Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8156)
10. Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999


 X
 PHÁP HỘI
 VĂN THÙ SƯ LỢI PHỔ MÔN
 THỨ MƯỜI

 (Hán Bộ trọn quyển thứ 29)
 Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
 Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

 Như vậy, tôi nghe một lúc đức Phật ở thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật câu hộI vớI tám trăm đạI Tỳ Kheo và bốn muôn hai ngàn đạI Bồ Tát.

 Bấy giờ có Bồ Tát tên Vô Cấu Tạng cùng chúng Bồ Tát chín muôn hai ngàn cung kính vây quanh từ hư không đến.

 Đức Thế Tôn liền bảo đạI chúng rằng chư Bồ tát ấy được Phổ Hoa Như Laithế giớI Biến Thanh Tịnh Hạnh khuyến cáo đến thế giớI Ta Bà nầy để được nghe ta giảng dạy pháp môn Phổ Nhập Bất Tư Nghị.Chư Bồ Tát khác cụng sẽ đến họp.

 Đức Thế Tôn tuyên bố xong ,các chúng Bồ Tát đông vô lượng vô biên ở cõi khác và cõi nầy đều đến núi Kỳ Xà Quật đảnh lễ chưn Phật rồi ngồI qua một phía.

 Ngài Vô Cấu Tạng Bồ Tát tay cầm hoa sen thất bửu ngàn cánh đến chỗ đức Như Lai đầu mặt lạy chưn Phật mà bạch rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Đức Phổ Hoa Như Laithế giớI Biến Thanh Tịnh Hạnh sai tôi mang hoa báu nầy dâng đức Thế Tôn.Ngài ân cần thăm hỏI đức Thế Tôn vô lượng ít bịnh í não khỏe mạnh an vui”.

 Bạch xong, Ngài Vô Cấu Tạng Bồ Tát liềnbay lên hư không ngồI kiết gìa.

 Ngài Văn Thù Sư LợI Bồ Tát rờI chỗ ngồI trịch y vai hữu quỳ gốI hữu cung kính chắp tay mà bạch đức Phật rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Tôi nhớ thuở xưa đã từng nghe đức Phổ đăng Phật nói pháp môn Phổ Nhập Bất Tư Nghị.Lúc ấy tôi được tám ngàn bốn trăm ức na do tha tam muộI,lạI biết được bảy mươi bảy mươi bảy muôn ức na do tha tam muội.

 Lành thay đức Thế Tôn ! Mong đức Thế Tôn xót thương vì chư Bồ Tát mà dạy pháp môn ấy”.

 Đức Phật phán : “ Nầy Văn Thù Sư LợI ! Nay ông lắng nghe khéo suy nghĩ,ta sẽ nói cho”.

 Ngài Văn Thù Sư LợI Bồ Tát bạch rằng : “ Vâng ! Bạch đức Thế Tôn ! Tôi xin được nghe”.

 Đức Phật dạy : “Nầy Văn Thù Sư LợI ! Nếu chư Bồ Tát muốn học pháp ấy thì phảI tu tập các môn tam uội. Đó là sắc tướng tam muộI, thanh tướng tam muộI, hương tướng tam muộI, vị tướng tam muộI, xúc tướng tam muộI, ý giớI tam muộI, nam tướng tam muộI, nữ tướng tam muộI, đồng nam tường tam muộI, đồng nữ tướng tam muộI, thiên tướng tam muộI, long tướng tam muộI,dạ xoa tường tam muộI, càn thát bà tướng tam muộI, a tu la tướng tam muộI, ca lâu la tướng tam muộI, khẩn na la tướng tam muộI, ma hầu la già tướng tam muộI, địa ngục tướng tam muộI, súc sanh tướng tam muộI, diêm ma la giớI tam muộI, tham tướng tam muộI, sân tướng tam muộI, si tướng tam muộI,bất thiện pháp tam muộI, thiện pháp tam muộI, hữu vi tam muộI, vô vi tam muội.

 Nầy Văn Thù Sư LợI ! Nơi các tam muộI ấy,nếu chư Bồ Tát khéo thông đạt thì đã là tu học pháp ấy.

 Nầy Văn Thù Sư LợI ! hế Nào gọI là sắc tướng tam muội ?

 Quán sắc như đống bọt
 Nó không có chắc thiệt
 Vì chẳng nắm giữ được
 Đó tên sắc tam muội.

 LạI nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào gọi là thanh tướng tam muội?

 Quán thanh như âm vang
 Tánh nó bất khả đắc
 Các pháp cũng như vậy
 Không tướng không sai biệt
 Biết rõ đều tịch tịnh
 Đó tên thanh tam muội.

 LạI nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào gọi là hương tướng tam muội?

 Dầu là trăm ngàn kiếp
 Thường ngửI các thứ hương
 Như biển nạp các dòng
 Mà không hề chán đủ
 Hương ấy nếu là thiệt
 Lẽ ra phảI đầy đủ
 Chỉ có danh tự gỉa
 Kỳ thiệt bất khả đắc
 Mũi cũng vô sở hữu
 Biết rõ tánh không tịch
 Đó tên hương tam muội.

 LạI nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào gọi là vị tướng tam muội ?

 LưỡI kia chỗ nếm biết
 Mặn chua các thứ vị
 Đều từ các duyên sanh
 Tánh nó vô sở hữu
 Nếu biết được như vậy
 Nhơn duyên hòa hiệp khởI
 Biết nghĩa bất tư nghị
 Đó tên vị tam muội.

 LạI nầy Văn Thù Sư LợI ! Thế nào gọI là xúc tướng tam muội?

 Xức chỉ có danh tự
 Tánh nó bất khả đắc
 Mịn trơn ấm các pháp
 Đều từ các duyên sanh
 Nếu biết được xúc tánh
 Nhơn duyên hòa hiệp khởI
 Rốt ráo vô sở hữu
 Đó tên xúc tam muội.

 LạI nầy Văn Thù Sư LợI ! Thế nào gọI là ý giớI tướng tam muộI?

 Dầu hợp cả ĐạI Thiên
 Vô lượng các chúng sanh
 Nhứt tâm đồng suy tìm
 Ý GiớI bất khả đắc
 Chẳng ở trong hay ngoài
 Cũng chẳng thể tu tập
 Chỉ dùnd những gỉa danh
 GọI là có các tướng
 Dường như là huyễn hóa
 Không trụ không xứ sở
 Biết rõ nó tánh không
 Đó tên ý tam muội.

 Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào gọi là nam tướng tam muội ?

 Tự cho mình nam tử
 Thấy kia là nữ nhơn
 Do tâm phân biệt nầy
 Mà sanh lòng ái dục
 Lòng dục vô sở hữu
 Tâm tướng bất khả đắc
 Do vì vọng phân biệt
 Nơi thân tưởng là nam
 Trong ấy không thiệt nam
 Ta nói như dương diệm
 Biết nam tướng là không
 Đó tên nam tam muội.

 LạI nầy Văn Thù Sư LợI ! Thế nào gọI là nữ tướng tam muộI ?

 Tứ đạI gỉa làm nữ
 Trong ấy vô sở hữu
 Lòng phàm phu mê hoặc
 Nắm lấy cho là thiệt
 Nữ nhơn như huyễn hóa
 Người ngu chẳng biết được
 Vì vọng thấy nữ tướng
 Mà sanh lòng nhiễm trước
 Ví như huyễn hóa nữ
 Mà chẳng thiệt nữ nhơn
 Kẻ vô trí mê hoặc
 Bèn sanh tưởng ái dục
 Biết rõ như vậy rồi
 Tất cả nữ không tướng
 Tướng nữ đều vắng bặt
 Đó tên nữ tam muội.

 Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào gọi là đồng nam tướng tam muội ?

 Như cây không rễ nhánh
 Thì chẳng có được hoa
 Vì đã chẳng có hoa
 Nên trái cũng chẳng sanh
 Do không có nữ nhơn
 Đồng nam cũng chẳng có
 Tùy ở ngườI phân biệt
 Gỉa gọI tên như vậy
 Biết rõ nữ nhơn ấy
 Và đồng nam chẳng có
 Quan sát dược như vậy
 Là đồng nam tam muội.

 Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào gọi là đồng nữ tướng tam muộI ?

 Như chặt cây đa la
 Trọn chẳng còn sống lại
 Đâu có người trí huệ
 Cầu trái hột trong ấy
 Nếu ai biết rõ được
 Các pháp là vô sanh
 Chẳng nên khởi phân biệt
 Đồng nữ là năng sanh
 Lại như hột lúa cháy
 Mầm lúa chẳng còn sanh
 Đồng nữ cũng như vậy
 Là đồng nữ tam muội.

 Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào gọi là thiên tướng tam muội ?

 Nhơn tính tâm thanh tịnh
 Và do các nghiệp lành
 Thọ thắng báo chư Thiện
 Thân đoan chánh xinh đẹp
 Các cung điện trân bửu
 Chẳng phảI do xây dựng
 Hoa đẹp mạn đà la
 Cũng không ngưới gieo trồng
 Bất tư nghị như vậy
 Đều do sức nghiệp lành
 Hiện được các thứ tướng
 Như lưu ly trong sạch
 Thân đẹp xinh như vậy
 Và các cung điện thảy
 Đều từ hư vọng sanh
 Đó tên thiên tam muội.

 LạI nầy Văn Thù Sư LợI ! Thế nào gọI là lonf tướng tam muộI ?

 Thọ lấy thân loài rồng
 Do chẳng tu hạnh nhẫn
 NổI mây tuôn mưa lớn
 Đầy khắp Diêm Phù Đề
 Chẳng từ thuở trước sau
 Cũng chẳng ở chặng giữa
 Mà hay tuôn nước mưa
 LạI chảy về biển cả
 Các loài rồng như vậy
 Huân tập tánh sai biệt
 KhởI lên các thứ nghiệp
 Nghiệp cũng không có sanh
 Tất cả chẳng chơn thiệt
 Kẻ ngu cho là có
 Biết rõ được như vậy
 Đó là long tam muội.

 Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là dạ xoa tướng tam muội ?

 Là thân đại dạ xoa
 Từ nơi tự tâm khởi
 Trong ấy không có thiệt
 Vọng sanh sự khủng bố
 Cũng không có lòng sợ
 Mà sanh lòng kinh sợ
 Vì quán phap chẳng thiệt
 Vô tướng vô sở đắc
 Chỗ không vô tịch tịnh
 Hiện tướng dạ xoa ấy
 Biết hư vọng như vậy
 Là dạ xoa tam muội.

 Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là càn thát bà tướng tam muội ?

 Họ thiệt không có tướng
 Danh ngôn giả bịa đặt
 Biết tướng là chẳng tướng
 Là càn thát tam muội

 Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là a tu la tướng tam muội ?

 Ấn định tướng tu la
 Tướng ấy vốn vô sanh
 Vô sanh nên vô diệt
 Là tu la tam muội.

 Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là ca lâu la tướng tam muội ?

 Lấy vô thân làm thân
 Danh tự giả bịa đặt
 Danh tướng vô sở hữu
 Là ca lâu tam muội.

 Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là khẩn na la tướng tam muội ?

 Pháp vô tác làm tác
 Gọi là khẩn na la
 Biết đó là vô sanh
 Khẩn na la tam muội.

 Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là ma hầu la gìa tướng tam muội ?

 Kia do nơi danh tự
 Theo thế tục an lập
 Trong ấy không có pháp
 Mà vọng khởI phân biệt
 Biết rõ phân biệt ấy
 Tự tánh vô sở hữu
 Vì tướng ấy tịch tịnh
 Ma hầu la tam muội.

 Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là địa ngục tướng tam muội ?

 Điạ ngục không vô tướng
 Tánh ấy rất thanh tịnh
 Trong ấy không tác giả
 Do Tự phân biệt sanh
 Lúc ta ngồI đạo tràng
 Biết tướng vô sanh nầy
 Vì vô tướng vô sanh
 Tánh ấy như hư không
 Tướng ấy đều tịch tịnh
 Là điạ ngục tam muội.

 Lại nầy Văn Thù Sư ợi i Thế nào là súc sanh tướng tam muội ?

 Như mây hiện hình sắc
 Trong ấy không có thiệt
 Làm cho ngườI vô trí
 Nơi ấy sanh mê hoặc
 Nơi loài súc sanh kia
 Thọ lấy các thứ thân
 Như mây trong hư không
 Hiện ra các sắc tượng
 Biết rõ nghiệp như huyễn
 Chẳng sanh lòng mê hoặc
 Tướng ấy vốn tịch tịnh
 Là súc sanh tam muội.

 Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là diêm ma la giới tướng tam muội ?

 Gây tạo thuần nghiệp ác
 Và tạo các nghiệp tạp
 Lưu chuyển cõi Diêm La
 Thọ lấy các sự khổ
 Thiệt không cõi Diêm La
 Cững không người lưu chuyển
 Tự tánh vốn vô sanh
 Các khổ dường cảnh mộng
 Nếu quán được như vậy
 Diêm ma la tam muội.

 Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là tham tướng tam muội ?

 Tham từ phân biệt sanh
 Phân biệt cũng chẳng có
 Vô sanh cũng vô tướng
 Trụ xứ bất khả đắc
 Tham tánh như hư không
 Cũng không có kiến lập
 Phàm phu vọng phân biệt
 Do đó sanh tham nhiễm
 Pháp tánh vốn vô nhiễm
 Thanh tịnh như hu không
 Tìm cầu khắp mườI phương
 Tánh nó bất khả đắc
 Vì chẳng biết tánh không
 Thấy tham sanh lòng sợ
 Không có sợ sanh sợ
 Ở đâu đươc an vui
 Ví như kẻ ngu si
 Sợ sệt cõi hư không
 Vì sợ mà rong chạy
 Lánh không chẳng muốn thấy
 Hư không khắp tất cả
 Chỗ nào rờI nó được
 Vì kẻ ngu mê hoặc
 Sanh điên đảo phân biệt
 Tham vốn không tự tánh
 Vọng sanh tâm nhàm lìa
 Như ngườI muốn lánh không
 Trọn không thoát khỏI được
 Các pháp tánh tự lìa
 Dường như là Niết bàn
 Chư Phật trong ba đờI
 Biết tham tánh là không
 Ở trong cảnh giớI ấy
 Chưa lúc nào bỏ lìa
 NgườI kinh sợ nơi tham
 Suy gẫm cầu giảI thoát
 Tham tự tánh như vậy
 Rốt ráo thường thanh tịnh
 Lúc ta chứng Bồ đề
 Rõ thấu đều bình đẳng
 Nếu chấp tham là có
 Sẽ bỏ lìa nơi tham
 Do hư vọng phân biệt
 Mà nói bỏ lìa tham
 Đây là tâm phân biệt
 Thìệt không gì để bỏ
 Tánh nó bất khả đắc
 Cũng không có diệt hoại
 Trong bình đẳng thiệt tế
 Không giảI thoát phân biệt
 Nếu giảI thoát nơi tham
 Nơi không cũng giảI thoát
 Hư không cùng vớI tham
 Vô tận vô sai biệt
 Nếu ai thấy sai biệt
 Phật bảo phải bỏ rời
 Tham thiệt không có sanh
 Vọng khởI sanh phân biệt
 Tham ấy bổn tánh không
 Chỉ có danh tự giả
 Chẳng nên do giả danh
 Mà sanh lòng chấp trước
 Vì biết tham không nhiễm
 Thì là rốt ráo không
 Chẳng do diệt hoạI tham
 Mà được nơi giảI thoát
 Pháp tham ở Phật pháp
 Bình đẳng tức Niết Bàn
 NgườI trí phảI nên biết
 Rõ tham tịch tịnh rồI
 Nhập vào cõi tịch tịnh
 Đó tên tham tam muội.

 LạI nầy Văn Thù Sư LợI ! Thế nào là sân tướng tam muộI ?

 Do nhơn duyên hư vọng
 Mà khởI lòng giận dữ
 Không ngã chấp làm ngã
 Và do tiếng thô ác
 KhởI lòng sân quá mạnh
 Dường như là á độc
 Âm thanhgiận dữ
 Rốt ráo vô sở hữu
 Như Dùi gỗ ra lửa
 Cần nhờ sức các duyên
 Nếu duyên chẳng hòa hiệp
 Thì lửa chẳng sanh được
 Âm thanh chẳng đẹp ý
 Rốt ráo vô sở hữu
 Biết thanh tánh là không
 Sân cũng chẳng còn sanh
 Sân chẳng ở nơi thanh
 Cũng chẳng ở trong thân
 Nhơn duyên hòa hiệp khởI
 RờI duyên chẳng sanh được
 Như nhơn sữa làm duyên
 Hòa hiệp sanh tô lạc
 Sân tự tánh không khởI
 Nhơn nơi tiếng thô ác
 NgườI ngu chẳng biết được
 Nhiệt não tự đốt cháy
 PhảI nên biết như vầy
 Rốt ráo vô sở hữu
 Sân tánh vốn tịch tịnh
 Chỉ có nơi giả danh
 Giận dữ tức thiệt tế
 BởI nương chơn như khởI
 Biết rõ như pháp giớI
 Thì gọI sân tam muộI

 Lạy nầy Văn Thù Sư LợI ! Thế nào là si tướng tam muộI ?

 Vô minh thể tánh không
 Vốn tự không sanh khởi
 Trong ấy không chút pháp
 Mà nói được là si
 Phàm phu nơi vô si
 Hư vọng sanh lòng si
 Nơi vô trước sanh trước
 Dường như gút hư không
 Lạ thay cho kẻ ngu
 Chẳng nên làm mà làm
 Các pháp đều chẳng có
 Do nhiễm phân biệt sanh
 Như muốn lấy hư không
 An trí ở một chỗ
 Dầu trảI ngàn muôn kiếp
 Không hề tích tụ được
 Kẻ ngu từ hồI nào
 TrảI bất tư nghị kiếp
 Vọng khởI gút ngu si
 Mà không chút phần tăng
 Như người lấy hư không
 Không bao giờ tăng giảm
 Nhóm ngu si nhiều kiếp
 Không tăng giảm cũng vậy
 Lại như ống bễ kia
 Rút gió không hạn lượng
 Ngu sidục lạc
 Không lúc nào chán đủ
 Si ấy vô sở hữu
 Không căn không trụ xứ
 Vì căn chẳng phải có
 Cũng không si để tận
 Bởi vì si vô tận
 Biên tế bất khả đắc
 Thế nên các chúng sanh
 Ta chẳng thể làm tận
 Dầu ta trong một ngày
 Độ được cõi Đại Thiên
 Có bao nhiêu chúng sanh
 Đều khiến nhập Niết Bàn
 Trải qua bất tư nghì
 Vô lượng ngàn muôn kiếp
 Ngày ngày độ như vậy
 Chúng sanh giới chẳng tận
 Si giới chúng sanh giới
 Cả hai đều vô tướng
 Nó đều như huyễn hoá
 Nên chẳng làm tận được
 Si tánh với Phật tánh
 Bình đẳng không sai khác
 Nếu phân biệt nơi Phật
 Người ấy ở ngu si
 Si và Nhứt thiết trí
 Tánh đều bất khả đắc
 Nhưng các chúng sanh ấy
 VớI si đều bình đẳng
 Chúng sanh bất tư nghị
 Si cũng bất tư nghị
 Do vì bất tư nghị
 Chẳng nên khởI phân biệt
 Tâm tư duy như vậy
 Suy lường bất khả đắc
 Si cũng chẳng thể lường
 Vì nó không biên tế
 Đã không có biên tế
 Từ đâu mà sanh được
 Vì tự tánh vô sanh
 Tướng cũng bất khả đắc
 Biết si không có tướng
 Quán Phật cũng như vậy
 PhảI nên biết như vậy
 Tất cả pháp không hai
 Tánh si vốn tịch tịnh
 Chỉ có danh tự giả
 Lúc ta chứng Bồ đề
 Cũng rõ si bình đẳng
 Quán sát được như vậy
 Gọi là si tam muội.

 Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là bất tiện tam muội ?

 Biết tham sân si ấy
 Tất cả các phiền não
 Có bao nhiêu hành tướng
 Hư vọng không chơn thiệt
 Quan sát được như vậy
 Là bất thiện tam muội.

 Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là thiện pháp tam muội ?

 Các ông phải nên biết
 Những người sở thích thiện
 Tâm niệm đều sai khác
 Đều đồng nơi một hạnh
 Dùng một tướng xuất ly
 Mà biết rõ tất cả
 Vì thảy đều tịch tịnh
 Gọi là thiện tam muội.

 Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là hữu vi tam muội ?

 Các ông phải nên biết
 Tất cả pháp hữu vi
 Chẳng phải sở tạo tác
 Cũng không cân lường được
 Ta biết rõ các hành
 Tánh nó không chứa họp
 Tất cả đều tịch tịnh
 Gọi hữu vi tam muội.

 Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là vô vi tam muội ?

 Tánh vô vi tịch tịnh
 Trong ấy không sở trước
 Cũng lạI chẳng xuất ly
 Chỉ có danh tự giả
 Vì chúng sanh chấp trước
 Mà nói danh tự ấy
 Biết rõ được như vậy
 Là vô vi tam muội ».

 Lúc đức Thế Tôn nói kệ bất tư nghị vi diệu như vậy,có chín muôn hai ngàn Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn.Ba muôn sáu ngàn Tỳ Kheo dứt hết phiền não tâm được giải thóat.Bảy mươi hao muôn ức na do tha chư Thiên, sáu ngàn Tỳ Kheo Ni,một trăm tám mươi muôn ưu Bà Tắc,hai ngàn hai trăm Ưu Bà Di đều phát tâm Vô thượng Bồ đề.

 Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát lại bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Mong đức Thế Tôn vì chư Bồ Tát mà diễn nói danh tự của các môn tam muội.Làm cho ngườI nghe các căn thông lợI được trí huệ sáng đốI vớI các pháp, chẳng bị khuất phục bởI những chúng sanh tà kiến, cũng là cho họ chứng được bốn vô ngạI biên tài, nơi một văn tự mà biết được các thứ văn tự,nơi các thứ văn tự .LạI dùng vô biên biện tài và các chúng sanh mà khéo thuyết pháp, cũng làm cho chứng được thậm thâm pháp nhẫn, trong một sát na biết tất cả hành,tất cả hành ấy mỗI hành lạI có vô biên hành tướng đều biết rõ được cả ».

 Đức Phật dạy : « Nầy Văn Thù Sư LợI ! Có tam muộI tên Vô biên ly cầu .Nếu Bồ Tát được tam muộI ấy thì hiện được tất cả các sắc thanh tịnh.

 Có tam muội tên Khả úy diện.Bồ Tát được tam muộI ấy có oai quang lớn chói che nhựt nguyệt.

 Có tam muộI tên Xuất diệm quang.Bồ Tát được tam muội ấy thì chói che được ánh sáng của tất cả Đế ThíchPhạm Thiên.

 Có tam muộI tên Xuất ly.Bồ Tát được tam muội ấy làm cho chúng sanh xuất ly tất cả tham sân si.

 Có tam muộI tên Vô ngạI quang.Bồ Tát được tam muộI ấy thì chiếu sáng được tất cả Phật quốc.

 Có tam muộI tên Vô vong thất.Bồ Tát được tam muội ấy thì thọ trì được giáo pháp của chư Phật nói,và cũng có thể vì người khác mà diễn nói nghĩa Phật pháp.

 Có tam muộI tên Lôi âm.Bồ Tát được tam muội ấy thì khéo có thể hiển thị tất cả ngôn âm lên đến trời Phạm Thiên.

 Có tam muộI tên Hỉ lạc.Bồ Tát được tam muộI ấy có thể làm cho chúng sanh đầy đủ hỉ lạc.

 Có tam muộI tên Hỉ vô yểm.Bồ Tát được tam muộI ấy, có ai thấy nghe Ngài đều không chán đủ.

 Có tam muộI tên Chuyên nhứt cảnh nan tư công đức.Bồ Tát được tam muội ấy có thể thị hiện tất cả thần biến.

 Có tam muộI tên Giải nhứt thiết chúng sanh ngữ ngôn.Bồ Tát được tam muội ấy thì khéo tuyên nói được tất cả ngữ ngôn.Trong một chữ nói tất cả chữ biết tất cả chữ đồng như một chữ.

 Có tam muộI tên Siêu nhứt thiết đà la ni vương.Bồ Tát được tam muội ấy thì khéo biết rõ được các đà la ni.

 Có tam muộI tên Nhứt thiết biện tài trang nghiêm.Bồ Tát được tam muội ấy thì khéo phân biệt được tất cả văn tự và các thứ ngôn âm.

 Có tam muội tên Tích tập nhứt thiết thiện pháp.Bồ Tát được tam muội ấy có thể làm cho chúng sanh đều nghe tiếng Phật,tiếng Pháp, tiếng Tăng,tiếng Thanh Văn,tiếng Duyên Giác,tiếng Bồ Tát, tiếng Ba la mật.Lúc Bồ Tát trụ tam muội như vậy thì làm cho các chúng sanh nghe tiếng ấy không dứt ».

 Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch rằng : « Mong đức Thế Tôn gia hộ cho tôi được vô ngại biện tài để nói công đức thù thắng của pháp môn ấy ».

 Đức Phật nói : « Lành thay, lành thay ! Tùy ý nguyện của ông ».

 Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát lại bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Bồ Tát nơi pháp môn ấy mà thọ trì đọc tụng không có nghi hoặc, thì nên biết rằng người nầy ở trong thân hiện tại được bốn thứ biện tàithiệp tật biện tài, quảng đại biện tài,thậm thâm biện tàivô tận biện tài.Tâm Ngài thường hộ niệm các chúng sanh tùy chỗ tu hành của họ. Người nào sắp thối thất hư hoại, Ngài đều có thể giác ngộ họ cho họ không thối hoại ».

 Đức Thế Tôn khen : « Lành thay, lành thay ! Văn Thù Sư Lợi có thể khéo phân biệt được nghĩa ấy.Như người bố thí được báo giàu có lớn, người trì cấm giới quyết định sanh thiên,người có thể thọ trì được kinh điển nầy thì hiện đời được biện tài quết không hư vọng.

 Như ánh sáng mặt trời chiếu ra thì trừ được tối tăm,như Bồ Tát ngồi tòa Bồ đề thành Đẳng Chánh Giác quyết định không nghi, người thọ trì đọc tụng kinh điển nầy thì hiện đời dược biện tài cũng như vậy.

 Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Nếu có người ở hiện đời muốn cầu biện tài thì nơi kinh điển nầy phải tin ưa thọ trì đọc tụng vì người mà giảng rộng chớ sanh lòng nghi hoặc ».

 Bấy giờ Ngài Vô Cấu Tạng Bồ Tát bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn ,nơi pháp môn nầy ,nếu chư Bồ Tát tâm không nghi hoặcthọ trì đọc tụng rộng giảng thuyết cho người,thì tôi sẽ nhiếp thọ thêm biện tài cho họ ».

 Lúc ấy Ma Vương Ba Tuần lo rầu khổ não rơi lệ đến chỗ đức Phật mà bạch rằng : « Ngày xưa lúc đức Như Lai chứng Vô thượng Bồ đề , tôi đã lo rầu rồi. Hôm nay Như Lai lại nói pháp môn nầy càng thêm khổ não nhiều như trúng phải tên độc.Nếu chúng sanh nghe kinh điển nầy quyết định không thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đềbát Niết Bàn, làm cho thế giới tôi phải trống rỗng.

 Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác hay làm cho tất cả chúng sanh khổ sở đều được an vui. Mong đức Như Lai thương xót chẳng hộ niệm kinh diển nầy cho tôi được an ổn hết lo khổ ».

 Đức Thế Tôn bảo Ba Tuần rằng : « Chớ cưu lòng lo khổ.Nơi pháp môn nầy ta chẳng gia hộ.Các chúng sanh cũng chẳng Niết Bàn ».

 Thiên ma Ba Tuần nghe lời nầy vui mừng hết buồn lo liền ẩn mất.

 Ngài Văn thù Sư Lợi Bồ Tát tiến lên bạch rằng : » Có mật ý gì mà đức Thế Tôn hôm nay bảo Ba Tuần rằng Phật chẳng gia hộ pháp môn nầy ? ».

 Đức Phật phán : « Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Dùng không gia hộ để gia hộ pháp môn này , vì thế nên ta nói với Ba Tuần như vậy.Bởi tất cả pháp bình đẳng thiệt tế đều quy nơi chơn như đồng với pháp giới rời các ngôn thuyết,vì tướng bất nhị nên không có gia hộ.

 Do lời thành thiệt không có hư vọng của ta như vậy có thể làm cho kinh điển nầy rộng lưu truyền tại Diêm Phù Đề ».

 Phán dạy xong, đức Thế Tôn bảo Ngài A Nan rằng : « Nầ A Nan ! Kinh nầy tên là Phổ Nhập Bất Tư Nghị Pháp Môn.

 Nếu ai thọ trì được kinh điển nầy là thọ trì tám muôn bốn ngàn pháp môn,hai sự thọ trì ấy đồng nhau không sai khác.Tại sao vậy ? Ví ta ở nơi kinh nầy thông đạt rồi mới có thể vì các chúng sanh mà diễn nói tám muôn bốn ngàn pháp môn.

 Thế nên ,nầy A Nan ! ông phảI khéo hộ trì đọc tụng lưu thông pháp môn nầy chớ để quên mất ».

 Đức Phật nói kinh nầy rồ, Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát , Ngài Vô Cấu Tạng Bồ Tát, Tôn giả A Nan và các thế gian Thiên ,Nhơn A Tu La v.v… tất cả chúng hội nghe lời đức Phật dạy đều rất vui mừng tin thọ phụng hành.
 

 Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn
 Thứ Mười
 HẾT
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29904)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27183)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21774)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22239)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23618)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20433)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20057)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21951)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24761)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18997)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24772)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30988)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24000)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27766)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26530)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21334)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23234)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38146)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18807)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19994)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19055)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23183)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23894)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22822)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22933)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29593)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20650)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18718)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15852)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18867)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19695)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20169)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19962)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22958)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34190)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16429)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16929)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39270)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26087)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20110)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18865)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24075)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29155)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22907)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30971)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21017)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26870)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26271)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23347)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19826)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24693)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30051)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20233)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20416)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15150)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15843)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23916)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant