Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16-21 Phẩm Biến Tịnh Thiên Thọ Ký

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 7819)
16-21 Phẩm Biến Tịnh Thiên Thọ Ký
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Phẩm Biến Tịnh Thiên Thọ Ký
Thứ Hai Mươi Mốt


 Bấy giờ có mười hai na do tha chúng trời Biến Tịnh thấy A Tu La nhẫn đến trời Quang Âm cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vừa mừng hớn hở tự hiện oai lực bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Có tam muội tên Siêu quá tất cả pháp. Đại Bồ Tát được tam muội ấy rồi, ở nơi các phan duyên và tất cả sự đều sanh lạc thọ mà chẳng sanh khổ thọ. Giả sử ở trong sự địa ngục khổ não, cũng đều sanh ý tưởng vui vẻ, hoặc nơi súc sanh đạo thọ báo súc sanh đạo thọ báo súc sanh cũng ý tưởng vui, hoặc tại ngạ quỉ đạo thọ đói khát cũng sanh tưởng vui, hoặc ở trong A Tu La đạo cũng sanh tưởng vui, hoặc trong loài người bị khổ cũng sanh ý tưởng vui mà chẳng hề sanh ý tưởng khổ. Giả sử bị chặt tay chặt chưn, lắt tai xẻo mũi hay dao gậy chém đập thân người, hoặc tù ngục giam cầm, treo ngược, xẻo da thịt như lột áo, cột trói thái thịt, chày giã ép nghiền như bã mía, chà đạp dập nát như lau cói, hoặc bị thiêu đốt như tim đèn như đuốc sáng, hoặc bị cho sư tử cọp sói xé ăn, hoặc bị rót nước dấm nước cay vào miệng mũi, hoặc bị nung nấu hay thui đốt , hoặc cho voi ngựa chà đạp, hoặc bị móc mắt, hoặc bị mâu sóc đâm giơ lên cao, hoặc bị chặt đầu,tất cả sự ấy đều sanh ý tưởng vui.

 Tại sao vậy?

 Vì đại Bồ tát ấy trong đêm dài tu hạnh Bồ Tát phát nguyện như vầy : Nếu có chúng sanh bố thí vật thực cho tôi,nguyện họ được vui Niết bàn, nếu có chúng sanh ở nơi tôi bố thí cúng dường lễ bái tôn trọng cung kính khen tặng hoặc chê bai xua đuổi quở mắng đánhgiết, đều nguyện cho tất cả đều được vui Niết bàngiác ngộ Vô thượng Bồ đề.

 Đại Bồ Tát ấy thành tựu tâm như vậy, đầy đủ nghiệp như vậy, cũng lại trọn vẹn nguyện như vậy, đối với tất cả chúng sanh đều sanh ý tưởng vui, thường hay tu tập luôn chẳng hở dứt. Do nghiệp báo ấy mà được tam muội Nhứt thiết pháp lạc rất thiện thắng ấy. Lúc đại Bồ Tát được tam muội ấy chẳng bị các ma nhiễu hoại, cũng chẳng bị các ma sự ràng buộc. Phải biết đại Bồ Tát nầy được năm thứ tự tại : một là thọ mạng tự tại, hai là sanh tự tại, ba là nghiệp tự tại, bốn là giác quán tự tại, năm là những món quả báo tự tại. Đại Bồ Tát nầy nếu muốn quá một đời chứng Vô thượng Bồ đề, do nơi sức tam muội ấy nên liền có thể được chứng. Nếu chẳng thích mau chứng Vô thượng Bồ đề thì có thể ở đời vô lượng a tăng kỳ kiếp cứu độ chúng sanh. Tại sao vậy? Phải biết Bồ Tát ấy an trụ đại thừa thường làm Đạo Sư cho chư Bồ Tát nhiếp thọ tất cả chư Bồ Tát khác. Đại Bồ Tát nầy nhàm lìa các loài mà vì độ chúng sanh nên lại sanh vào trong các loài, cứu cánh sở học của tất cả Bồ Tát được Bát Nhã Ba la mật nhiếp thọ, đầy đủ tất cả xảo phương tiện biết các ma nghiệp được pháp cứu cánh. Thừa Phật oai thần, chư đại Bồ Tát ấy nơi tất cả pháp đều biết được hết”.

 Chúng trời Biến Tịnh nói kệ tán thán đức Phật :

 “Chúng tôi tất cả trời Biến Tịnh
 Ở nơi Phật pháp đều biết hết
 Đầu mặt quy kính Thiên Nhơn Sư
 Các căn tịch tĩnh như tịch diệt
 
 Hiểu rõ các nghĩa được cúng dường
 Đấng Mâu Ni đã qua sanh tử
 Tôi nay tán thán đại Đạo Sư
 Hay dắt dẫn người chẳng bị dắt
 Các pháp tánh tướng chẳng cứu cánh
 Cũng lại chẳng có chỗ y trụ
 Như Lai khéo biết sự vọng tưởng
 Như nhà ảo thuật biết sự ảo
 Người trí hiểu rõ tiếng ngữ ngôn
 Dụ như hang sâu dột tiếng vang
 Thế Tôn tri kiến khéo như vậy
 Tất cả thế gian Trời Người thảy
 Không có chúng sanh không thọ mạng
 Cũng lại không nhơn không có ngã
 Đại trí quan sát tất cả tưởng
 Rõ thấu ý tưởng đều về không
 Lưỡng Túc Thế tôn đại từ bi
 Hằng thường hành từ chẳng tạm bỏ
 Tất cả thế gian các Trời Người
 Chẳng lường biết được trí Như Lai
 Đạo Sư diễn nói duyên chúng sanh
 Đó là từ tâm căn lành lớn
 Biết rõ tất cả các chúng sanh
 
 Không có chúng sanhthọ mạng giả
 Nơi đây chúng tôi không cấu trược
 Tâm trí thanh tịnh lìa nghi hoặc
 Thế nên nơi Phật thắng trí huệ
 Đấng đáng thọ cúng dâng cúng dường
 Ở trong mười phương thế giới kia
 Tìm khổ rốt ráo chẳng có được
 Như Lai vô thượng trời trong trời
 Nói duyên chúng sanh phát từ tâm
 Đây là lời dạy của Thế Tôn
 Nay tôi được hiểu cũng như Phật
 Vì thế tôi đối Thế Gian giải
 Nay được cúng dường bực đáng cúng
 Đã không chúng sanh cũng không khổ
 Thế nên không có được cứu độ
 Đã khiển trừ được lòng ưu muộn
 Bèn được mừng vui rất hớn hở
 Phật giáo như vậy bất tư nghị
 Chúng tôi đã được biết như thiệt
 Thế nên nay tôi cúng dường Phật
 Nguyện được trí vô thượng Như Lai
 Phật ở các loài chẳng thấy khổ
 Niết bàn cũng lại bất khả đắc
 
 Tăng thượng vứt bỏ nơi sanh tử
 Dùng đây lợi ích các thế gian
 Không khổ không loài không chúng sanh
 Cũng không Niết bàn để y trụ
 Biết được Phật pháp như vậy rồi
 Thế nên chúng tôi nay cúng dường
 Phật đủ từ bihỉ xả
 Chuyễn vì chúng sanh thường diễn thuyết
 Mà lại chẳng thấy có chúng sanh
 Được trụ nơi bốn tâm vô lượng
 Chẳng thấy có ai là phóng dật
 Cũng lại chẳng thấy bất phóng dật
 Biết được giáo pháp của Phật rồi
 Nay tôi cúng dường đại Đạo Sư
 Vô Thượng Sĩ nơi thân lìa thân
 Quán thân cứu cánh bất khả đắc
 Dầu vậy chẳng phải chẳng nói niệm
 Mà nói có niệm và thất niệm
 Thiện Thệ thường nói tu học niệm
 Đó là quán thân chánh niệm xứ
 
 Nay được cúng dường đấng cứu độ
 Thế Tôn quán thọ bất khả đắc
 Vì thọ không có thể tánh vậy
 Cũng lại quán sát nơi thọ giả
 Cứu cánh không có tánh chơn thiệt
 Và quán người tu niệm xứ ấy
 Cứu cánh cũng lại bất khả đắc
 Chúng tôi biết Phật pháp như vậy
 Nay được cúng dường Thiên Nhơn Sư
 Quán tâmquán tâm số pháp
 Cứu cánh thể tánh bất khả đắc
 Cũng lại chẳng thấy có tu niệm
 Và không ai chánh trụ niệm xứ
 Phật nói niệm cùng tâm hòa hiệp
 Người cầu giải thoát phải tu học
 Chúng tôi biết Phật giáo như vậy
 Nay được cúng dường Chánh Biến Tri
 Như Lai chẳng thấy có các pháp
 Cũng chẳng thấy có người tu pháp
 Đại Thánh chỉ dạy tụ tập niệm
 Niệm ấy cũng lại tánh tự không
 Lại nói niệm cùng pháp hòa hiệp
 Muốn cầu giải thoát phải nên tu
 
 Chúng tôi biết Phật pháp như vậy
 Nay được cúng dường Nhứt thiết trí
 Một niệm xứ còn bất khả đắc
 Huống lại còn có ba và bốn
 Nghĩa là nơi niệm trụ xứ ấy
 Các niệm xứ ấy thảy đều không
 Thế nên thiệt cầu bất khả đắc
 Cứu cánh không người thọ khổ lạc
 Chúng tôi biết thánh giáo như vậy
 Nay được cúng dường Phật Thế Tôn
 Mâu Ni tuyên dạy tứ chánh cần
 Nếu có Tỳ Kheo chuyên tu tập
 Đây thì hay làm đường giải thoát
 Sẽ được ra khỏi biển sanh tử
 Mà không ai thoát không ai trói
 Không Phật không giáo không Bồ đề
 Nhưng lại chẳng hoại giả danh dụng
 Thế nên nay tôi cúng Đại Thánh
 Phật dạy bốn thứ như ý túc
 Đường an ổn giải thoát thắng diệu
 Hàng chúng sanh các căn tịch tĩnh
 Tu hành đạo nầy được Niết bàn
 Như ý và túc cùng người tu
 
 Chơn thiệt quán sát bất khả đắc
 Nhưng chẳng đoạn tuyệt nêu có làm
 Cảnh giới trí huệ chẳng thấy có
 Trong giáo pháp Thế Tôn như vậy
 Nơi đây chúng tôi đều biết cả
 Tâm trí thanh tịnh không cấu uế
 Đều được xa rời các nghi hoặc
 Dùng đây tức là thượng cúng dường
 Cúng đấng kham thọ đấng thù thắng
 Thế nên diệu trí không ngang sánh
 Nay tôi đều được dâng cúng dường
 Đấng Thế Gian Giải nói ngủ căn
 Xuất thế được đến giải thoát
 Cẩn thận chớ lười thường siêng tu
 Đó là xu hướng Niết bàn lộ
 Căn và người tu thảy đều không
 Cũng không giải thoát và người thoát
 Nơi đây chúng tôi đều không nghi
 Thế nên nay được cúng dường Phật
 Đạo Sư chỉ dạy năm thứ lực
 Đường chánh đến được thành Niết bàn
 Đây dứt được hết phiền não phược
 Khiến người bị trói được giải thoát
 
 Thể các lực ấy tánh tự không
 Phiền não và Phật đều cũng không
 Chúng tôi nơi đây không nghi lự
 Thế nên nay được cúng Như Lai
 Đại Tiên diễn nói bảy giác chi
 Bồ đề phần pháp đạo tối thắng
 Hay mở sự trói các chúng sanh
 Hướng đến Niết bàn đường lớn thẳng
 Không có trói buộcgiải thoát
 Cũng không ai bị trói được mở
 Nơi đây chúng tôi không nghi hoặc
 Thế nên nay được cúng dường Phật
 Thế Tôn tuyên dạy bát chánh đạo
 Hiển thị tất cả các quần sanh
 Đây là gốc khổ các phiền não
 Tu học thánh đạo dứt trừ được
 Cả hai pháp ấy lìa đối trị
 Đó là thánh đạophiền não
 Chúng tôi nơi đây đều không nghi
 Thế nên được cúng đấng đáng cúng
 Tu xa ma tha và xá na
 Đạo ấy hay hết các mé khổ
 Chỉ bày thọ khổ tập khí dơ
 
 Thể các lực ấy tánh tự không
 Phiền não và Phật đều cũng không
 Chúng tôi nơi đây không nghi lự
 Thế nên nay được cúng Như Lai
 Đại Tiên diễn nói bảy giác chi
 Bồ đề phần pháp đạo tối thắng
 Hay mở sự trói các chúng sanh
 Hướng đến Niết bàn đường lớn thẳng
 Không có trói buộcgiải thoát
 Cũng không ai bị trói được mở
 Nơi đây chúng tôi không nghi hoặc
 Thế nên nay được cúng dường Phật
 Thế Tôn tuyên dạy bát chánh đạo
 Hiển thị tất cả các quần sanh
 Đây là gốc khổ các phiền não
 Tu học thánh đạo dứt trừ được
 Cả hai pháp ấy lìa đối trị
 Đó là thánh đạophiền não
 Chúng tôi nơi đây đều không nghi
 Thế nên được cúng đấng đáng cúng
 Tu xa ma tha và xá na
 Đạo ấy hay hết các mé khổ
 Chỉ bày thọ khổ tập khí dơ
 
 Kiếp xa Thế Tôn đã trừ sạch
 Quả xa ma tha và xá na
 Tất cả thứ ấy thảy đều không
 Chúng trời nơi đây lìa nghi hoặc
 Vì thế chúng tôi nay cúng dường
 Phật nói bất tịnh trị tham dục
 Từ tâm đối trị các sân khuể
 Tỳ bà xá na đối trị si
 Như Lai hiển thị các chúng sanh
 Đây đều vô tác không tạm dừng
 Thế nên không cấu cũng không tịnh
 Chúng tôi nơi ấy đều không nghi
 Thường thích cúng dường đại Đạo Sư
 Mười nghiệp bất thiện của Phật nói
 Thứ ấy gọi là nghiệp đạo ác
 Sát sanh thâu đạotà dâm
 Vọng ngữ lưỡng thiệt cùng ác khẩu
 Ỷ ngữ tham dụcsân khuể
 Tối hậu thứ mười tên tà kiến
 Phật nói thứ ấy là bất thiện
 Là nghiệp đạo ác của chúng sanh
 Đã không chúng sanh cũng không hại
 Cả chín nghiệp kia cũng đều không
 
 Không có đối trị các thiện ác
 Vì tự tánh nó vốn không tịch
 Nhưng chẳng phải không lời Phật dạy
 Bởi vì chẳng hoại pháp thể tánh
 Tôi nơi Phật huệ cũng chẳng nghi
 Thế nên nay cúng trí vô thượng
 Nếu người tu pháp của Như Lai
 Người ấy tức là chơn Phật tử
 Người ấy xứ xứ đều thọ vui
 Hằng thường xa lìa các khổ não
 Thiện Thệ trí huệ thắng như vậy
 An ổn dẫn đạo các quần sanh
 Chúng tôi nơi đây lìa lòng nghi
 Nay đều cúng dường đấng đáng cúng ».

 Chúng trời Biến Tịnh nói kệ tán thán đức Phật rồi đều yên lặng đứng một phía.

 Đức Thế Tôn thấy chúng trời ấy đứng yên lặng, và biết lòng thâm tín của họ nên hiện tướng mỉm cười.

 Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi đức Phật :

 « Nay Phật Thế Tôn trí thù thắng
 Vì lợi ích đời hiện mỉm cười
 Thập Lực Thế Hùng siêu tất cả
 Mà hay hóa phục các đại chúng
 Giỏi hiểu các pháp đại Đạo Sư
 Phật hiện tướng cười chẳng không nhơn
 Đấng Thế Gian Giải lòng không thiếu
 Ngưỡng mong giải nói nghĩa mĩm cười
 Các đại chúng đây đều một lòng
 Không có loạn tưởngchánh niệm
 Lòng vui chiêm ngưỡng núi công đức
 Chỉ muốn được nghe cung kính đứng
 Nơi Đại Luận Sư tự tại Phật
 Nếu được nghe nói đều vui mừng
 Giỏi hiểu các pháp trí quyết định
 Sẽ được làm Phật độ quần sanh
 Nếu ai nơi Phật sanh tịnh tín
 Chắc thành đại trí nhứt thế gian
 Lường biết câu cam lộ vi diệu
 Người nầy thấy được khắp mười phương
 Ai ở trong kiếp đời vị lai
 Sẽ được làm Phật thường thế gian
 Đấng đại Đạo Sư diệu ngôn từ
 Ngưỡng mong nói rõ cho chúng vui
 Nếu ở nơi đấng Đại Thánh Hùng
 
 Mà sanh kính tin lòng tôn trọng
 Cũng ở chánh pháp sanh tín huệ
 Tất cả các ma chẳng động được
 Nếu hay sanh tín được quyết định
 Tức là Phật tử từ tâm sanh
 Ngưỡng mong Thế Tôn diễn nói pháp
 Do đó đại chúng được trừ nghi
 Nếu có ai đối với chúng sanh
 Tâm từ che chở khắp thế gian
 Trí huệ kiên cố sẽ thành Phật
 Bèn được an trụ Nhứt thiết trí
 Đấng vô thượng trăm phước trang nghiêm
 Ngưỡng mong giải bày trừ lưới nghi
 Chỉ muốn thọ trì pháp Thế Tôn
 Như Lai vì họ hiện tướng cười
 Mong được nghe Phật lời thiện xảo
 Âm thanh tám đức rất vi diệu
 Trước tự được đến nơi thiện đạo
 Sau hay dẫn dắt các quần sanh
 Phật pháp vi diệu là như vậy
 Phật tử an trụ ở trong ấy
 Giống Phật Thế Tôn chẳng đoạn tuyệt
 Chắc được ở lâu tại thế gian”.
 
 Đức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo :

 “Mã Thắng nay ông hỏi cớ cười
 Phật vì lợi ích các thế gian
 Ông được phước đức vừa lòng mình
 Phước ấy vô lượng chẳng hết được
 Người trí mới hay hỏi đúng lúc
 Do đó lợi lớn các chúng sanh
 Ông cùng tất cả hàng đại chúng
 Mừng vui một lòng nghe Phật nói
 Chúng trời Biến Tịnh hiện diện đây
 Ở trong pháp Phật đều không nghi
 Tất cả mừng vui lòng tịnh tín
 Dùng kệ khen ngợi Phật công đức
 Trời ấy đã ở đời quá khứ
 Cúng dường ngàn ức do tha Phật
 Cũng hỏi Phật ấy những nghĩa nầy
 Trong tất cả pháp đều không nghi
 Do các nhơn duyên thuở xưa ấy
 Nay nói được kệ tán thán Phật
 Cũng lại tịnh tâm sẽ tán thán
 Hiền kiếp tất cả chư Như Lai
 
 Trong kiếp Ưu Ba La họ sẽ
 Thành Phật đại lực na la diên
 Giáo hóa chúng sanh bất khả tư
 Dẫn dắt vào nơi thành Niết bàn
 Lúc chư Đại Thánh ấy thành Phật
 Được danh hiệu Phật rất vi diệu
 Nay ta vì ông nói hiệu ấy
 Đồng trong kiếp ấy đều làm Phật
 Hiệu là Pháp Tràng Phật Như Lai
 Thảy đều cứu độ bất tư nghị
 Na do tha chúng nhập Niết nàn
 Các Như Lai ấy diệt độ rồi
 Đốt thân lưu bố những Xá lợi
 Đem Xá lợi ấy đều xây tháp
 Đầy trong quốc độ như rãi hoa
 Bấy giờ tất cả Phật Xá lợi
 Mỗi mỗi thảy đều lưu bố rộng
 Sau mỗi mỗi Phật ấy nhập diệt
 Thảy đều lợi ích các thế gian
 Bất tư nghị do tha chúng sanh
 Cúng dường Xá lợi Phật ấy rồi
 Sẽ được cam lộ diệu Niết bàn
 Tam thế chư Phật đều tán thán
 
 Nếu ai xưng niệm danh Phật ấy
 Thì được thiện căn thắng vi diệu
 Sẽ được thành tựu đạo hữu học
 Gặp Phật chuyễn được quả thù thắng
 Dường như vô lượng nan tư chúng
 Đều ở chỗ ta trồng căn lành
 Mừng ưa tin thích tâm thanh tịnh
 Sẽ được gặp gỡ Phật Di Lặc
 Chúng Thanh Văn của chư Phật ấy
 Từ Phật ấy đến chỗ chư Phật
 Sẽ được gặp Phật nhập chúng hội
 Đều do cúng dường Xá lợi ấy
 Được nghe lời Phật như vậy rồi
 Tất cả đại chúng sanh hi hữu
 Công đức thắng diệu có oai thần
 Chúng trời Biến Tịnh thanh tín sĩ
 Và hàng đại chúng khắp vui vẻ
 Thảy đều lưu chú hướng Bồ đề
 Được biết Như Lai thế lực lớn
 Thảy đều dảnh lễ chưn Thế Tôn”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29866)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27125)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21747)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22217)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23595)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20392)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20036)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21924)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24719)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18955)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24696)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30946)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23955)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27747)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26492)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21281)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23197)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38086)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18796)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18418)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19922)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19012)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23125)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23861)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22772)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22889)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29553)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20618)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18683)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15825)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18821)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19632)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20134)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19926)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18100)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22897)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34147)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16404)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16903)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39181)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26022)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20077)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18809)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24032)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29085)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22895)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30916)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20995)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26831)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20651)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26228)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23308)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19809)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24633)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29977)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20197)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20390)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15130)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15816)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23845)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant