Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16-19 Phẩm Chư Phạm Thiên Thọ Ký

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8129)
16-19 Phẩm Chư Phạm Thiên Thọ Ký
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Phẩm Chư Phạm Thiên Thọ Ký
Thứ Mười Chín


 Bấy giờ có chín ngàn vạn trời Phạm Chúng thấy A Tu La nhẫn đến trời Tha Hóa Tự Tại cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vui mừng hớn hở vừa lòng. Họ ở nơi thiền thế đế lấy hỉ duyệt làm sự ăn ở trong Phật pháp cũng được trí huệ sáng, vì họ đã trồng thiện căn gần gũi cúng dường chư Phật tin sâu thanh tịnh. Ở nơi pháp thậm thâm họ được pháp nhẫn. Chư Phạm Chúng Thiên ấy biết các pháp vô tác phi vô tác, phi sanh phi bất sanh, phi hữu phi bất hữu, phi khởi phi bất khởi, phi diệt phi bất diệtphi y phi bất y, phi thanh phi trược, phi tắng phi ái, phi hiền phi ngu, phi tri phi bất tri, phi kiến phi bất kiến, phi thọ phi bất thọ, phi trắc ẩn phi bất trắc ẩn, phi vô phi phi vô, phi vật phi phi vật, phi khả đắc phi bất khả đắc, phi khứ phi lai, phi thú phi bất thú, phi không phi bất không, phi tướng phi bất tướng, phi nguyện phi bất nguyện.

 Chư Phạm Thiên ấy đối với tất cả pháp lòng không chấp trước, cũng không chỗ trụ. Ở trong phi dụng họ chẳng ý tưởng phi dụng, ở trong phi bất dụng cũng chẳng ý tưởng phi bất dụng. Ở trong ngôn ngữ họ chẳng ý tưởng ngôn ngữ, ở trong phi ngôn ngữ cũng chẳng ý tưởng phi ngôn ngữ. Ở trong hữu tác họ không ý tưởng hữu tác, ở trong vô tác cũng không ý tưởng vô tác. Ở nơi phàm phu họ không ý tưởng phàm phu, ở trong phi phàm phu cũng không ý tưởng phi phàm phu. Ở nơi pháp phàm phu họ không ý tưỏng pháp phàm phu, ở nơi pháp phi phàm phu cũng không ý tưởng pháp phi phàm phu. Ở nơi Thanh Văn họ không ý tưởng Thanh Văn, ở nơi phi Thanh Văn cũng không ý tưởng phi Thanh Văn. Ở nơi pháp Thanh Văn họ không ý tưởng pháp Thanh Văn, ở nơi pháp phi Thanh Văn cũng không ý tưởng pháp phi Thanh Văn. Ở nơi Duyên Giác họ không ý tưởng Duyên Giác, ở nơi phi Duyên Giác cũng không ý tưởng phi Duyên Giác. Ở nơi pháp Duyên Giác họ không ý tưởng pháp Duyên Giác, ở nơi pháp phi Duyên Giác cũng không ý tưởng pháp phi Duyên Giác. Ở nơi

 
 Bồ Tát họ không ý tưởng Bồ Tát. Ở nơi phi Bồ Tát cũng không ý tưởng phi Bồ Tát. Ở nơi pháp Bồ Tát họ không ý tưởng pháp Bồ Tát, ở nơi pháp phi Bồ Tát họ không ý tưởng pháp phi Bồ Tát. Ở nơi Phật họ không ý tưởng Phật, ở nơi phi Phật cũng không ý tưởng phi Phật. Ở nơi pháp Phật họ không ý tưởng pháp Phật, ở nơi phi pháp Phật cũng không ý tưởng phi pháp Phật. Ở nơi Niết bàn, họ chẳng ý tưởng Niết bàn, ở nơi phi Niết bàn cũng không ý tưởng phi Niết bàn. Ở nơi pháp Niết bàn họ không ý tưởng pháp Niết bàn, ở nơi pháp phi Niết bàn cũng không ý tưởng pháp phi Niết bàn. Ở nơi sanh tử họ không ý tưởng sanh tử, ở nơi phi sanh tử cũng không ý tưởng phi sanh tử. Chư Phạm Chúng Thiên ấy đối với tất cả thảy đều lìa phân biệt, tâm định thanh tịnh . Họ đã được tâm thanh tịnh nên dùng pháp tịch diệt nói kệ tán thán đức Phật :

 « Đại Thánh trí tịch tĩnh rất sâu
 Tu hành tịch diệt đến bỉ ngạn
 Diễn nói tịch diệt độ chúng sanh
 Cũng tự thường hành pháp tịch diệt
 Bồ dề tịch diệt khéo thanh tịnh
 Pháp nầy là cảnh giới Như Lai
 
 Mau được tịch diệt thắng cam lộ
 Do đó nay được hết sanh tử
 Hằng nói đạo tịch diệt vi diệu
 Là chổ sở hành của người trí
 Đường bát chánh diệt phiền não trược
 Cứu vớt tất cả các quần sanh
 Khéo tu tịch diệt chúng Bồ đề
 Là chổ sở hành của Phật trước
 Pháp ấy hay đến thành an ổn
 Chỗ chứng biết của Phật quá khứ
 Là pháp tu học của Như Lai
 Phật giáo hóa thế gian như vậy
 Nếu người hay hành pháp hữu học
 Chứng được vô học thắng Bồ đề
 Nhứt tâm xu hướng đạo tịch diệt
 Các căn tịch tĩnh lâu tu tập
 Sẽ được làm Phật Thế Gian Giải
 Sức na la diên độ quần sanh
 Nếu biết pháp tịch diệt cam lộ
 Hay hết tất cả tướng sanh tử
 Đây là chơn thiệt con Như Lai
 Tịch diệt hay trừ khổ thế gian
 Chúng ấy chưng bày cúng dường Phật
 
 Thắng thượng hi hữu rất khác lạ
 Nói pháp tịch hết phiền não
 Nơi những vô tướng tối đệ nhứt
 Thế gian tịch diệt lìa các tướng
 Nghĩa là tịch diệt tức Niết bàn
 Chúng sanh luân chuyễn thọ những khổ
 Vì lìa tịch diệt thủ tướng vậy
 Các pháp của Phật bất tư nghị
 Tức là Bồ đề nhứt thiết trí
 Qua khỏi sình lầy đến bờ kia
 Nên Phật trọn hẳn không nghi lự
 Nếu người lìa ấm được giải thoát
 Nơi Phật đại thừa chẳng nguyện ưa
 Muốn cầu Bồ đề nghĩ diệt độ
 Nơi năm ấm ấy sanh bố úy
 Tâm tịnh ly dục cầu Niết bàn
 Chúng ấy chúng giản trạch như vậy
 Nơi pháp thủ tướng cảnh phàm phu
 Đó là lời dạy của Như Lai
 Nếu thủ tịch diệt tức bị trói
 Do đó chẳng được Nhứt thiết trí
 Nếu người ở nơi tướng năm ấm
 Chẳng sanh lòng giữ cầm thủ trước
 
 Họ hay lợi ích pháp Thích Ca
 Đây gọi hạnh hỉ lạc vô tướng
 Hay được chổ vô danh an ổn
 Đến được Bồ đề cảnh giới Phật
 Hàng ma tranh luận diệt phiền nảo
 Mau được thành tựu Nhứt thiết trí
 Chúng tôi tán thán Vô Thượng Sĩ
 Chỗ chứng tịch diệt các công đức
 Chỉ Phật đại trí hay biết rõ
 Hồi thí chúng sanh nguyện thành Phật”.

 Lúc ấy chủ thế giới Ta Bà Đại Phạm thiên Vương biết chư Phạm Thiên tán thán Phật rồi, đối trước Phật đứng thẳng dùng chơn thiệt công đức nói kệ khen ngợi đức Phật:

 “Pháp Vương đã biết tất cả pháp
 Chẳng thiệt hư dối như không quyền
 Cũng như thu vân và chớp nháng
 Thế nên Đại Thánh lìa thủ tâm
 Cũng như trong mộng người quá đói
 Ăn món cam lộ trăm vị ngon
 Người mộng đói ăn đều chẳng thiệt
 Như Lai thấy pháp cũng như vậy
 Lại như trong mộng người quá khát
 Được uống nước mát lạnh trong sạch
 Mộng khát uốn nước đều hư vọng
 Phật thấy các pháp cũng như vậy
 Không tác không thọ không chúng sanh
 Không có tác nghiệp và được báo
 Cũng không được người thọ quả báo
 Thế Tôn nơi đây không nghi lự
 Ví như lời hay được người mến
 Nhưng ngôn ngữ ấy vô khả thủ
 Cũng không người nói và người nghe
 Đại Thánh biết rõ đều chẳng thiệt
 Như nghe tiếng hay đờn không hầu
 Tiếng ấy cũng không tánh chơn thiệt
 Thế Tôn thấy các ấm như vậy
 Biết ấm không tánh bất khả đắc
 Dường ngọc ma ni chất tự sạch
 Cột nó trên áo theo màu đổi
 Các pháp tự thể vốn thanh tịnh
 Hư vọng phân biệt thêm điên đảo
 Ví như áo trắng sạch không dơ
 Tùy thọ màu nhuộm nhiều biến đổi
 Các pháp cũng đều tánh tự sạch
 Tùy chỗ phân biệtô nhiễm
 Dường như có người nghe tiếng ốc
 Tìm tiếng ốc ấy từ đâu đến
 Tiếng ấy chẳng tự chẳng phải tha
 Đại Tiên thấy pháp cũng như vậy
 Như người nghĩ tưởng món ăn ngon
 Món ấy các duyên hiệp lại thành
 Món ăn thảy đều không tự tánh
 Như Lai thấy pháp đều như vậy
 Vì như đất đá xây làm thành
 Suy thể của thành không tự tánh
 Các duyên như vậy thảy đều không
 Pháp Vương thấy pháp cũng như vậy
 Ví như có người đánh trống lớn
 Dầu khiến người nghe lòng mừng rỡ
 Tiếng trống các duyên thảy đều không
 Đại Thánh thấy các pháp cũng như vậy
 Ví như có người lúc đánh trống
 Tiếng trống chẳng từ mười phương đến
 Tiếng dứt cũng chẳng đến mười phương
 Thế Tôn thấy pháp đều như vậy
 Người ấy như vậy đánh trống rồi
 Trống ấy chẳng sanh lòng yêu ghét
 Cũng chẳng phân biệt tánh các duyên
 Phật thấy các pháp đều như vậy
 Lại như người ấy đánh trống hay
 Tiếng chẳng có ý khiến người mừng
 Và các duyên kia cũng đều vậỳ
 Đạo Sư thấy pháp đều như vậy
 Như lúc người đánh trống hay kia
 Trống ấy chẳng sanh tưởng khổ vui
 Cũng chẳng quan sát tánh các duyên
 Như Lai thấy pháp đều như vậy
 Dường như có người đánh trống hay
 Tiếng chẳng tức duyên chẳng ly duyên
 Và duyên nhạc kia cũng nhu vậy
 Mâu Ni thấy pháp đều như vậy”.

 Đức Thế Tôn biết chư Phạm ThiênPhạm Vương thâm tâm kính tín và dùng pháp tịch diệt tán thán đức Phật, lại muốn cho đại chúng sanh thiện căn nên liền hiện tướng mỉm cười.

 Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi Phật:

 “Đã thấy Như Lai miệng phóng ra
 Ánh sáng mỉm cười rất thanh tịnh
 Thế gian Trời Người các đại chúng
 Tất cả đều sanh lòng hi hữu
 Vì thấy Thế Tôn hiện mỉm cười
 Pháp hội đại chúng đều hoài nghi
 Tất cả chiêm ngưỡng mặt Như Lai
 Ân cần mong muốn được lắng nghe
 Mong Phật khai thị có mỉm cười
 Dứt trừ lòng nghi của đại chúng
 Tối Thắng Mâu Ni chẳng không nhơn
 Mà hiện tướng cười rất hi hữu
 Chư Phật lúc hiện ánh sáng cười
 Quyết để lợi ích các thế gian
 Nay vì ai Phật hiện tướng cười
 Ngưỡng mong giải bày nói rành rẽ
 Đại chúng được nghe chắc vui mừng
 Vì đã được biết duyên cớ vậy
 Nay đại chúng nầy đều chắp tay
 Nhứt tâm chiêm ngưỡng ưa thích nghe
 Thế nên xin Phật giải thích cho
 Chắc sẽ trừ dứt những nghi hoặc
 Đạo Sư vì các chúng hội nầy
 Xin thương tuyên nói cớ mỉm cười
 Chúng hội được nghe chắc mừng rỡ
 Vì đã rửa sạch lưới nghi ngờ
 Lòng chúng chắc bền đều thanh tịnh
 Chuyên niệm quí trọng đức Như Lai
 Đại chúng chiêm ngưỡng dung nhan Phật
 Dường như nhìn thấy trăng mới mọc
 Đủ tám tiếng hay như Phạm Thiên
 Nhứt tâm khát ngưỡng mong sớm nghe
 Trời Người đại chúng nghe Phật nói
 Chắc trừ được nghi trụ chánh pháp
 Phạm âm diễn nói tương ưng nghĩa
 Được nghe xuất thế pháp rất sâu
 Phật trí thiện xảo hay vui đẹp
 Nên khiến đại chúng thêm hớn hở
 Chúng nầy lòng sạch lìa nghi ngờ
 Ưa thích Như Lai Nhứt thiết trí
 Người tinh tấn dũng mãnh hữu lực
 Mới có chí cầu vô thượng đạo
 Thế nên Đạo Sư thương thế gian
 Ngưỡng mong giải thích cho chúng mừng
 Lành thay Thế Tôn lòng bình đẳng
 Thương xót tất cả các chúng sanh
 Khiến các đại chúng thêm thiện căn
 An tâm bất động cầu Phật trí”.

 
 Đức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng:

 “Thương xót tất cả các thế gian
 Nên Phật thị hiện tướng cười sáng
 Ông phải lắng nghe nhơn duyên ấy
 Nghĩa đó rất sâu câu vi diệu
 Các chúng hội đây nếu được nghe
 Phát cần tinh tấn tu pháp lành
 Sẽ làm lợi ích các chúng sanh
 Nơi pháp của Phật khởi thắng hạnh
 Các Phạm Thiên đây đều mừng rỡ
 Ở trong pháp Phật đều không nghi
 Na do tha kiếp lâu tu hành
 Dường như số kiếp cát sông Hằng
 Nơi các cảnh giới đều chẳng trước
 Lòng như không gian không chướng ngại
 Dầu thích thường tu Bồ Tát hạnh
 Mà chẳng mau thủ chứng Bồ đề
 Chúng ấy lại ở đời vị lai
 Vô lượng ức kiếp số hằng sa
 Chúng trời thanh tịnh không nhơ uế
 Được thế lực lớn trụ thế gian
 Sau đó sẽ thành Nhứt thiết trí
 Làm đại Pháp Vương có oai lực
 Đầy đủ công đức hết sanh tử
 Xem các thế gian đều không tịch
 Phật ấy như trước lâu tu hành
 Thọ mạng hạn lượng lâu cũng vậy
 Lúc chư Phật ấy trụ thế gian
 Hay cứu độ các chúng sanh khổ
 Quốc độ Phật ấy không đâu bằng
 Thế giới nghiêm tịnh rất thạnh vượng
 Trong vô lượng na do tha kiếp
 Như Lai diễn nói cũng chẳng hết
 Cõi nước Phật ấy sự nghiêm tịnh
 Vô lượng Phật nói cũng chẳng hết
 Phật ấy đồng hiệu Đại Trí Lực
 Quốc độ thảy đồng tên Tối Thắng
 Vì chúng diễn nói pháp bất động
 Bất khả tư nghị vô sở y
 Quốc độ Phật ấy các chúng sanh
 Thảy đều tu hành các thiện căn
 Không một chúng sanh còn đời sau
 Trong vòng sanh tử lại sanh nữa
 Đương thời chúng ấy có một khổ
 Nơi thế gian ấy bèn hiển hiện
 Chỉ sợ các hành đều vô thường
 Khiến các chúng sanh khởi nhàm lìa
 Thuở đó chúng sanh trong cõi ấy
 Lìa các tướng khổ già bịnh chết
 Tất cả đều nương một giáo pháp
 Đồng chán vô thường tu thắng hạnh
 Chúng sanh cõi đó đương lúc ấy
 Tai chẳng còn nghe âm thanh khác
 Chỉ nghe bất tịnh vô thường khổ
 Vô ngã tịch diệt không vô tướng
 Cam lộ Niết bànBồ đề
 An ổn thanh lương vô thượng lạc
 Những tiếng thắng diệu như vậy thảy
 Hằng thường luôn luôn mà được nghe
 Lúc đó không còn âm vang khác
 Hoặc cây hoặc vách hoặc đất trống
 Hoặc là trên không và chùa miếu
 Chỉ nghe những câu vi diệu ấy
 Nghe rồi tất cả đều đắc đạo
 Bèn ở nơi sanh tử được giải thoát
 Đều do thần lực của Như Lai
 Đủ tám công đức âm thanh diệu
 Lúc đó không có tâm tạp độc
 Những là tham dụcsân khuể
 Cũng không ngu si phát tiếng ác
 Lời thô bức não đến bên tai
 Tất cả nhàm trái nơi sanh tử
 Xu hướng Niết bàn đường thẳng lớn
 Cõi ấy tất cả đều đúng không
 Phật và chúng sanh đều diệt độ
 Đây là thần lực của Phật ấy
 Phát chí nguyện rộng chẳng nghĩ bàn
 Đã ở quá khứ do tha kiếp
 Vì cầu Bồ đề tu đạo hạnh
 Bao nhiêu chúng sanh tại nước ấy
 Tất cả sẽ đều được làm Phật
 Chư Phạm Thiên nầy phát nguyện rộng
 Đều do quan sát câu tịch diệt
 Đều được chứng biết nghĩa thậm thâm
 Hiễu rõ đường cát tường của Phật
 Chỗ họ tu học đều thông đạt
 Làm Đạo Sư tại các thế gian
 Họ quan sát được chúng sanh không
 Chẳng sanh lòng giải đãi nhàm mỏi
 Do đó nhập được các pháp tánh
 Tu tập Bồ Tát thắng diệu hạnh”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29920)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27212)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21816)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22275)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23648)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20470)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20082)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21973)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24792)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19027)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24803)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31017)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24026)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27798)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26567)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21386)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23252)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38195)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18823)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18455)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20014)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19076)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23214)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23920)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22850)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22962)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29624)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20659)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18748)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15880)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18883)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19713)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20200)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19981)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18151)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22991)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34220)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16451)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16952)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39308)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26130)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20137)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18888)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24104)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29188)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22935)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 31005)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21051)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26892)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20716)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26295)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23364)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19847)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24709)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30057)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20251)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20438)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15172)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15856)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23938)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant