Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16-06 Phẩm Long Nữ Thọ Ký

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8436)
16-06 Phẩm Long Nữ Thọ Ký
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999


XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Phẩm Long Nữ Thọ Ký
Thứ Sáu


 Bấy giờ chín ức sáu ngàn vạn Long Nữ thấy chư A Tu La và chư Ca Lâu La cúng dường Thế Tôn và được thọ ký rồi sanh lòng mừng vui hớn hở vừa ý phát khởi tâm cúng dường Thế Tôn. Họ liền hóa hiện chín ức sáu ngàn vạn lọng thất bửu, thân lọng bằng tỳ lưu ly, cán lọng bằng chơn kim, lưới tỳ lưu ly trùm trên lọng, viền bằng lưới xích chơn châu, trăm ngàn lọng con bằng tỳ lưu ly và lưu tô bảy báu thòng rủ bốn phía. Chư Long Nữ lại hóa hiện chín ức sáu ngàn vạn ngựa quí, ngựa xanh màu xanh thân xanh ánh sáng xanh, tất cả đồ trang sức đều xanh, báu tỳ lưu ly làm cương khớp,lại hóa hiện trên không xe báu ma ni đại oai đức trên xe ấy có điện báu ngang rộng đều sáu mươi do tuần, điện báu ấy che trùm
 khắp cả chúng tại đại hội, bốn mặt điện có chín ức sáu ngàn vạn lưu tô bằng những châu báu thòng xuống các nơi vi diệu rất lạ, màu sáng chóa mắt. Có lưới báu trùm trên điện báu ấy. Lại có linh báu treo bốn mái điện hóa làm các thứ chim thất bửu thứ tự bay liệng, nhiều vòng bốn mặt điện báu ấy. Lại hóa hiện chín ức sáu ngàn vạn thứ âm nhạc rồng. Chư Long Nữ ấy ngồi trên ngựa xanh ném lọng báu lên hư không tự nhiên bay đi . Chư Long Nữ đều cầm nhạc khí hòa tấu nhiễu quanh Phật ba vòng, dùng bột thơm chiên đàntrầm thủy cõi trời và bột la đa ma la, bột vàng chơn kim cõi trời cùng các thứ hoa rải lên trên đức Phật, lại đem các thứ vòng hoa, các thứ y phục quý lạ, các thứ hương, các thứ anh lạc rải lên trên đức Phật để cúng dường.

 Lúc chín ức sáu ngàn vạn Long Nữ tấu nhạc, do thần lực của Phật, âm thanh ấy vang khắp tam thiên Đại thiên thế giới. Chúng sanh được nghe âm thanh ấy thì được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.

 Trong điện báu đại oai đứctrong khoảng kê của lưu tô thất bửu, các chim thất bửu, những linh báu do gió nhẹ thổi đọ-ng phát ra âm thanh vi diệu hòa nhã rất đáng ưa thích
 như trăm thứ nhạc do các nhạc công giỏi cùng hòa tấu. Âm thanh ấy do thần lực của Phật, cũng vang khắp Đại Thiên thế giới, chúng sanh được nghe đều được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.

 Chư Long Nữ lại mua các thứ hoa trời, các thứ hương trời cùng nước thơm. Hơi thơm ấy bất luận gió nghịch gió thuận đèu bay đi vô ngại. Do nước thơm mưa xuống ấy mà cả thành Ca Tỳ La ngang rộng sáu mươi do tuần đều thành bùn thơm. Hơi thơm ấy xông khắp Đại Thiên thế giới. Chúng sanh được ngửi hơi thơm ấy đều được bất thối chuyển Vô thượng Bồ đề.

 Chín ức sáu ngàn vạn Long Nữ ấy cúng dường đức Phật rồi và cùng chín ức sáu ngàn vạn lọng báu, ngựa báu, âm nhạc báu, tất cả các báu trang nghiêm ở trên hư không đảnh lễ Phật nhiễu quanh Phật ba vòng rồi dừng ở một phía cung kính nói kệ tán thán rằng :

 “ Hàng Long Nữ có trí huệ tốt
 Tâm ý hớn hở sanh mừng vui
 Cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật
 Nguyện cầu an đại Bồ đề
 Hóa làm chín ức sáu ngàn vạn
 Lọng báu và các trang nghiêm đẹp
 Cúng dường đức Phật khéo điều tâm
 Xuất ly tất cả các chướng ngại
 Lại hóa chín ức sáu ngàn vạn
 Ngựa quí và đồ trang nghiêm báu
 Ngựa và trang nghiêm đều màu xanh
 Cũng lại hóa hiện tràng màu xanh
 Ngựa ấy đều đi trên hư không
 Đến chỗ Phật ngự dâng lễ cúng
 Long Nữ đều có lòng kính tin
 Đầu mặt đảnh lễ chư Như Lai
 Những hóa nhạc khí ở Long cung
 Vì cúng dường Phật mà đem đến
 Đến rồi dâng lên Thích Ca Phật
 Đáng thọ cúng dường đại Đạo Sư
 Thế Tôn khiến tiếng âm nhạc ấy
 Vang khắp cõi tam thiên Đại Thiên
 Vô lượng chúng sanh được nghe rồi
 Đều được tâm Bồ đề bất thối
 Chúng Long Nữ ấy ở không trung
 Hóa làm một đại chúng bửu điện
 Rộng rãi có sáu mươi do tuần
 Trùm khắp toàn hội các đại chúng
 Báu ấy tên ma ni oai đức
 Chiều khắp mười phương cõi Đại Thiên
 Hàng Long Nữ ấy đều tiến lên
 Tâm tịnh mừng vui cúng dường Phật
 Phát sanh lòng hớn hở vô lượng
 Vì cầu quả Bồ đề an ổn
 Nguyện cho chúng tôi sẽ làm Phật
 Vì lợi ích tất cả chúng sanh
 Chúng tôi nguyện vì vô lượng chúng
 Thuyết pháp cứu khỏi vòng phiền não
 Cũng như thập lực đại Đạo Sư
 Hiện nay cứu khổ chúng sanh vậy
 Tất cả các pháp như ảo mộng
 Cũng như bọt nước chẳng chắc bền
 Lại như mưa xối nổi bóng nước
 Nên biết các pháp không có chủ
 Chúng sanh như ảnh cũng như tượng
 Quan sát thế gian như vậy rồi
 Mong nguyện chúng tôi vì chúng nói
 Pháp tánh chơn như và thiệt tế
 Như Phật trí sáng khéo thấy pháp
 Vọng tưởng hư ngụy dối thế gian
 Như ảo trang nghiêm không có thiệt
 Chỉ hay noặc loạn các phàm phu
 Với pháp chúng sanh mê vô trí
 Chẳng biết các pháp chơn thiệt tánh
 Đạo Sư đã thấy pháp bỉ ngạn
 Lại hay khiến các chúng khác hiểu
 Hư không nổi mây che khắp đất
 Thấy mây hư không kia như ảnh
 Nó không thể thiệt không sở y
 Cũng lại như ảnh không có thiệt
 Chúng sanh như vậy không thể tánh
 Chỉ hay dối lầm các căn môn
 Phật trí thấy các loài như vậy
 Chỉ hay dối lầm kẻ vô tri
 Thế gian tôn trọng lấy nghiệp ấy
 Nơi người trí huệ làm lợi ích
 Như Lai thị hiện không thể tánh
 Vì chúng sanh thấy chơn thiệt vậy
 Chỉ dùng thiệt pháp vui lòng chúng
 Trong bùn sanh tử làm cầu đò
 Thiệt pháp chẳng phải cảnh người ngu
 Vì họ chấp danh chẳng cầu nghĩa
 Vì Phật trí sáng tôi quy y
 Đấng đầy đủ thị hiện chơn thiệt
 Hay làm thân cứu cho kẻ ngu
 Làm thiện tri thức làm nhà về
 Như vậy vì cầu đại Bồ đề
 Chúng tôi cúng dường đại Đạo Sư
 Nguyện được làm Phật giác ngộ người
 Lợi ích thế gian như Phật vậy ”.

 Đức Thế Tôn biết các Long Nữ đã thâm tín nên hiện tướng mỉm cười; huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi rằng :

 Đấng thắng trí ở trong thế trí
 Đạo Sư tối thắng hiện mỉm cười
 Đức trọng kiên cố dường như núi
 Phật hiện mỉm cười chẳng không nhơn
 Đấng chứa tối thượng hơn trong người
 Mong nói nhơn duyên tướng mỉm cười
 Trời Người Rồng Quỉ nếu được nghe
 Nơi Phật đều sanh lòng mừng rỡ
 Thế gian Đạo Sư với thế gian
 Thương biết tất cả pháp nhơn duyên
 Không có một pháp Phật chẳng hiểu
 Nhơn duyên chủng loại Phật đều biết
 Ngưỡng mong đức Phật thương nói cho
 Duyên cớ do đó Phật mỉm cười
 Tất cả đại chúng nếu được nghe
 Sanh lòng mừng rỡ hết nghi hoặc
 Như Lai diệu pháp có lợi lớn
 Những đại chúng đây quyết sẽ được
 Đại chúng nếu được tâm tịch định
 Do ưa diệu pháp được lợi ích
 Phật lực khiến dứt phân biệt rồi
 Chỉ thích Bồ đề nghe Phật nói
 Nếu được nghe nhơn duyên mỉm cười
 Quyết sẽ thành tựu nơi Phật đạo
 Nếu người nơi pháp lòng có nghi
 Tâm họ xao động sanh khổ não
 Hiện nay đại chúng trong hội này
 Chẳng biết duyên do Phật mỉm cười
 Đại chúng có thể dứt lòng nghi
 Ngưỡng mong Đạo Sư trừ dứt cho
 Mau thương tuyên nói độ chúng tôi
 Do nhơn duyên gì Phật mỉm cười
 Ngày nay ai tâm được thanh tịnh
 Ngày nay ai trừ được ma oán
 Ngày nay ai kính tin nơi Phật
 Ngày nay ai được cúng duờngPhật
 Ngưỡng mong Đại Sư ở trước chúng
 Tuyên nói ai có công đức ấy
 Chúng tôi nghe nói sanh lòng mừng
 Lòngmừng vui rồi được an ổn
 Các đại chúng đây đều kính lễ
 Tất cả đều có lòng muốn biết
 Nguyện nghe cớ cười dể được mừng
 Ngưỡng mong Thế Tôn tuyên nói rõ
 Các Trời Người nầy được nghe rồi
 Tất cả đại chúng không còn nghi
 Nếu được nghe lời Như Lai nói
 Tất cả sẽ được lòng mừng rỡ ”.

 Đức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo rằng :

 “ Lành thay Huệ Mã Thắng Tỳ Kheo
 Hỏi nơi Như Lai nhơn duyên cười
 Thấy các Long Nữ cúng dường rồi
 Phật thương thế gian nên mỉm cười
 Nay Phật vì ông nói quả ấy
 Rời lìa tội lỗi chí tâm nghe
 Duyên cớ nay Phật hiện mỉm cười
 Mã Thắng các người nghe Phật nói
 Các Long Nữ nầy tâm không chấp
 Cầu đại Bồ đề tu tinh tấn
 Dùng trí huệ tu thế gian không
 Quyết định an trú đạo Bồ đề
 Nơi đây không tác không người thọ
 Cũng không kẻ sanh kẻ dưỡng dục
 Chỉ có các pháp không việc khác
 Pháp ấy cũng vọng như ảo mộng
 Do vì biết ơn cúng dường Phật
 Hay dùng trí huệ biết chơn thiệt
 Lành thay Phật hiểu các thế gian
 Nghĩa là thấy được không vô ngã
 Họ thích không ấy khéo tu tập
 Dầu bày cúng dường xem như ảo
 Nơi thắng Bồ đề đã phát nguyện
 Quán Bồ đề ấy cũng chẳng chấp
 Họ đem tối thắng ấy cúng dường Phật
 Cũng quán chúng sanh không tịch rồi
 Lìa hẳn loài rồng thân ác thú
 Cùng trời Đế Thích kia đồng ở
 Tại trời Đao Lợi thọ vui lớn
 Hưởng hết thọ mạng Đao Lợi rồi
 Không ai chê được tiếng tâm họ
 Lại được sanh lên trời Dạ Ma
 Lúc họ ở cung trời Dạ Ma
 Hưởng đủ vui sướng cung trời ấy
 Các Phật tử ở trời Dạ Ma
 Cho đến mãn hết thọ lượng ấy
 Các Phật tử nầy hưởng đủ vui
 Hết thọ mạng nơi Dạ Ma rồi
 Lại được sanh lên trời Đâu Suất
 Cùng trời cõi ấy đồng một loại
 Được các Thiên nữ thường vây quanh
 Hưởng đủ diệu lạc rất thù thắng
 Lòng không luyến trước gìn đạo lành
 Như hoa sen kia nước chẳng ngấm
 Trời ấy dùng được trí huệ lớn
 Quan sát tất cả thế gian không
 Dường như khác đá chớ chẳng mất
 Đạo niệm chẳng mất cũng như vậy
 Các Thiên Tử ấy ở Đâu Suất
 Hưởng đủ diệu lạc rất thù thắng
 Ở nơi Đâu Suất mãn thọ rồi
 Lại được sanh lên trời Hóa Lạc
 Họ được danh tốt không hư hoại
 Được các Thiên Nữ thường cúng dường
 Dầu ở cung trời tâm không trước
 Cho đến hết hạn thọ lượng ấy
 Ở trong cung trời Hóa Lạc kia
 Hưởng đủ diệu lạc rất thù thắng
 Chủng trí huệ ấy mãn thọ rồi
 Nơi tất cả pháp được cứu cánh
 Sanh lên Tha Hóa Tự tại Thiên
 Làm thương chủ lớn tín thanh tịnh
 Ở trời Tha Hóa lòng không nhiễm
 Lúc ở trời ấy ưa chánh pháp
 Phật tử ở cung trời Tha Hóa
 Hưởng ngũ dục lạc rất vi diệu
 Không có ngu si gìn đạo lành
 Cho đến hết hạn thọ mạng ấy
 Dầu hưởng lạc dục mà thấy lỗi
 Ưa cầu chánh địnhNiết bàn
 Tu tập chứng được thiền định rồi
 Mạng chung liền sanh trời Phạm Thiên
 Ở cung Phạm Thiên giỏi biết thiền
 Hưởng vui tịch diệt quả thiền ấy
 Trí huệ rất lớn trụ một kiếp
 Nguyện cầu Vô thượng đại Bồ đề
 Lúc ở Phạm cung trong một kiếp 
 Khéo dùng oai nghi cầu trí huệ
 Phương tiện để lợi ích thế gian
 Rộng làm vô biênvô lượng
 Trí ở Phạm cung vui tại thiền
 Chẳng trước nơi thiền mà tịch diệt
 Biết trước thiền lạc cũng là lỗi
 Các căn tịch định cầu Bồ đề
 Nơi tất cả pháp lòng tin hiểu
 Đều được an trụ Bồ Tát hạnh
 Biết các thiền định tướng hư dối
 Chỉ cầu tịch diệt đại Niết bàn
 Các Phật tử ấy ở trong đó
 Cầu được Bồ đề quả an ổn
 Ở tại Phạm cung tâm thanh tịnh
 Nghĩ lại chúng sanh khéo điều tâm
 Giáo pháp tự nhiên của Phạm Thiên
 Thuyết giáo Phạm Thiên chẳng xuất thế
 Chỉ có Bồ đề đạo chư Phật
 Cứu cánh hay được xuất thế gian
 Đương thời Phạm Thiên sanh tin rồi
 Phát tâm an trụ nơi Phật đạo
 Biết giáo tự nhiên của Phạm Thiên
 Chẳng phải cứu cánh đạo xuất thế
 Nơi pháp Như Lai họ tương ưng
 Vì các thế gian nói pháp ấy
 Như pháp nhãn họ nói quả ấy
 Khiến người nghe kia mau được biết
 Phật tự ở tại Phạm cung kia
 Làm những lợi ích thế gian rồi
 Hay khiến vô lượng na do tha
 Ức chúng an trụ đạo Bồ đề
 Họ ở vô lượng na do tha
 Sẽ được cúng dường tất cả Phật
 Vị lai kiếp tinh tú sau đây
 Các căn tịch tịnh sẽ làm Phật
 Các Trời Người Rồng A Tu La
 Kim Sí Dạ Xoa Càn Thát Bà
 Cưu Bàn Trà Quí Khẩn Na La
 Tất cả đại chúng đều mừng rỡ
 Chúng ấy được chư Phật giáo hóa
 Ở trong Phật pháp đắc lực rồi
 Thảy đều mừng vui chấp tay kính
 Cúi đầu đảnh lễ nơi chưn Phật » .
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29900)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27182)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21773)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22234)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23614)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20431)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24760)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18994)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24772)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30988)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23995)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27766)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26528)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21329)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23233)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38142)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18806)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19990)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19052)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23175)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23893)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22822)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22927)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29588)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20648)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18714)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15850)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18865)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19690)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20160)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19958)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22949)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34183)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16425)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16922)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39270)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26084)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20100)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18864)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24069)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29153)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22906)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30970)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21014)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26862)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26269)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23347)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19825)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24691)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30048)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20231)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20410)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15146)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15841)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23911)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant