KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.20. BẤT HÀNH PHÓNG CỨU GIỚI
(giới không thực
hành phóng sanh cứu độ)
Kinh văn:
1. Phiên âm:
Từ câu “nhược Phật tử dĩ ác tâm cố...” đến câu “phạm khinh cấu tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu là Phật
tử nên vì tâm từ bi mà làm việc phóng sanh. Tất cả nam tử là cha ta, tất cả nữ
nhân là mẹ ta. Từ nhiều đời ta đều thác sanh nơi đó. Vì lẽ ấy nên chúng sanh
trong lục đạo đều là cha mẹ ta. Nếu giết chúng để ăn thịt thời chính là giết
cha mẹ ta, mà cũng chính là giết những thân cũ của ta. Tất cả thân tứ đại đều
là bổn thân, bổn thể của ta, cho nên thường phải làm việc phóng sanh và khuyên
bảo người làm. Nếu lúc thấy người đi sát sanh nên tìm cách cứu hộ cho chúng
được thoát khỏi nạn khổ. Thường đem giới Bồ Tát giảng dạy để cứu độ chúng sanh.
Đến ngày cha mẹ hay anh em chết, nên thỉnh Pháp Sư giảng kinh luật Bồ Tát giới.
Người chết nhờ phước ấy hoặc được vãng sanh Tịnh Độ ra mắt chư Phật, hay thác
sanh trong cõi trời người. Nếu không làm các điều trên, Bồ Tát này phạm khinh
cấu tội.
Mười giới như
thế cần nên học tập, kính trọng, phụng trì như trong phẩm Diệt Tội đã giảng rõ
mỗi giới.
Lời giảng:
Thấy người
hiền sanh tâm khi báng đều là tuyệt đối không được, cho nên giới trước đã cực
lực ngăn cấm. Thấy bị khổ nạn mà không cứu tế cũng không được. Đây là điều ngăn
cấm của giới này.
Bổn nguyện của
Bồ Tát là phải cứu độ những chúng sanh bị khổ nạn. Nếu không cứu độ chúng sanh
bị khổ nạn thì thử hỏi bạn làm một vị Bồ Tát để làm gì?
Trong kinh dạy:
“Thấy chúng sanh đau khổ mà phát tâm Bồ Đề” là biểu lộ tinh thần này. Vì thế,
một vị Bồ Tát phát tâm Bồ Đề chân chính, với bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải cứu
độ chúng sanh, kể cả việc hy sinh tính mạng chính mình. Nếu hiện tại thấy chúng
sanh đang chịu các thống khổ mà bạn vẫn an nhiên ngồi xem, không lo cứu tế, thử
hỏi tâm từ bi của bạn ở chỗ nào?
Bồ Tát hạnh là
phải lấy tâm từ bi làm căn bản, nên không cho phép bạn trông thấy cảnh khổ mà
không lo cứu tế. Thấy chúng sanh bị khổ nạn mà không lo tìm phương tiện cứu tế là
trái với đạo từ bi của Bồ Tát. Thấy thân tộc của mình tử vong mà không xiển
pháp Đại Thừa, là trái với tâm hiếu thuận của Bồ Tát.
Giới này có tác
dụng ngăn chận những tội lỗi như vậy, nên gọi là giới “cấm việc không chịu thực
hành việc phóng sanh cứu độ”.
Trong Phật pháp,
việc độ sanh không phải chỉ trong phạm vi riêng độ những chúng sanh sinh tiền
mà còn phải độ cả những vong linh đã chết. Độ chúng sanh sinh tiền là thực hành
tâm từ bi, độ vong linh quá cố là thiện cử báo ân.
Phần thứ nhất
của giới này là phóng sanh để cứu khỏi nạn chết.
Phần thứ hai của
giới này dạy về việc trai táng, giảng kinh để tư trợ cho người chết. Phật pháp
sở dĩ siêu thắng hơn các tôn giáo khác là chính ở điểm này.
Làm lễ siêu độ
cho vong linh sau khi chết, sự việc này mang ý nghĩa thâm áo bên trong. Vì sinh
mạng thể này sau khi kết thúc, ngoại trừ phái Đoạn Diệt Luận không thừa nhận sự
tiếp tục của tân sinh mạng, còn đại đa số các tôn giáo khác đều thừa nhận có sự
tiếp tục sinh tồn của một sinh mạng mới.
Nhưng tân sinh
mạng này sanh tồn trong hoàn cảnh nào, hoàn toàn tùy thuộc vào nghiệp lực của
người chết như thế nào mà phán đoán rốt ráo. Vì không muốn cho người chết bị
đọa lạc, chịu sự thống khổ vô cùng nên cần phải tụng đọc kinh, giảng kinh để
vong linh nương nhờ được sự tư trợ của pháp lực.
Trong Phật pháp,
nhờ nhận chân được sự lợi ích của việc tụng đọc kinh, giảng kinh cho vong linh,
khiến cho người chết có thể giảm nhẹ được sự thống khổ, giúp cho họ được siêu
sinh Tịnh Độ, nhờ vào việc cầu siêu giảng kinh.
Cho nên lễ tiến
vong trong Phật pháp nhất định không phải là mê tín, theo như chỗ nghĩ tưởng
của những người thông thường. Giới này triệt để ngăn cấm tất cả thất chúng Phật
tử, nhưng hành giả Đại Thừa và Tiểu Thừa dù đều vâng giữ, nhưng không hoàn toàn
giống nhau.
Hành giả Tiểu
Thừa lấy tự độ làm bổn nguyện của mình, nên việc không cứu độ khổ nạn cho chúng
sanh cũng không phạm giới. Riêng đối với quyến thuộc của mình cần phải tùy phần,
tùy sức tận tâm tế độ. Nếu đối với quyến thuộc mà làm ngơ như không có quan hệ
gì với mình, không tận tâm tế độ thì trái với tinh thần của giới này.
Hành giả Đại
Thừa vốn lấy việc lợi tha làm nhiệm vụ chính yếu. Dù chúng sanh có quan hệ với
mình hay không, đều phải tận tâm tận lực cứu tế. Nếu không cứu tế là trái phạm giới
hạnh này.
Đức Phật đối với
đại chúng dạy rằng: “Nếu làm vị Phật tử đã thọ giới Bồ Tát, trong lúc thực hành
lục độ, vạn hạnh, nhân vì lấy tâm từ bi làm cơ bản nên cần phải thường làm việc
phóng sanh”.
Phóng sanh là
đối với những chúng sanh sắp chết, phải cứu hộ một cách hiệu quả, đừng để chúng
sanh bị sự thống khổ như cắt cổ, nhổ lông v.v... Đây chính là sự lưu lộ tâm hạnh
từ bi của người Phật tử.
Chúng ta nên
biết: những sinh mạng có đủ tâm thức hoạt động, bất cứ là loại cao cấp hay hạ
cấp đều mong ước sinh mạng của mình được tồn tại mãi, không bị đoạn tuyệt. Không
ai muốn bị cắt cổ, sát hại làm tổn hại sinh mạng của mình.
Vì thế, nếu đem
một sinh mạng chúng sanh đang sống, cắt cổ, nhổ lông, lột da, cạo vảy v.v.. bỏ
vào nồi nước sôi nấu, hoặc vào chảo dầu sôi chiên, thử hỏi sự thống khổ ấy chúng
sanh làm sao chịu nổi?
Trung Hoa có câu
tục ngữ: “Thố tử hồ bi, vật thương kỳ loại”. Chồn và thỏ là hai động vật khác
loài nhau, nhưng đến lúc thỏ mất, chồn cũng buồn đau, thương tiếc.
Nhân loại chúng
ta cũng thuộc về một trong các loài sinh vật, lại còn được suy tôn là vật tối
linh trong muôn loài. Trong tinh thần thương yêu sanh mạng sinh vật, chẳng lẽ
lại không bằng một con chồn hay sao? Nếu quả như vậy, thẳng thắn mà nói, con
người không bằng súc sanh, mà đã như vậy thì còn tư cách chi để gọi là vật tối
linh trong muôn vật?
Ở đây xin trích
một truyện ngắn trong bộ Vật Do Như Thủ kể chuyện một con cọp dữ biết thương
người cô độc.
Thuở xưa, tại
Trung Hoa, huyện Vụ Châu, thôn Căn Khê, có bà lão họ Lý, tuổi ngoài sáu mươi.
Bà có mấy người con, nhưng họ kế tiếp nhau qua đời vì bệnh dịch, chỉ còn một
đứa cháu bảy tuổi. Hai bà cháu nương nhau sống qua ngày.
Bấy giờ, nhằm
tiết trời Xuân, hai bà cháu dắt nhau lên đồi hái trà. Lúc ấy, bà đang chăm chú
hái trà thì bỗng một con mãnh hổ từ trong rừng chạy ra, vồ lấy đứa bé tha đi. Bà
lão không hề sợ hãi, chạy theo, một tay bà vịn thân cọp, vừa đi vừa than khóc
thảm thiết.
Bà kể lể nỗi cô
độc của mình và kêu lớn lên: - Cọp ơi! Hãy thả cháu tôi ra. Nếu muốn ăn thịt
thì cứ ăn tôi. Già này rất cảm ơn.
Cọp nghe nói
dừng lại, đôi mắt hơi nhắm, nghiêng tai nghe, biểu lộ tâm trạng dường như hối
hận, đoạn để đứa bé xuống và đi vào rừng. Bà lão vui mừng dắt cháu về
nhà.
Lý Tư Nghĩa bình
luận chuyện trên rằng: “Truyện ấy lời lẽ cũng như ý tứ thật bi ai, thống thiết.
Dữ như cọp mà vẫn còn cảm động, không nỡ ăn người!”
Theo truyện trên,
hàng Phật tử chúng ta, đối với sinh mạng loài vật cần phải gia tâm ái hộ gấp
bội. Phải tùy thời tận lực cứu độ sanh mạng chúng sanh, phóng thích và dành
sanh lộ cho chúng được sống còn, không nên để cho chúng bị hy sinh một cách vô
tội!
Trong Phật giáo
thừa nhận việc phóng sanh là việc làm có công đức thật vĩ đại. Vậy mỗi Phật
giáo đồ, nhất là các vị Bồ Tát lấy việc độ sanh làm trách nhiệm của mình cần
phải thực hành việc phóng sanh thật nhiều, để thế gian này bớt đi một phần nào
sát nghiệp.
Thuở xưa tại
Trung Hoa, có một chủ nhân quán rượu thịt. Ngày nọ, người ấy bỗng nhiên phát
tâm đại nhân, đem tất cả loài thủy tộc như tôm, cá, lươn, trạch, rùa v.v... đã
mua về để làm thức ăn cho khách ra sông phóng sanh.
Mọi người thấy
vị chủ quán làm việc phóng sanh như vậy đều cảm động, hoan hô vang dậy. Từ đó,
tiệm rượu thịt cũng đóng cửa.
Một số người
thấy việc làm rất lạ kỳ này, bèn kéo đến hỏi chủ quán tại sao bỗng nhiên phát
đại tâm như vậy? Chủ quán đáp:
- Từ lâu ở tiệm
tôi có cậu học trò làm công. Mỗi ngày trông thấy sự đau khổ vì cắt cổ, nhổ lông,
bằm xắt trên thớt, dưới dao của loài thủy tộc, tâm cậu cảm thấy bất nhẫn vô
cùng. Vì vậy, cậu hằng ngày lén bắt những con vật còn sống và mạnh đem ra sông
phóng sanh. Một thời gian sau tôi biết được.
Một hôm như
thường lệ, cậu lén đem các thứ ra phóng sanh. Tôi ở phía sau rình xem. Khi tới
sông, cậu thả từng con xuống sông và ra vẻ hoan hỷ vô cùng, còn tôi thì lại bất
mãn cực độ, cho việc làm ấy thật phi lý. Tại sao cậu ta dám đem những con cá,
con tôm... của tôi mua mà đi thả?
Lúc ấy, tôi quá
giận, liền đem một nồi nước sôi tưới xả trên lưng cậu học trò. Cậu ngã nhào
xuống đất, quá đau đớn dường như sắp chết. Lưng cậu bị bỏng nước sôi, lột da
lòi thịt trông như heo luộc.
Mục kích sự đau
khổ của cậu học trò như vậy, tôi chẳng những không thèm ngó đến, mà cũng không
có một niệm xót thương. Lại còn nghĩ rằng chết cho đáng kiếp. Tự tạo nhân phải tự
chịu tội báo.
Chốc lát sau,
cậu học trò tỉnh lại, quá đau đớn không chịu nổi, cậu kêu la thảm thiết. Lúc ấy
bỗng nhiên có vô số loài thủy tộc ở dưới sông, nhảy lên lưng cậu. Chúng nằm lăn
trên những vết thương như người dùng thuốc thoa phết. Cậu học trò cảm thấy mát
mẻ tận xương tủy. Thân tâm khỏe khoắn dị thường, bao nhiêu thống khổ đều hết
hẳn.
Sau khi chứng
kiến cảnh ấy, tôi lấy làm lạ và tự nghĩ rằng:
- Cứu hộ sanh
mạng loài vật được báo ân như vậy, thì sát hại loài vật không thể nào tránh
khỏi báo thù. Tại sao ta ngu si nhẫn tâm làm việc sát sanh để kết vô lượng vô biên
nỗi oán hận?!
Suy nghĩ như
vậy, tôi liền đem tất cả sanh mạng loài thủy tộc đã mua đến sông phóng sanh, và
tôi quyết định nguyện chấm dứt sự sinh sống với nghề bán rượu thịt này, tìm nghề
chánh đáng khác để nuôi sống. Đây chính là nguyên nhân tôi đem tất cả loài thủy
tộc đã mua về phóng sanh vậy.
Vì thế, chúng ta
thấy phóng sanh là một việc làm rất tốt và cũng là một mỹ đức không gì sánh
bằng. Là Phật tử, chúng ta mỗi người cần phải phát tâm cùng nhau cổ động việc phóng
sanh để mong chấm dứt những tai nạn rối ren đưa đến cho nhân loại.
Phóng sanh là
một việc làm có công đức vĩ đại, toàn thể Phật tử đều phải công nhận. Nhưng
muốn tâm niệm phóng sanh được kiên cố, không thối chuyển phải thực hành pháp
chánh quán.
Thực hành pháp
chánh quán bằng cách nào?
Tức là y theo
trong kinh Phật dạy quán: “Tất cả nam tử là cha ta, tất cả nữ nhân là mẹ
ta”.
Tại sao biết tất
cả nam tử và nữ nhân là cha mẹ của ta?
Vì nhiều đời đều
thác sanh ở đó. Biết đích xác như vậy, đem ý niệm trên mà suy rộng ra thì thấy
“tất cả chúng sanh trong lục đạo”, có thể nói rằng bất cứ chúng sanh nào “cũng
đều là cha mẹ của ta”.
Như trong kinh,
Phật từng dạy rằng: “Ta thấy tất cả hữu tình không có một hữu tình nào ở trong
trường dạ mà chẳng từng làm cha mẹ của các ông”. Lời Phật dạy trên, nói theo
luật nhân quả thì tất cả hữu tình từ vô thỉ trở lại, đích xác triển chuyển làm
cha mẹ lẫn nhau.
Luận Du Già,
quyển chín, đức Bạc Già Phạm nói rằng: “Các ông ở trong đêm dài sanh tử, máu
huyết trong thân còn nhiều hơn nước bốn biển. Sự sanh tử không nhất định. Giả
sử lấy tất cả gốc, rễ, thân cây, cành, nhánh v.v... của tất cả cây cỏ trên quả
đất này, chặt nhỏ ra làm thẻ nhỏ chừng bằng 4 ngón tay. Các ông ở trong đêm dài
sanh tử đắp đổi làm cha mẹ lẫn nhau. Chúng sanh từng làm cha mẹ ta, ta cũng
từng làm cha mẹ chúng sanh. Như thế, cứ tính kể số lượng thì những thẻ còn mau
hết, chứ với biên tế số lượng các ông làm cha mẹ lẫn nhau ta không thể nói
hết”.
Đức Phật lại dạy
rằng: “Ta xem quả đại địa này, không có một chỗ nào, dù là rất nhỏ, mà các ông
không từng trải qua và thọ vô lượng sanh tử”.
Đức Phật cũng
dạy: “Ta quán sát tất cả hữu tình trên thế gian này, ở trong trường dạ lưu
chuyển sanh tử, đều làm hoặc cha, hoặc mẹ, hoặc anh em, chị em, hoặc Quỹ Phạm
Sư, Thân Giáo Sư, hay các bậc tôn trọng của nhau”.
Theo lời Đức
Phật dạy trên, chúng ta thấy rõ chúng sanh trong lục đạo đều từng làm cha mẹ
của chúng ta. Điều đó chúng ta không thể không tin. Nếu như đối với lời Phật dạy
mà không tin, nơi đây xin y theo kinh Pháp Cú dẫn ra một sự thật để chứng
minh.
Khi Phật còn tại
thế, nơi thành Xá Vệ có một vị đại phú trưởng giả, tài bảo vô lượng. Nhưng
trưởng giả ấy tánh tình rất xan tham, keo kiết, không bao giờ chịu xả thí dù một
sợi lông cho bất cứ ai.
Một ngày nọ vợ
chồng trưởng giả cùng nhau dùng cơm trưa trên bàn ăn. Đứa con cưng như bảo bối
của hai người được ngồi ở giữa. Bữa cơm trưa ấy đặc biệt là giết một con gà
trống tơ. Hai ông bà cứ ăn một miếng thịt gà thì đút cho đứa bé một
miếng.
Đức Phật dùng
Phật nhãn quan sát biết nhân duyên đắc độ của trưởng giả đã thuần thục. Ngài
đặc biệt hóa làm một vị Sa-môn, đi ngay đến trước mặt trưởng giả mà nói rằng: -
Xin trưởng giả bố thí cho bần đạo ít nhiều, có thể khiến cho ngài được phước
báo rất lớn.
Trưởng giả chẳng
những không chịu bố thí cầu phước, trái lại, không chút kính nể sa môn, cất
tiếng mắng rằng: “Ông là người xuất gia, Đại Thừa của Phật, tại sao lại không có
tâm hổ thẹn như vậy? Vợ chồng tôi đang dùng cơm, đã không mời ông đến, sao ông
lại đường đột, suồng sã như vậy? Không giữ oai nghi của người xuất gia, không
khỏi mất tư cách và bổn phận của người xuất gia hay sao?”
Vị sa môn cũng
không vị nể đáp lại rằng: - Chính ông mới là người ngu si, không biết hổ thẹn
gì hết, mà trở lại nói tôi đường đột, suồng sã vào nhà ông thật là vô lý.
Trưởng giả nói
rằng: - Đây là nhà tôi, vợ chồng tôi ở đây dùng cơm, cùng nhau hưởng thú vui
thiên luân (đạo luân thường tự nhiên), có gì đáng gọi là hổ thẹn?
Sa môn tiếp: -
Xin ông đừng buồn, giờ đây tôi cứ sự thật chỉ ra minh bạch cho ông rõ: Chính
ông giết cha để ăn thịt, lấy mẹ để làm vợ, ông lại nuôi kẻ cừu địch ở trong nhà,
thì thử hỏi tâm hổ thẹn của ông ở chỗ nào, và việc làm ấy không ngu si thì gọi
là gì?
Nghe sa môn nói
như vậy, lửa sân của trưởng giả bùng dậy, ông bèn nói rằng: - Người xuất gia
này nói năng thật bậy bạ, ông nói cái gì nghe kỳ quá vậy?
Sa môn không bối
rối, lộ vẻ từ nhân, ôn tồn bảo trưởng giả rằng: - Ông hãy nghe tôi nói đây,
thịt gà ông đương ăn là phụ thân đời trước của ông. Vì ông ấy lúc sanh tiền xan
tham không hề xả thí nên sau khi bỏ thân, vì tiếc của, sanh làm gà trong nhà
ông cho ông ăn thịt. Cô vợ hiện tại là mẫu thân đời trước của ông. Vì tâm luyến
ái đối với ông chưa dứt nên trở lại làm vợ ông. Đứa con cưng như bửu bối hiện
tại đây, vào thời quá khứ nó từng làm quỷ La Sát. Lúc ấy, ông là người khách
buôn, đi thuyền vào bể cả, bị gió thổi trôi giạt vào nước quỷ La Sát nên bị quỷ
La Sát ăn. Như thế, trải qua năm trăm đời, thọ mạng của quỷ ấy kết thúc, chuyển
sanh trong nhân gian làm con ông Vì quả báo của tội nghiệp dư thừa chưa trả hết
nên nó đặc biệt đến làm con ông để mưu sát hại ông. Hiện tại dù ông đối đãi tử
tế với nó cách nào, ngày cuối cùng sinh mạng của ông về tay nó giải
quyết.
Dù sa môn nói
như vậy, nhưng ông trưởng giả không thể nào tin được. Phật bèn dùng thần thông
cho ông trưởng giả thấy, để trưởng giả tự mình quan sát biết rõ túc mạng của
mình. Bấy giờ, trưởng giả thấy lời của Phật chân thật không sai, liền đối trước
Phật cầu ai sám hối, và cầu Phật vì mình truyền Tam Quy Ngũ Giới.
Phật truyền quy
giới cho trưởng giả xong bèn thuyết pháp. Ngay lúc ấy, trưởng giả chứng sơ quả
Tu Đà Hoàn.
Chúng sanh trôi
lăn trong vòng sanh tử, xoay vần qua lại trong sáu đường đâu ai biết được! Có
điều chúng ta phải thừa nhận là từ vô thỉ kiếp trở lại, chúng ta đã trôi lăn trong
sanh tử, tự nhiên mới tin chắc được tất cả chúng sanh đều từng làm cha mẹ của
chúng ta. Chúng ta cũng từng làm cha mẹ của chúng sanh.
Tất cả những
loài chúng sanh có rất nhiều, chủng loại không đồng nhau, đều đã là cha mẹ của
chúng ta. Chúng ta đối với cha mẹ cần phải hết lòng hiếu thuận, cung kính không
hết, đâu nên trở lại giết hại mà ăn? Như hiện tại “đi giết hại chúng sanh kia”
để ăn thịt (bổn Việt văn dịch là “nếu giết chúng để ăn thịt”) ấy chính là không
khác gì “giết cha mẹ nhiều đời, nhiều kiếp” của chúng ta.
Vì vậy, xin hãy
lắng lòng một phen để suy nghĩ: Sinh mạng của cha mẹ có thể tùy tiện giết hại
hay sao? Nhục thể của cha mẹ có thể tùy tiện thọ dụng hay sao? Lại đi giết hại để
ăn, đó chẳng phải là đại bất hiếu và trái với tâm từ bi của người Phật tử hay
sao?!
Cho nên bất cứ
phương diện nào, giết hại cha mẹ mà ăn thịt đều là chuyện bất thành. Việc này
trong Phật pháp cố nhiên là ngăn cấm, mà chính luân thường đạo lý trong thế
gian cũng không cho phép.
Điều đáng tiếc
là những người thông thường trên thế gian, vì tầm nhãn quan quá ngắn và sự nhận
thức cũng không xa, nên chỉ nhận biết cha mẹ hiện đời mới thực là cha mẹ. Họ không
biết rằng cha mẹ nhiều đời, nhiều kiếp rất nhiều và chỉ vọng nhận sắc thân tứ
đại hiện tiền là thân mình, nên đối với chí lý “vạn vật đồng nhất thể” họ hoàn
toàn không hiểu rõ.
Cho nên rõ ràng
ở trong không có nhân ngã bỉ thử mà vì hư vọng, sanh khởi kiến chấp cho là có
nhân ngã bỉ thử. Do đó mà khinh khi, lăng nhục lẫn nhau, thậm chí tàn hại, giết
chóc lẫn nhau. Chỉ mong thụ hưởng sự an vui cho cá nhân mình, không nghĩ đến sự
đau khổ, buồn thương của kẻ khác.
Do đó trên thế
gian không biết bao nhiêu vấn đề hàng hàng, lớp lớp phát hiện không cùng, các
thứ tai nạn cũng liên tục đưa đến vô tận. Nếu chân thật thể nhận một cách sâu
rộng rằng tất cả nam tử, nữ nhân trong lục thú đều là cha mẹ của chúng ta. Giữa
đó và đây yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. Không ai xâm hại ai, không ai đả kích
ai, cũng không lấn hiếp ai, không giết chóc ai. Lúc ấy, đi đến nơi nào cũng
tràn ngập không khí hòa vui, thì trên thế gian này đâu có vấn đề gì phát
sanh.
Thế nên với luận
đề: “Tất cả chúng sanh trong lục đạo đều là cha mẹ của mình” trong Phật pháp
thường tuyên bố, toàn thể nhân loại cần xem trọng cũng là biểu hiện cụ thể sự
“sanh duyên từ” (1) trong Phật pháp đã nói. Chẳng những thế, giết hại chúng
sanh để ăn thịt là giết hại cha mẹ nhiều đời, nhiều kiếp chúng sanh. Và khi bạn
sát hại thân chúng sanh, không nên cho đó chỉ là giết hại chúng sanh, mà chính
thực ra, bạn cũng đã “giết thân cũ của mình”. Sự việc ấy phải giảng thế nào cho
thông?
Phải biết rằng
chúng sanh trong ba cõi sáu đường, bỏ thân rồi lại thọ thân. Hoàn toàn bẩm thọ
tứ đại làm thể chất, mà thân cũ của chúng ta cũng do tứ đại hợp thành. Sanh
mạng nhục thể của tất cả chúng sanh cũng như thân của chúng ta đều do tứ đại
hợp thành. Vì thế, nếu sát hại thân người chính là đồng nghĩa với sát hại thân
cũ của mình.
Vì sao biết thân
cũ của mình do tứ đại hòa hợp mà thành?
Vì tất cả địa,
thủy là thân trước của ta. Tất cả hỏa, phong là bổn thể của ta (bổn Việt văn
dịch là “tất cả chất tứ đại đều là bổn thân, bổn thể của ta”). Chúng sanh nương
nơi tứ đại mà thành thể chất. Việc này trong kinh chỗ nào cũng đều nói như
vậy.
Nên kinh Viên
Giác nói: “Thân này do tứ đại hòa hợp mà thành. Nghĩa là tóc, lông, răng, móng,
da, thịt, gân, xương, tủy, não v.v... thuộc về Địa đại. Mũi rãi, máu, mủ, các
thứ tân dịch thuộc về Thủy đại. Hơi ấm thuộc về Hỏa đại. Hơi thở và sự động
chuyển thuộc về Phong đại. Chúng sanh lúc sanh ra do tứ đại tụ hợp mà thành
thân bên trong.
Chúng sanh lúc
chết do tứ đại ly tán thành vật bên ngoài. Dù tụ hợp hay ly tán tùy duyên,
nhưng bản tánh của nó không khác. Cho nên, thánh nhân lấy chúng sanh làm thân
mình, lấy vạn vật làm tự thể.
Vì rằng thân
chúng sanh ở lục đạo, tam giới, xương thịt thuộc về Địa đại, huyết dịch thuộc
về Thủy đại, mà đó cũng chính là thân đời trước của chúng ta. Hơi ấm thuộc về
Hỏa đại, cử động và hơi thở thuộc về Phong đại, đó cũng chính là bổn thể của
chúng ta.
Chẳng những trong
Phật pháp giảng như vậy, mà trong thế tục cũng nói như sau: “Trong tấc lòng chí
khí của trượng phu, tự có phong vân liệt sĩ, giao du trong tứ hải đều là huynh
đệ”.
Đây là đem tư
tưởng “vạn vật đồng nhất thể” để biểu hiện cụ thể “pháp duyên từ” (2) trong
Phật pháp. Nói như thế để rõ rằng: Cha mẹ là người thân nhất của chúng ta, thân
mình là vật yêu nhất của đời ta. Cả hai huyết nhục tương quan này lại là đồng
thể.
Thế nên phải
nhanh chóng và thường xuyên làm việc phóng sanh. Chẳng những một đời, hai đời
thường làm việc phóng sanh mà phải là đời đời, kiếp kiếp, bất cứ thọ sanh nơi nào
cũng phải thường thực hành việc phóng sanh này, không nên để cho chúng sanh bị
sự đau khổ vì giết hại.
Lại còn phải làm
cho chúng sanh được hưởng sự khoái lạc, an nhiên, không sợ hãi. Vì sự an lạc,
xa lìa thống khổ của chúng sanh chính là sự an lạc, xa lìa thống khổ của chính
mình.
Thế nên sự cấm
sát sanh và thực hành phóng sanh trong Phật pháp, xét theo bên ngoài là cứu tất
cả chúng sanh trong lục đạo. Nhưng bên trong chính là cứu cha mẹ của chúng ta
mà cũng là cứu bản thân của chúng ta.
Vì thế, mỗi đời
thọ sanh ở bất cứ nơi nào đều phải làm việc phóng sanh. Đây là quy luật thường
hằng, tự nhiên phải như thế. Không phải là thọ sanh ở nơi này mới cần phóng
sanh, còn thọ sanh ở nơi kia không cần phóng sanh.
Tại sao vậy? Vì
phóng sanh là pháp phải thường làm, đời đời, kiếp kiếp đều phải phát tâm phóng
sanh như vậy. Chẳng những tự mình lấy sự phóng sanh là điều cần phải làm mà còn
cần phải khuyên bảo người khác phóng sanh.
Nếu chỉ một
người thực hành hạnh phóng sanh, không sát sanh thì hiệu quả sẽ vô cùng nhỏ
hẹp. Thế nên cần phải khuyên bảo mọi người phóng sanh. Được vậy, trong nhân
gian mới có thể sống trong không khí hòa bình chân thực. Đoạn trên đây là giải
thích câu: “Cho nên thường phải làm việc phóng sanh”.
Như trên đã nói,
chẳng những tự mình làm việc phóng sanh và khuyên bảo người phóng sanh, nếu lúc
thấy người đời sát sanh, cần phải dùng phương tiện thiện xảo ngăn chận. Lại phải
tận tâm tận lực cứu hộ chúng sanh bị giết hại, giải trừ nỗi thống khổ bị đánh
đập, giết chóc cùng những tai nạn lâm nguy sắp chết cho chúng sanh.
Cứu hộ, giải trừ
khổ nạn bằng cách nào?
Đầu tiên phải
dùng những lời nhã nhặn, khéo léo khuyến dụ để giáo hóa, dẫn dắt người tạo sát
nghiệp, khiến cho họ thấy việc sát sanh là tàn nhẫn mà không còn tạo nghiệp sát
hại nữa. Như thế mới là thượng sách bậc nhất. Tuyệt đối không nên dùng lời
thẳng thắn quở trách, chỉ trích.
Chẳng hạn nói
rằng: “Ông không nên tạo sát nghiệp như vậy, giết hại chúng sanh như thế là một
điều tàn ác v.v...” Vì dùng những lời thẳng thắn không vị nể, cũng như lên mặt
dạy người, chẳng những không thể đạt được mục đích cứu hộ sanh mạng chúng sanh
mà trái lại làm cho người tạo sát nghiệp kia buồn thẹn, tức giận và càng sát
hại chúng sanh nhiều hơn. Thậm chí, đôi khi còn gây nguy hiểm cho bản thân bạn
nữa là khác.
Nếu dùng lời
khéo léo khuyến dụ không có hiệu lực, thì nếu mình có đủ khả năng, nên dùng
tiền mua chuộc lại chúng sanh ấy để phóng sanh. Đây là trường hợp nếu mình
không đủ sức khuyến hóa người khác thì mua hay chuộc lại sinh mạng của chúng
sanh để đạt được mục đích cứu hộ chúng sanh của mình, hầu giúp các chúng sanh
kia khỏi bị giết hại, cắt cổ, nhổ lông... để đạt được sự an ổn, khoái lạc.
Nếu khi thấy
người đời sát sanh, mà làm ngơ như không thấy, không tìm phương tiện cứu hộ,
giải trừ khổ nạn cho chúng sanh, thì hoàn toàn không phải là người Phật tử có
đủ tâm đại bi, đại nguyện.
Thấy người khác
sát sanh, dùng phương tiện để cứu hộ chúng sanh sắp bị sát hại, đương nhiên
biểu lộ tâm từ bi của người Phật tử. Nhưng việc làm ấy, chỉ có thể cứu hộ một
thiểu số sinh mạng chúng sanh bị thống khổ, không thể thực hiện việc cứu độ một
cách rộng rãi.
Muốn cứu hộ
chúng sanh một cách rộng rãi, phải thường đem giới Bồ Tát giảng dạy giáo hóa.
Chỉ có thực hành như vậy mới có thể đạt đến mục đích cứu hộ tất cả chúng sanh, giúp
chúng sanh vĩnh viễn thoát ly đại thống khổ sanh tử và đạt được đến cảnh Đại
Niết Bàn an lạc.
Giảng giải Đại
Thừa Bồ Tát giới, điều thiết yếu là làm sao cho chúng sanh hiểu chân lý “chư
Phật cùng chúng sanh đồng nhất thể” một cách minh bạch. Đem chánh pháp trợ giúp
cho tâm linh của chúng sanh để diệt trừ tất cả phiền não tham, sân, si... bên
trong và không còn bị phiền não sai sử mà ở trong biển sanh tử phiêu lưu khắp
đông, tây. Đấy mới là sự độ sanh chân chánh của Bồ Tát.
Và do đó, chúng
ta thấy việc độ sanh của Phật pháp không phải là chỉ đem vật chất cung cấp cho
chúng sanh đầy đủ, mà cần phải cấp cho sự giải thoát của tâm linh. Vì thế,
thông thường các kinh đều nói là đem chánh pháp lợi ích quần sanh.
Nếu không vì
chúng sanh giảng nói pháp Bồ Tát, thì rất khó làm cho chúng sanh trở lại bổn
nguyên tâm địa mà được giải thoát. Đây là sự cứu hộ chúng sanh một cách triệt
để, đồng thời cũng biểu hiện cụ thể pháp Vô Duyên Từ (3) trong Phật pháp.
Hành giả Bồ Tát
giảng nói kinh luật, lấy việc cứu độ tất cả chúng sanh cùng cha mẹ nhiều đời
nhiều kiếp làm mục đích. Nhưng nếu cha mẹ, anh em hiện đời của mình thệ thế, ngày
mới lâm chung, hoặc ngày cúng kỵ mỗi năm, nên thỉnh Pháp Sư giảng kinh luật Bồ
Tát giới để cầu cho người chết nhờ phước đức ấy được vãng sanh Tịnh Độ, ra mắt
chư Phật, hoặc được thác sanh trong cõi trời, cõi người.
Trong Phật giáo
của chúng ta, xưa nay thường vì người quá cố mà làm Phật sự: tụng kinh siêu độ,
nhưng rất ít có ai thỉnh Pháp Sư giảng kinh để làm lễ siêu tiến cho vong nhân. Tụng
kinh siêu độ cố nhiên là một pháp tiến vong (cúng vong), giảng kinh siêu độ lại
là một pháp càng trọng yếu hơn.
Giảng kinh luật
Đại Thừa tại sao có thể siêu độ được vong nhân?
Vì kinh luật Đại
Thừa có công năng sanh thiện diệt ác và tiêu tội được phước. Cho nên giảng kinh
luật này để tư trợ cho người chết có thể làm cho nghiệp chướng của họ được tiêu
trừ, trí huệ họ được phát sanh. Nếu thác sanh vào cõi trời, người, nhờ công đức
giảng kinh luật tư trợ, vong nhân được vãng sanh Tịnh Độ, ra mắt chư Phật. Nếu đọa
lạc chốn u đồ, thì nhờ công đức giảng kinh tư trợ, vong giả được thoát ly u đồ,
sanh cõi nhân thiên.
Phật giáo có
giới Thanh Văn và Bồ Tát, nhưng vì sao ở đây đặc biệt chỉ giảng nói kinh luật
Bồ Tát giới?
Vì Bồ Tát giới
là giới có thể bao hàm luôn giới Thanh Văn trong ấy. Trái lại, giới Thanh Văn
không thể bao hàm Bồ Tát giới. Vì thế, nên phải giảng Bồ Tát giới... Lại nữa, Bồ
Tát phải lấy việc rộng độ chúng sanh làm mục đích, nên chỉ có giảng giải Bồ Tát
giới mới có thể độ tất cả chúng sanh.
Cho nên trong
kinh, Phật riêng giảng dạy Bồ Tát giới, nhất là Đại Thừa Phạm Võng kinh hiện
đang giảng đây. Kinh này do đức Lô Xá Na truyền lại, là bổn nguyên của chư
Phật, là căn bổn của tất cả chúng sanh, là cửa đầu tiên vào cảnh Niết Bàn, là
con đường tắt qua cõi nhân, thiên.
Người sống nếu
một phen được nghe Bồ Tát giới kinh xuyên qua nhĩ căn sẽ vĩnh viễn thành Phật
chủng. Người quá cố nếu được nghe Bồ Tát giới kinh tư trợ, nếu đang ở chốn u minh,
nương nơi phước đức ấy được vãng sanh Tịnh Độ, thấy Phật nghe pháp, hoặc được
sanh lên thiên giới hưởng thọ khoái lạc thù thắng, hoặc sanh cõi nhân gian tu
học pháp Bồ Đề của Phật.
Vì thế nên biết:
giảng nói giới pháp công đức rất lớn, không chi sánh bằng.
Ở đây có người
hỏi:
Thân tâm của con
người hiện còn và người quá cố sai khác không đồng. Thân tâm của người còn sống
tu các phước nghiệp thì lại có thể làm cho thân tâm, anh linh của người quá vãng
được phước lạc ư? Lại nữa, Phật pháp xưa nay thường nói “tự tác, tự thọ”, hiện
tại tự mình tạo phước mà người khác hưởng thọ thì không trái với luật nhân quả
hay sao?
Đáp: Đúng là như
vậy không sai, vì nói theo luật nhân quả thì vấn đề này quả thật không có lý vì
mình làm mà người khác hưởng thọ. Nhưng nói về sự mình và người làm duyên trợ
giúp lẫn nhau, không phải là hoàn toàn không có công dụng. Như đức Mục Kiền
Liên vì mẫu thân làm phước, vong linh của bà liền được thoát khỏi những thống
khổ trong cảnh giới ngạ quỷ, được vãng sanh thiên giới.
Do đó, dù thân tâm
của kia đây sai khác bất đồng, nhưng ý nghĩ tương cảm, tương ứng giữa người này
và người kia không phải hoàn toàn không có. Vì vậy, dù tụng kinh hoặc giảng nói
kinh luật Đại Thừa đều có công dụng siêu độ cho vong nhân.
Về việc giảng
Luật, ở Trung Hoa đầu tiên vào truyền Nguyên Ngụy, có Pháp Sư Pháp Thân. Đến
triều nhà Đường có Tăng Thống luật sư ở nước Tân La. Lúc ngài ở chùa Hoàng Long
(bổn quốc) giảng Bồ Tát giới suốt bảy ngày đêm, cảm động đến thiên giới.
Những người còn
sống thì được giải trừ nguy nan. Đó là việc lành cứu tế sinh mạng cho chúng
sanh. Người quá vãng thì được siêu độ thần thức, đó là việc làm cứu huệ mạng
cho chúng sanh.
Đối với chúng
sanh còn sống, không vì họ giải trừ nguy nan và cứu tế lúc họ bị giết hại, tức
là không nghĩ tưởng đến sinh mạng của chúng sanh. Đối với những chúng sanh đã
chết, không vì vong giả siêu độ thần thức bị trầm luân, ấy là không đoái tưởng
đến huệ mạng của chúng sanh. Cho nên trong kinh kết luận: “Phật tử này phạm
khinh cấu tội”.
Cứu nguy nạn cho
chúng sanh lúc còn sống là lưu lộ tâm từ bi của người Phật tử. Siêu độ thần
thức của vong nhân khi họ qua đời là biểu hiện tâm hiếu thuận của người Phật
tử.
Nếu bất hiếu,
bất từ thì đâu thể nào tránh khỏi tội lỗi, mà phải kết thành tội khinh cấu. Nếu
đem Tam Tụ Tịnh Giới phối hợp với giới này thì thấy rằng:
- Phát khởi từ
tâm, ngăn cấm sự sát hại là không phạm Nhiếp Luật Nghi giới.
- Phương tiện
cứu hộ là giữ gìn Nhiếp Thiện Pháp Giới.
- Thực hành việc
phóng sanh là phụng hành Nhiếp Chúng Sanh Giới.
Vì thế, nghiêm
trì giới này không vi phạm là hoàn toàn đầy đủ Tam Tụ Tịnh Giới của Bồ Tát
vậy.
Hai câu: “Mười
giới như thế cần phải học và hết lòng kính trọng phụng trì như trong phẩm Diệt
Tội đã giảng rõ mỗi giới”: Hai câu này là lời tổng kết, lược khuyến đối với
mười giới đã giảng trên. Nghĩa là một vị Phật tử đã thọ Bồ Tát giới, đối với
mười giới đã giảng, cần phải triệt để theo đúng mà tu học từng giờ, từng phút,
phải hết lòng kính trọng phụng trì không được phút giây xao lãng, giải đãi.
Phần giảng từ trước đến đây chỉ là sơ lược. Ở trong phẩm Diệt Tội có giảng chi
tiết mỗi giới.
Chú
thích
1. Ba loại từ
bi:
- Sanh duyên từ:
gọi đủ là Chúng Sanh Duyên Từ Bi. Dùng tâm từ bi xem xét, quan sát tất cả chúng
sanh trong lục đạo ở mười phương đều là cha mẹ, chị em, con cháu của mình. Nương
theo đó mà nghĩ suy tìm cách cứu khổ nên gọi là Chúng Sanh Duyên Từ Bi tâm.
Nghĩa là tâm từ bi do nơi chúng sanh mà sanh khởi. Tâm từ bi này đa số ở những
hành giả còn ở địa vĩ phàm phu, hoặc bậc Hữu Học, chưa đoạn diệt phiền não mà
sanh khởi.
- Pháp duyên từ:
Gọi đủ là Pháp Duyên Từ Bi tâm, là hàng thánh nhân trong tam thừa đã đoạn phiền
não, thông đạt đến lý Pháp không (các pháp duyên sanh như huyễn, không thực có),
đã phá trừ được ngã tướng (phá tướng chấp có ngã), phá tướng nhất dị (không
thấy có tướng giống và khác, nghĩa là không còn thấy mình và người khác nhau),
diệt tướng nhất dị. Thấy chúng sanh không hiểu rõ lý pháp này, sanh lòng thương
xót, nhứt tâm, nhứt ý muốn cứu khổ ban vui cho chúng sanh. Luôn luôn tùy thuận
tâm ý của mỗi chúng sanh mà cứu độ, nên mệnh danh là Pháp Duyên Sanh Từ Bi (tâm
từ bi duyên nơi các pháp mà phát sanh).
- Vô duyên từ:
gọi đủ là Vô Duyên Từ Bi tân. Tâm từ bi này chỉ có chư Phật mới có. Vì tâm từ
bi của chư Phật không an trụ trong các pháp hữu vi hoặc vô vi, cũng không an trụ
trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Biết các duyên không thật có, đều là
điên đảo, hư vọng. Cho nên tâm của chư Phật không có cảnh sở duyên. Nghĩa là
không duyên vào một pháp nào cả. Chư Phật vì thấy chúng sanh không đạt được
Thật Tướng của các pháp nên bị luân hồi trong lục đạo, tâm thường đắm trước các
pháp thủ xả, phân biệt, nên tâm chư Phật không duyên nơi chúng sanh, mà khiến
cho tất cả chúng sanh tự nhiên được sự lợi ích bởi sự cứu khổ, ban vui, nên gọi
là Vô Duyên Từ Bi Tâm (tâm từ bi của chư Phật không duyên vào một pháp
nào).
Ba loại tâm từ
bi này được giải thích rõ trong Đại Trí Độ Luận, quyển hai mươi và trong kinh
Đại Niết Bàn.
Năm thứ lợi ích
của tâm từ bi theo kinh Đàn Đặc Ca:
1. Không bị đao
gươm làm hại sanh mạng.
2. Không bị tất
cả các thứ độc dược làm hại.
3. Không bị lửa
cháy.
4. Không bị chết
vì nạn nước.
5. Những người
hung ác, sân hận khi trông thấy liền phát khởi thiện tâm.
Mười hai lợi ích
của tâm từ bi theo kinh Pháp Cú:
1. Phước đức
thường theo bên mình.
2. Khi nằm ngủ
được an ổn.
3. Lúc thức cũng
được an ổn.
4. Lúc ngủ không
thấy những điềm ác mộng.
5.
6. Mọi người đều
mến thương.
7. Không bị tất
cả thú độc làm hại.
8. Không bị đao
binh làm hại.
9. Không bị chết
vì nạn nước.
10. Không bị
chết vì nạn lửa.
11. Ở nơi nào
cũng được nhiều lợi ích.
12. Sau khi xả
thân được sanh lên cõi trời Phạm thiên.
(Nếu những người
tu hạnh từ bi mà kiêm tu pháp môn Tịnh Độ thì lúc sanh tiền được những điều lợi
ích như trên, sau khi xả thân được sanh về Cực Lạc).
Là Phật tử đã
thọ Tâm Địa đại giới, tu Bồ Tát hạnh, thì hiện tiền được nhiều lợi lạc. Phải
nên chuyên tâm niệm Phật, đem những công hạnh thực hành tâm từ bi hồi hướng về
Tây Phương Cực Lạc thì chẳng những hiện tiền được hưởng những lợi ích như trong
kinh đã nói, khi xả báo thân được vãng sanh về Cực Lạc, được thấy Phật, nghe
pháp, được phẩm vị cao. Sau đó, tiếp tục tu hành cho đến khi viên thành Phật
quả, thành một bậc đại phước, đại trí, hiện thân trong vô lượng thế giới, cứu
độ chúng sanh.