Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12.03. Phẩm Thí Nghiệm Bồ Tát Thứ Ba

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8046)
12.03. Phẩm Thí Nghiệm Bồ Tát  Thứ Ba
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999


XII
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI

Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Huyền Trang
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

03. Phẩm Thí Nghiệm Bồ Tát
Thứ Ba

(Hán bộ phần sau quyển 36 )

 Lúc bấy giờ Ngài Xá LợI Phất đứng dậy trịch y uất đa la tăng vai hữu ,gốI hữu chấm đất chắp tay cung kính bạch rằng :” Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi có chút việc để hỏi.Mong đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác xót thương hứa khả vì tôi mà giảI thuyết”.
 Đức Phật phán :” Cho phép ông hỏI .Nay đức Như Lai sẽ giảI thuyết khiến lòng vui mừng”.
 Ngài Xá LợI Phất thưa:” Bạch đức Thế Tôn! ĐạI Bồ Tát thành tựu mấy pháp mà thân ngiệp không lỗI, ngữ nghiệp không lỗI, ý nghiệp không lỗi.Thành tựu mấy pháp mà thân nghiê(p thanh tịnh,ngữ nghiệp thanh tịnh , ý nghiệp bất động, chẳng bị thiên ma và chúng ma quân lay chuyển.Tù lúc mớI đầu phát tâm nhứt thiết trí tu hành chánh hạnh,từng bực tăng thắng,thiện xảo phương tiện vì tất cả chúng sanh mà làm đạo sư thù thắng, đạo sự cùng khắp ,làm đuốc sáng lớn,làm cây thang lớnlàm cầu,làm thuyền,làm ngườI tế độ,làm bờ kia,làm nhà,làm ngườI cứu vớt ,làm chỗ về,làm chỗ đến,mà vẫn có thể chẳng bỏ tâm nhứt thiết trí?”.
 Ngài Xá LợI Phất muốn tuyên lạI nghĩa ấy nên nói kệ bạch Phật :
 “ Bồ Tát có nghĩa gì
 Mà ở đạI Bồ đề
 Sao gọI đức và pháp
 Do đó ngộ vô thượng
 LạI làm những hạnh gì
 LợI ích các chúng sanh
 Đã tu tập pháp gì
 Thành Phật Nhơn Trung Tôn
 Phục ác ma thế nào
 Ở Bồ đề tối thắng
 Chấn động câu chi cõi
 Ngộ Vô thượng Chánh giác
 Bồ Tát là nghĩa gì
 Câu ấy là thế nào
 Thế nào là Bồ đề
 Và vô thượng Phật pháp
 Thế nào đi trong đờI
 LợI ích các chúng sanh
 Chẳng nhiễm như hoa sen
 GiảI thoát câu chi chúng
 Thế nào là Thiên ,Long
 Và Phi Nhơn cúng dường
 Những điều tôi thưa hỏi
 Xin từ bi giải thuyết”.
 Đức Phật bảo Ngài Xá LợI Phất:”Lành thay,lành thay! Nay ta sẽ phân biệt giảI thuyết.
 Nầy Xá LợI Phất ! ĐạI Bồ Tát thành tựu một pháp có thể nhiếp thọ những pháp của ông đã hỏI và vô lượng vô biên Phật pháp khác.
 Thế nào là một pháp ?
 Đó là Bồ đề tâmtín nguyện đầy đủ.
 Nầy Xá Lợi Phất ! Đó gọi là đại Bồ Tát thành tựu một pháp thì có thể nhiếp thọ vô biên Phật pháp ».
 Ngài Xá lợi Phất thưa : » Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là tín nguyện đầy đủ.Lại do nghĩa gì mà gọi là Bồ đề tâm ? ».
 Đức Phật phán : »Nầy Xá Lợi Phất ! Tín nguyện đầy đủ đó là bền chắc chẳng thể phá hoại được,là nói vững vàng chẳng thể động được.Nói chẳng động là vì không đánh mất.Vì không đánh mất thì có thể khéo an trụ.Vì khéo an trụ nên chẳng thối chuyển.Vì chẳng thối chuyển nên quan sát chúng sanh.Vì quan sát chúng sanh nên đại bi nẩy nở.Vì đại bi nẩy nở nên chẳng mỏi mệt.Vì chẳng mỏi mệt nên thành thục chúng sanh.Vì thành thục chúng sanh nên biết tự vui. Vì biết tự vui nên không hi vọng. Vì không hi vọng nên chẳng nhiễm trước đồ dùng. Vì chẳng nhiễm trước nên làm chỗ dựa cho chúng sanh .Vì làm chỗ dựa cho chúng sanh nên săn sóc các chúng sanh hạ liệt. Vì săn sóc chúng sanh hạ liệt nên làm người cứu tế.Vì làm người cứu tế nên làm chổ về đến.Vì làm chổ về đến nên chẳng vội gấp. Ví chẳng vội gấp nên khéo quan sát. Vì khéo quan sát nên không oán ghét. Vì không oán ghét nên khéo điều nhiếp tín nguyện. Vì khéo điếu nhiếp tín nguyện nên không chỗ để còn. Vì không chổ để còn nên khéo thanh tịnh. Vì khéo thanh tịnh nên trắng láng tốt .Vì trắng láng tốt nên rời cấu uế nơi trong.Vì rời cấu nơi trong nên khéo thanh tịnh nơi ngoài.
 Nầy Xá Lợi Phất ! Bền chắc khó phá hoại nhẫn đến trong thì rời cấu uế ngoài thì khéo thanh tịnh như vậy , đó gọi là tín nguyện đầy đủ.
 Lại nầy Xá lợi Phất ! Bồ đề tâm có tướng gì mạo gì ?
 Nầy Xá Lợi Phất ! Bồ đề tâm đó không có lỗi lầm vì chẳng bị tất cả phiền não làm ô nhiễm. Bồ đề tâm ấy nối nhau chẳng tuyệt vì chẳng chứng quả trong các thừa khác. Bồ đề tâm ấy bến chắc khó động chuyển vì chẳng bị dị luận nó lôi kéo lấn đoạt. Bồ đề tâm ấy chẳng thể phá hoạiThiên ma chẳng khuynh đảo được . Bồ đề tâm ấy thường hằng chẳng biến đổi vì là chỗ chứa họp tư lương căn lành. Bồ đề tâm ấy chẳng lay động được vì quyết có thể độc chứng các Phật pháp. Bồ đề tâm ấy khéo an trụ vì khéo an trụ nơi bực Bồ Tát.
 Bồ đề tâm ấy chẳng gián đoạn vì chẳng bị các pháp khác đối trị. Bồ đề tâm ấy như kim cương vì khéo có thể xuyên suốt Phật pháp sâu xa. Bồ đề tâm ấy thắng thiện bình đẳng vì đối với các thứ dục giải của chúng sanh không gì chẳng đồng đều. Bồ đề tâm ấy tối thắng thanh tịnh vì tánh nó chẳng ô nhiễm. Bồ đề tâm ấy không có trần cấu vì phát sanh trí huệ sáng. Bồ đề tâm ấy rộng rãi vô ngại vì gồm nhận tánh tất cả chúng sanh. Bồ đề tâm ấy rộng lớn vô biên vì như hư không. Bồ đề tâm ấy không có chướng ngại vì khiến trí vô ngại đi khắp tất cả vô duyên đại bi chẳng đoạn tuyệt. Bồ đề tâm ấy đáng nên thân cận vì được hàng trí giả khen ngợi . Bồ đề tâm ấy dường như hạt giống vì có thể sanh tất cả các Phật pháp. Bồ đề tâm ấy nó hay gầy dựng vì hay gầy dựng tất cả sự hỉ lạc. Bồ đề tâm ấy phát sanh các nguyện vì do nơi giới thanh tịnh .Bồ đề tâm ấy khó xô diệt được vì do an trụ nơi nhẫn. Bồ đề tâm ấy chẳng bị chế phục vì do chánh tinh tiến. Bồ đề tâm ấy rất tột tịch tịng vì y cứ tất cả đại thiền định. Bồ đề tâm ấy không có kém thiếu vì huệ tư lương khéo viên mãn.
 Lại nầy Xá Lợi Phất ! Bồ đề tâm ấy tức là căn bổn giới định huệ giải thoátgiải thoát tri kiến của đức Như Lai.
 Bồ đề tâm ấy lại là căn bổn thập lực tứ vô úy mùười tám pháp bất cộng của đức Như Lai ».
 Ngài Xá Lợi Phất thưa : « Bồ đề tâm ấy là nói vì tâm ấy dùng Bồ đề làm sanh thể nên gọi là Bồ đề tâm ».
 Đức Phật phán : « Đúng vậy .Nầy Xá Lợi Phất ! Vì chư đại Bồ Tát thành tựu tín nguyện Bồ đề tâm nên gọi là Bồ đề Tát đỏa, là Quảng Đại Tát Đỏa ,là Cực Diệu Tát Đỏa , cũng gọi là thân nghiệp không lỗi , ngữ nghiệp không lỗi , ý nghiệp không lỗi ,thân nghiệp thanh tịnh, ngữ nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh, thân nghiệp vô động, ngữ nghiệp vô động, ý nghiệp vô động. Vì đại Bồ Tát có đủ các nghiệp thanh tịnh như vậy nên chẳng bị thiên ma và chúng ma quân phá rối, từ lúc ban đầu phát tâm nhứt thiết trí, tu hành chánh hạnh, từng bực tăng thắng, thiện xảo phương tiện chẳng bị tất cả thế pháp ô nhiễm, có thể vì chúng sanh mà làm đại đạo sư, thắng đạo sư, phổ đạo sư, làm đuốc sáng lớn, nấc thang lớn, làm cầu ,làm thuyền, làm người tế độ, làm bờ kia, làm nhà , làm người cứu, làm chỗ về chỗ đến.
 Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát phát tâm nhứt thiết trí như vậy thì ma và quân ma không khuynh động được ».
 Đức Phật lại phán dạy Ngài Xá Lợi Phất : « Chư đại Bồ Tát do đủ tín nguyện thanh tịnh như vậy phát tâm Vô thượng Bồ đề xong thì nhiều lòng tin thanh tịnh,thìch thấy các bực hiền thánh, ưa nghe chánh pháp, chẳng bỏn sẻn, mở rộng lòng và tay mà bố thí lớn, vui thích sự xả bỏ và sự bố thí đồng đều. Đối với tất cả chúng sanh, lòng Bồ Tát không chướng ngại, không nhơ đục, không rối loạn, chẳng xen tạp. Đối với nghiệp nhơn và nghiệp quả báo, lòng Bồ Tát rất phụng kính không nghi ngờ không lo lắng, biết pháp thiện ác quả báo chẳng hư mlất, dầu gặp lúc nạn nguy đến tánh mạng cũng chẳng sanh khởi điều ác, chẳng sát sanh trộm cướp tà dâm vọng ngữ ly gián ngữ ác ngữ ỷ ngữ tham nhiễm sân hậnngu si tà kiến.Vì dứt nghiệp đạo bất thiện như vậy mà Bồ Tát phụng hành mười nghiệp đạo lành . Do vì đủ lòng tin nên đối với các Sa Môn , Bà La Môn chánh chí hạnh đủ đức giới, tâm Bồ Tát thuần thanh tịnh thành tựu pháp điều thuê(n, đầy đủ đa văn, siêng học hỏi tu chánh tác ý điều thiện tịch tịnh, gần gũi tịch diệt chẳng phát khởi tránh tụng sai trái những lời thô ác, khéo biết tín nguyện chẳng phải là chẳng khéo biết, tương ưng với thiện pháp, lìa xa ác pháp , chẳng cao ngạo bồng bột ,tánh rời lìa tháo động , tánh rời lià lời thô ác, lời nói không phù tạp , giữ chánh niệm, tâm an trụ nơi diệu định, khéo dứt gốc sanh tử chẳng trúng tên độc ,rời bỏ gánh nặng vượt khỏi nghi ngờ lo lắng và thân sanh tử đời sau. Đối với những thiện hữu tri thức như chư Phật Thế Tôn, đại Bồ Tát, Thanh VănDuyên Giác,khi đã biết rõ rồi thì thân cậnkính ngưỡng thờ phụng.Lại đem pháp thí nhiếp thọ tuyên thuyết diệu pháp chỉ dạy vui mừng.Những là nếu thật hành đàn na thì được giàu có lớn, nếu thật hành thi la thì được sanh lên trời hưởng lạc , nếu thích đa văn thì được trí huẽ lớn, nếu tu thiền thì rời hệ phược. Lại mở bày nhiều thứ pháp thù thắng vi diệu thanh tịnh : đây là bố thí, đây là báo bố thí, đây là bỏn sẻn, đây là báo bỏn sẻn, đây là thi la, đây là báo thi la, đây là phạm giới, đây là báo phạm giới, đây là nhẫn nhục, đây là báo nhẫn nhục, đây là sân hận, đây là báo sân hận, đây là chánh cần, đây là báo chánh cần, đây là giải đãi, đây là báo giải đãi , đây là tịnh lự , đây là báo tịnh lự , đây là loạn tâm, đây là báo loạn tâm, đây là trí huệ, đây là báo trí huệ, đây là ác huệ, đây là báo ác huệ, đây là thân diệu hạnh, đây là báo thân diệu hạnh, đây là thân ác hạnh, đây là báo thân ác hạnh, đây là ngữ diệu hạnh, đây là báo ngữ diệu hạnh, đây là ngữ ác hạnh, đây là báo ngữ ác hạnh, đây là ý diệu hạnh, đây là báo ý diệu hạnh, đây là ý ác hạnh, đây là báo ý ác hạnh, đây là thiê(n đây là bất thiê(n, đây nên làm , đây chẳng nên làm, đây nếu được làm rồi thì mãi mãi lợi ích an vui, đây nếu làm rồi thì mãi mãi bị khổ không lợi ích.
 Nầy Xá Lợi Phất ! Vì hàng thiện hữu , hành gỉa tuyên thuyết những phápo như trên để được lợi mừng rồi, biết rõ người kham làm đại pháp khí thì liền khai thị pháp không thậm thâm vi diệu , đó là pháp không , pháp vô tướng, pháp vô nguyện, pháp vô hành, pháp vô sanh, pháp vô khởi, pháp vô ngã ,pháp không sát thủ, pháp không thọ mạng, pháp không chúng sanh.Lại khai thị duyên khởi thậm thâm : đó là do vì đây có nên kia có, đây sanh nên kia sanh, vô minh làm duyên cho hành, hành làm duyên cho thức, thức làm duyên cho danh sắc, danh sắc làm duyên cho lục xứ, lục xứ làm duyên cho xúc, xúc làm duyên cho thọ, thọ làm duyên cho ái, ái làm duyên cho thủ, thủ làm duyên cho hữu, hữu làm duyên cho sanh, sanh làm duyên cho lão tử sầu thán ưu khổ thân tâm nhiệt não, các thứ sanh khởi khối thuần khổ to lớn như vậy.
 Lại đây không nên kia không, đây diệt nên kia diệt, đó là vô minh diệt nên hành diệt , hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt ,danh sắc diệt nên lục xứ diệt, lục xứ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt , hữu diệt nên sanh diệt,sanh diệt nên lão tử diệt nhẫn đến sầu thán ưu khổ thân tâm nhiệt não, các thứ sanh khởi khối thuần khổ to lớn diệt.
 Nầy Xá Lợi Phất ! Lại nên diễn nói trong ấy không có một pháp nào là có thề được có mà diệt được. Tại sao ? Vì các pháp kia đều từ nhơn duyên sanh khôngchủ tể không có tác giả không có thọ giả theo nhơn duyên chuyển đổi. LạI cũng không có một pháp nào lưu chuyển đổi.LạI cũng không có một pháp nào lưu chuyển xoay vần , cũng không chuyển vận theo. Chỉ do vì si vọng mà giả lập ba cõi theo phiền não khổ mà lưu chuyển, chỉ là giả đặt để.
 Lúc hành gỉa như thiệt quán sát si vọng, không có một pháp nào có thể tạo ra pháp khác, trong ấy không có tác giảtác giả bất khả đắc, nhẫn đến không có một pháp lưu chuyển xoay vần vì lưu chuyển bất khả đắc vậy.
 Nầy Xá LợI Phất ! Hành giả nếu nghe pháp thậm thâm như vậy rồI mà không nghi không lo, khéo nhập vào tánh vô chướng ngạI của các pháp , thì hành giả nầy chẳng chấp trước nơi sắc uẩn, chẳng trước nơi thọ tưởng hành thức uẩn, chẳng trước nhãn sắc và nhãn thức, chẳng trước nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc , ý pháp và nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức , ý thức, vì tất cả đều bất khả đắc vậy.
 LạI nầy Xá LợI Phất ! ĐạI Bồ Tát tín thọ pháp tánh không như vậy rồI thì chẳng thốI thất sự thấy Phật nghe Pháp và phụng Tăng. ĐờI đờI sanh ra nơi đâu đều chẳng rờI sự thấy Phật, nghe Pháp và phụng Tăng, mà sanh ra trước chỗ đức Phật chuyên cần tinh tiến chí cầu pháp lành. NgườI ấy an trụ chánh cần rồI chẳng luyến ở nhà vớI nam nữ quyến thuộc tôi tớ và tài sản. NgườI nầy chẳng bị dâm dục làm phiền nhiễu, ở đờI hiệntạI mau bỏ sự lạc thú của tuổI trẻ, dùng lòng tịnh tín ở trong Phật phápxuất gia nhập đạo. Sau khi xuất gia được các bực thiện tri thức thầy lành bạn lành, tư duy lành , tín nguện lành. Do vì tín nguyện lành nên khéo nghe học chánh pháp kiên quyết tu hành, chẳng phảI chỉ có ngôn thuyết là trọn đủ. NgườI nầy giác huệ thành tựu ưa thích học hỏI nhiều không chán đủ. Dùng tâm vô nhiễm đem pháp đã được nghe mà giảng nói cho người. ĐốI vớI lợI dưỡng danh dự cung kính không có lòng hi vọng. Chẳng bao giờ bỏ chánh nghĩa mà vọng thuyết pháp. Đúng nhê pháp đã nghe , đúng như pháp đã an trụ mà giảng thuyết . ĐốI vớI chúng nghe pháp thì sanh lòng đạI từ . ĐốI vớI chúng sanh thì sanh lòng đạI bi.
 Nầy Xá LợI Phất ! Hành giả vì có đa văn trí huệ như vậy nên chẳng đoái thân mạng thiểu dục tri túc tịnh thơ thớI, dễ cung cấp dễ nuôi, thường thích vắng lặng rảnh rang suy gẫm ý nghĩa chánh pháp đã được học. Y theo thiệt nghĩa mà chẳng theo văn. NgườI nầy làm chỗ y chỉ cho TrờI, NgườI , A Tu La v.v… Chẳng chuyên vì mình mà vì các chúng sanh cầu đại thừa như là Phật trí , vô đẳng trí, vô đẳng đẳng trí, thắng xuất Tam giới trí.
 Nầy Xá Lợi Phất ! Ta nói người ấy được pháp chẳng phóng dật đệ nhứt.
 Nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là pháp chẳng phóng dật ? Đó là các căn tịch tịnh.
 Những gì là các căn tịch tịnh ? Đó là mắt thấy sắc chẳng lấy tướng mạo ,như thiệt biết rõ sắc say đắm , sắc họa hoạn và sắc xuất ly.
 Như vậy ,tai nghe tiếng , mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân giác xúc, ý biết pháp chẳng lấy tướng mạo , như thiệt biết rọ pháp say đắm pháp họa hoạn và pháp xuất ly.
 Nầy Xá Lợi Phất ! Đó gọi là tâm chẳng phóng dật.
 Lại chẳng phóng dậtđiều phục tự tâm khéo hộ tâm người trừ lòng thích phiền não mà thích chánh pháp. Chẳng mống khởi quan niệm tham dục sân hận tàn hại. Chẳng phát khởi ba căn bất thiện , tham sân và si. Chẳng phát khởi thân ác hạnh, ngữ ác hạnh và ý ác hạnh. Chẳng phát khởi tác ý chẳng đúng lý . Chẳng phát khởi tất cả pháp ác bất thiện. Đây thì gọi là chẳng phóng dật vậy.
 Nầy Xá Lợi Phất ! Chư đại Bồ Tát ấy đã chẳng phóng dật , siêng tu tập tác ý đúng pháp , nếu pháp là có thì biết có đúng thiệt. Nếu pháp là không có thì biết đúng thiệt là không có. Quán sát trong ấy những gì là có , những gì là không có, liền dùng sức trí huệ liền biết đúng thiệt.
 Nếu chánh tu tập thì thánh giải thoát có. Nếu tà tu tập thì thánh giải thoát không có.
 Không nghiệp báo đó, đây là có.
 Có nghiệp báo đó, đây là không có.
 Lại nữa , nhãn là có, còn có nhãn là không có . Nhẫn đến ý là có , còn có ý là không có.
 Lại nữa , sắc là pháp vô thường khổ biến dị, đây là có. Còn sắc là thường trụ chẳng biến chẳng hoại, đây là không có.
 Nhẫn đến thọ tưỡng hành và thức vô thường khổ biến dị , đây là có. Còn thọ tưởng hành và thức thường trụ chẳng biến chẳng hoại n đây là không có.
 Lại nữa ,vô minh là duyên thì có các hành .Nếu không vô minh thì các hành là không có.
 Nhẫn đến dùng sanh làm duyên thì có lão tử. Nếu không sanh thì lão tử là không có.
 Lại nữa, bố thí cảm giàu có, đây là có .Còn bố thí cảm bần cùng, đây là không có.
 Trì giới sanh thiên, đây là có .Còn phạm giới sanh thiên , đây là không có.
 Chánh văn sanh đại trí huệ, đây là có . Các ác huệ mà hay sanh đại trí huệ, đây là không có.
 Tu chánh định rời lìa hệ phược, đây là có .Tu chánh định mà bị hệ phược, đây là không có.
 Lại nếu tác ý đúng lý mà có hệ phượctác ý chẳng đúng lý mà rời hệ phược thì cả hai đều không có.
 Nếu chư Bồ Tát phát khởi chánh cần thì có Bồ đề, nếu phát khởi giải đãi thì không có Bồ đề.
 Nếu không kiêu mạn xuất gia thọ ký đây gọi là có, nếu kiêu mạn thì không có tịch diệt.
 Lải khắp tất cả chỗ tánh không , đây là có . Khắp tất cả chỗ có ngã, sát thủ, chúng sanh , thọ mạng , trượng phu v.v… đây là không có.
 Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu chư đại Bồ Tát thật hành chẳng phóng dật , có thể khéo tu tập ,tác ý đúng lý, người trí thế gian đồng biết là có thì thi thiết là có, người trí thế gian đồng biết là không có thì thi thiết là không có.
 Nầy Xá lợi Phất ! Nếu quyết định nói có thì chẳng phải chánh liễu tri, nếu quyết định nói không có cũng gọi là chẳng phải chánh liễu tri. Tại sao ? Vì thiệt nghĩa được chư Phật Thế Tôn tuyên nói , có thể liền hiểu rõ được.
 Nầy Xá LợI Phất ! Chư Phật Thế Tôn đủ sức đạI trí tổng nhiếp các pháp đặt trong bốn thứ ô đà nam.
 Những gì là bốn thứ ?
 Đó là tất cả hành vô thường , tất cả hành khổ , tất cả pháp vô ngã , Niết Bàn tịch diệt.
 Nầy Xá Lợi Phất ! Tất cả hành vô thường được diễn nói , đó là đức Như Lai vì các chúng sanh quan niệm thường còn mà dứt trừ quan niệm thường còn của họ.
 Tất cả hành khổ được diễn nói , đó là đức Như Lai vì các chúng sanh quan niệm vui mà dứt trừ quan niệm vui của họ.
 Tất cả pháp vô ngã được diễn nói , đó là đức Như Lai vì các chúng sanh quan niệm ngã mà dứt trừ quan niệm ngã của họ.
 Pháp Niết Bàn tịch diệt được diễn nói , đó là đức Như Lai vì các chúng sanh hữu sở đắc điên đảo mà dứt trừ tâm hữu sở đắc điên dảo của họ.
 Nầy Xá lợi Phất ! Chư đại Bồ Tát ấy nếu nghe đức Như Lai nói tất cả hành vô thường thì có thể nhập vào rốt ráo vô thường .Nếu có nghe tất cả hành khổ thì có thể phát khởi tâm chán lìa mong muốn.Nếu có nghe tất cả pháp vô ngã thì có thể tu tập pháp môn chánh định diệu giải thoát. Nếu có nghe nói tịch diệt Niết Bàn thì có thể tu tập chánh định vô tướng mà chẳng phi thời nhập vào chơn tế .
 Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu chư đại Bồ Tát khéo tu tập được pháp như vậy thì trọn chẳng thối thất tất cả pháp lành và mau viên mãn tất cả Phật pháp”.

 PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
 PHẨM THÍ NGHỆM BỒ TÁT
 THỨ BA
 HẾT
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29920)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27213)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21817)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22275)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23648)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20471)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20083)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21973)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24792)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19027)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24803)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31017)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24028)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27798)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26567)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21387)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23252)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38198)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18823)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18455)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20014)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19077)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23214)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23920)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22850)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22962)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29625)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20659)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18748)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15881)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18883)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19714)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20201)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19981)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18154)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22991)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34222)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16451)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16952)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39308)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26131)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20137)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18889)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24105)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29189)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22941)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 31006)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21052)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26893)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20716)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26295)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23364)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19847)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24710)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30057)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20251)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20439)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15174)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15856)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23938)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant