915)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9884)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18027)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11182)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9088)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12192)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13064)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10323)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12207)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15326)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16618)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12230)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11493)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14282)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19717)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14161)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24622)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10702)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant