BÁT NHÃ TÂM KINH GIẢNG GIẢI
VÔ THƯỢNG NIẾT BÀN
Lê Sỹ Minh Tùng
35 Thuyết Nhị Nguyên và Chân Lý Nhất Như
Lục Tổ nói:”không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là
bản lai diện mục của
Thượng Tọa Minh?”.
Khi
con người không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không nghĩ tốt, không nghĩ xấu, không nghĩ hay, không nghĩ dở …là họ đang sống với cái
tâm bình thường của mình. Vì thế
Kinh Hoa Nghiêm có câu:”Bản lai
diện mục,
Niết bàn diệu tâm” là vậy.
Con người thường hay có
thói quen là
so sánh
hay dùng đối tượng để
đối chiếu. Chẳng hạn cái nhà nầy thì đẹp hơn cái
nhà kia. Xe của tôi thì sang hơn xe của anh. Nhà hàng nầy nấu ngon hơn
nhà hàng kia…Đây là kết quả của
thuyết Nhị Nguyên (Dualism). Thuyết nầy cho rằng các
hiện tượng của
nhân sinh vũ trụ là do hai thứ
bản thể đối nghịch làm thành, như thiện và ác,
thể chất và linh hồn…Thuyết
nhị nguyên nầy rất được
ưa chuộng đối với người
Tây phương vì nó giúp cho họ dễ dàng
giải thích mọi
hiện tượng hoặc đen hoặc trắng.
Thí dụ một can phạm thì hoặc là có tội hoặc là vô tội.
Đối với triết lý
Tây
phương thì họ
tin tưởng vào thuyết “Tiền Định” (Determinism) mà nhà Phật gọi là thuyết “Nhân Quả”. Thuyết nầy cho rằng
toàn thể thiên nhiên, trong đó có
loài người, được
chi phối bởi
luật nhân quả (the law
of cause and effect) tức là mỗi
hiện tượng xảy ra không thể nào tự có mà phải có
nguyên nhân. Đây cũng chính là
giả thuyết căn bản của khoa học để
tìm hiểu những
định luật của
thiên nhiên. Đối nghịch với thuyết
Tiền Định hay
Nhân Quả là thuyết
Vô Định (Indeterminism) mà nhà Phật gọi là thuyết “Nhân Duyên”. Thuyết nầy cho rằng
mọi việc xảy ra đều là do
tình cờ ngẫu nhiên chứ chẳng có
liên quan gì tới bất kỳ những gì xảy
ra trước đó. Hai thuyết
Tiền Định và
Vô Định là hai
thái cực đã từng làm cho các
triết gia Tây phương điên đầu bởi vì cái nầy đúng thì cái đó không thể sai được. Bởi có hai
thái cực như thế nên
thuyết Nhị Nguyên mới ra đời.
Nhưng
việc đời không luôn luôn
đơn giản như thế. Trong
thế gian nầy có biết bao
trường hợp ngoại lệ mà
thuyết Nhị Nguyên đành bó tay. Chẳng hạn như có rất nhiều
gia đình trâm anh thế phiệt,
đa số con cháu
ngoan ngoãn nết na tức là hợp với thuyết
Nhân Quả
(
Tiền định)
tự nhiên lại có một đứa con lêu lổng hoang đàng tức là hợp
với thuyết
Nhân Duyên (
Vô định). Ngược lại trong chốn bùn dơ lại có khi mọc lên một đóa
hoa sen thơm ngát.
Chân lý của
Đức Phật là xóa tan những
biên giới của
tư tưởng nhị nguyên để
trở về với
bản thể chân thật của nó là
thân tâm nhất như. Chẳng hạn như hiện nay ở Hoa Kỳ danh từ
sức khỏe tinh thần và
sức khỏe thể xác được
áp dụng rất
rộng rãi. Khi tâm
bất an thì đi
bác sĩ tâm lý còn bệnh về thể xác thì
chúng ta đi
bác sĩ gia đình. Nhưng đối với
Phật giáo thì
tinh thần và thể xác
là một.
Tinh thần nằm trong thể xác và ngược lại. Thể xác có
sinh tồn ổn thỏa cần có một
tinh thần lành mạnh và
con người muốn được an vui
tự
tại thì cả
tinh thần lẫn thể xác phải
hoạt động hòa điệu
với nhau.
Chỉ
có
Phật giáo mới cho
chúng ta thấy được lẽ thật của tất cả
hiện tượng trong
vũ trụ nầy mà không còn
hồ nghi. Bởi vì hễ
bản thể có tới đâu thì
hiện tượng có tới đấy.
Con người hiện nay vì
chạy theo thuyết Nhị Nguyên nên sống trong
quay cuồng điên đảo vì thế
Đức Phật mới dạy
chúng
sinh quay về sống với nguyên lý
Bất Nhị tức là không hai thì tâm tư sẽ
được ổn thỏa và cuộc sống sẽ
trở lại an vui
tự tại.Vì thế trong cái
thế giới huyễn hóa nầy tất cả
mọi người,
mọi vật và mọi
hiện tượng đều là Không và cũng chính từ trong cái Không nầy mà không có một
cá thể riêng biệt
độc lập nào có thể tách hẳn ra khỏi môi trường chung quanh được. Cũng như Sắc và Không thì chúng không bao giờ có thể tách rời nhau được. Do đó không có gì là toàn Sắc và cũng chẳng có gì là toàn Không. Như thế Sắc tức là Không và Không tức là Sắc
hay nói một cách khác Sắc và Không là một tức là
bất nhị. Nếu
áp dụng thuyết nhị nguyên vào
trong đời sống
gia đình thì người chồng và người vợ là hai. Chồng có
tiền bạc riêng của chồng và vợ thì
hoàn toàn độc lập riêng của vợ. Thử
hỏi
gia đình nầy thật sự có
hạnh phúc không? Bây giờ nếu
ứng dụng nguyên lý
bất nhị thì chồng tức là vợ và vợ chính là chồng, tuy hai nhưng mà một thì
gia đình nầy mới thật sự
hạnh phúc. Vì thế
cổ nhân có câu:”của chồng công vợ” là vậy.
Tất cả
vạn pháp mà
ngũ quan nhận
biết được thật ra chỉ là cái Tướng giả Có bên ngoài. Còn cái
bản thể chân thật bên trong mà nhà Phật gọi là
Tự tánh thanh tịnh thì
bất biến không thay đổi. Nếu nhìn theo Tướng thì có
phân biệt tốt xấu, lớn nhỏ tức là
nhị nguyên. Mà Tướng là giả Có,
không thật. Còn dựa theo Tánh thì
hoàn toàn đầy đủ, không cao không thấp, không tốt không xấu…Vì tốt xấu, cao thấp,
sinh tử Niết bàn,
phiền não Bồ-đề vẫn là một. Nói một cách khác trong tốt có xấu, trong cao có thấp, trong
sinh tử có
Niết bàn và trong
phiền não có Bồ-đề. Bởi vì một khi
con người biết
thức tỉnh loại bỏ hết
phiền não thì Bồ-đề
hiện ra chớ không phải là
phiền não một nơi mà Bồ-đề ở
nơi khác.
Thiện ác thì
cũng thế. Khi nói thiện thì phải có đối tượng là ác. Do đó
đạo Phật dạy không nghĩ thiện, không
nghĩ ác tức là
tiêu diệt đối tượng. Không còn đối tượng tức là bỏ
phân
biệt, bỏ
so sánh thì
tâm không chạy theo vọng niệm vì thế đây mới chính là
thể tánh chân thật có sẵn trong tất cả
mọi người, đó là
chơn tâm vậy. Cái
tánh thấy, tánh nghe hay tánh biết cũng chính là
tự tánh thanh tịnh nầy mà ra.
Thêm nữa, khi
Lục Tổ nói
bản lai diện mục tức là gương mặt thật sẵn có muôn đời của
chúng ta và đó cũng chính là cái
chơn tâm, cái
Phật tánh của
chúng ta vậy. Khi không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không nghĩ tốt, không nghĩ xấu thì
tâm không nghĩ tức là
tâm không khởi
vọng niệm. Bởi vì có bất cứ một
ý niệm nào trong tâm cho dù tốt hay xấu thì cũng là
vọng niệm, mà khởi niệm là vọng động sẽ làm mất cái
chân thật tức là
chơn tâm của mình. Do đó tâm dừng nghĩ thì
chơn tâm mới hiện bày. Vì thế
Lục Tổ khuyên nếu
Thượng tọa Minh đừng
để tâm chạy theo vọng niệm thì
chơn tâm sẽ hiện bày. Cái
chơn tâm nầy chính là cái tánh giác
sẳn có trong
Thượng tọa Minh và cũng trong tất cả mọi
chúng ta.
Sau khi
ngộ đạo chính
Lục Tổ cũng thốt luôn năm cái không ngờ. Ngài nói:
1) Không ngờ tánh mình vốn tự
thanh tịnh,
2) Không ngờ tánh mình vốn không
sanh diệt,
3) Không ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ,
4) Không ngờ tánh mình vốn không
giao động,
5) Không ngờ tánh mình hay sanh muôn pháp.
Khi
chúng ta sống mà không
tranh giành, hơn thua,
phân biệt thì tâm của
chúng ta sẽ
vô cùng trong sạch,
thanh tịnh và không còn
phiền não. Cái tâm nầy chính là cái
tâm thanh tịnh thường có trong tất cả
mọi người mà
chúng ta bỏ quên để
chạy theo tâm
phiền não khổ đau. Cái
tâm thanh tịnh
nầy chính là
thật Tánh của
chúng ta. Đó là cái không ngờ thứ nhất.
Con
người vì
chạy theo vọng niệm nên cuộc sống lúc nào cũng
điên đảo mà tạo ra nghiệp.
Tự tánh vốn
thanh tịnh nên không khởi
vọng niệm.
Nếu không khởi
vọng niệm thì
chúng ta không gây ra nghiệp. Mà không tạo nghiệp thì không còn
sanh diệt tức là
hoàn toàn viễn ly sanh tử luân hồi. Đó là cái không ngờ thứ hai.
Bất cứ ai khi vừa mới vừa lọt lòng mẹ thì
tự nhiên bật khóc oa oa mà không cần ai dạy. Lớn lên một chút chúng biết bò rồi biết đi cũng là tự biết chớ không phải chờ
cha mẹ dạy mới biết. Khi đói thì chúng khóc đòi ăn, buồn ngũ thì chúng lăn ra ngủ. Tất cả những cái biết có sẵn như thế thì gọi là
tự tánh.
Con người ai cũng có sẵn cái
tự tánh từ khi mới lọt lòng mẹ
cho đến bây giờ. Cái
tự tánh nầy không thêm, không bớt cho nên
Lục Tổ mới nói tánh
mình vốn tự đầy đủ là như vậy. Vì không
biết điều nầy nên
con người bỏ
tánh mà
chạy theo vọng trần tức là sống với cái
trí thức điên đảo bên ngoài. Đây là cái không ngờ thứ ba.
Cuộc sống càng
văn minh phức
tạp thì
con người càng suy tư,
nghĩ ngợi.
Suy nghĩ về mình, về người,
suy nghĩ về
tinh thần và
suy nghĩ về
vật chất. Có ít thì
suy nghĩ ít, có càng nhiều thì suy đêm nghĩ ngày.
Con người càng
suy nghĩ thì tâm càng vọng động. Mà
suy nghĩ là tâm chớ không phải là tánh. Nhưng
tự tánh của
con người vốn
thanh tịnh, không
suy nghĩ và không
giao động. Vì thế
hằng ngày con người sống với tâm
điên đảo quay cuồng thay vì sống với
tự tánh thanh tịnh của mình. Đó là cái không ngờ thứ tư.
Bản
thể chân như tức là
tự tánh của
con người thì
thường hằng bất biến. Nhưng từ cái
bất biến nầy mà
duyên sanh ra
vạn pháp. Nói một cách khác Chơn không mà
Diệu hữu tức là
bất biến mà
tùy duyên có nghĩa là từ cái Không mà sinh ra tất cả. Đó là cái không ngờ thứ năm.
Nói
tóm lại sự
kiến tánh của
Lục Tổ và của tất cả
chúng sinh là khi
con người biết
quay về sống với cái
tự tánh thanh tịnh của mình thì
chơn tâm từ từ
hiện ra. Đây là
con đường giải thoát giác ngộ. Ngược lại nếu
chúng sinh chay theo tâm tức là
chạy theo vô minh vọng tưởng thì
dĩ nhiên cuộc sống sẽ
trở thành khổ đau,
điên đảo. Càng
vô minh điên đảo thì càng tạo nghiệp và đây là
con đường sinh tử luân hồi.
Lục Tổ lúc
nào cũng chủ trương
con người có
thức tỉnh giác ngộ được hay không là bởi nơi
tự tâm chớ không
nhất thiết do nơi ngồi thiền. Vì
thế pháp tu của
Lục Tổ Huệ Năng được tóm gọn là:
“Vô niệm làm tông,
Vô tướng làm thể,
Vô trụ làm gốc”.
Dựa
theo
Pháp Bảo Đàn kinh thì
Vô niệm là đối với niệm mà không niệm. Nếu thấy tất cả pháp mà
tâm không ô nhiễm tức là
vô niệm. Do đó khi sáu căn
không dính mắc nơi
sáu trần khiến cho sáu thức được
hoàn toàn thanh tịnh, không bị
ô nhiễm,
hoàn toàn tự tại thì đây chính là
vô niệm.
Lục Tổ nói tiếp:
“Người ngộ được pháp
vô niệm thì muôn pháp đều thông, người ngộ được pháp
vô niệm thì thấy
cảnh giới của chư Phật và người ngộ được pháp
vô niệm thì đến
địa vị Phật”.
Ngài
Thần Hội phụ thêm
ý nghĩa chữ
vô niệm là:
“Vô
niệm tức là không có
cảnh giới hay đối tượng nào cả. Nếu còn một
cảnh giới tức chẳng
tương ưng với vô niệm”. Và ngài lại nói thêm:
“Người khéo thấy
vô niệm thì sáu căn chẳng
ô nhiễm. Thấy
vô niệm tức hướng về
Phật trí. Thấy
vô niệm thì gọi là thật Tướng”.
Thiền
sư Huệ Hải là
đệ tử của
Mã Tổ Đạo Nhất, cháu đời thứ ba của
Lục Tổ Huệ
Năng cũng
nhấn mạnh về
ý nghĩa của chữ
vô niệm rằng:
“Vô niệm là ở tất cả chỗ mà
không tâm, không tất cả cảnh, không có những nghĩ cầu và đối với các cảnh sắc mà không khởi động. Người được
vô niệm sáu căn không nhiễm và
tự nhiên được vào
tri kiến chư Phật”.
Thế nào là
vô tướng làm thể?
Con
người vì
mê lầm mà nghĩ rằng thân mình tức là
ngũ uẩn là thật và
vạn pháp sinh diệt cũng là thật cho nên cuộc sống mới
quay cuồng đau khổ. Bây giờ nếu
chúng sinh quay lại để thấy cái
thật Tướng của
con người cũng như
vạn hữu là
Vô tướng thì sẽ không còn
điên đảo nữa. Mà
thật Tướng chính là cái Thể, không
sanh không diệt, của
vạn hữu trong
vũ trụ nầy. Thêm nữa,
chân như tức là Thể của niệm và niệm chính là dụng của
chân như.
Nhưng thế nào là vô niệm?
Vô niệm là không tà niệm chớ không phải là không
chánh niệm. Tại sao?
Nếu
chúng ta niệm có, niệm không chẳng hạn như niệm thiện, niệm ác, niệm khổ vui,
sanh diệt, niệm
oán thân, yêu ghét là tà niệm. Còn chẳng niệm thiện, niệm ác, niệm vui, niệm sướng là
chánh niệm.
Thế nào là
Vô trụ làm gốc?
Vô
trụ là
tâm không dính mắc ở nơi nào tức là sáu căn không dính mắc
sáu trần. Nếu được như thế thì tâm
vô trụ tức là
tâm Phật, hay là
tâm giải thoát, tâm Bồ-đề, hoặc tâm
vô sanh. Đây chính là chứng được
vô sanh pháp nhẫn vậy.
Toàn bộ hệ thống tu của
đạo Phật đều lấy
phản quang tự kỷ làm
trọng tâm vì
phản quang tự kỷ có nghĩa là
xem xét và
quán chiếu lại mình từ
thân thể cho tới
nội tâm để thấy rõ
thân thể và
nội tâm của mình như thế nào. Chẳng hạn như quán thọ thì khổ có nghĩa là
con người phải quay lại để xem tất cả những
cảm giác do
sáu trần đến
với mình thì
chúng ta cảm nhận
rõ ràng chúng đều
vô thường,
không thật
Có và là gốc của khổ đau. Khi
chúng ta bỏ tâm
vọng tưởng mà
phản quang
tự kỷ để thấy được cái
thật tánh thanh tịnh của mình thì đây chính là
Như Lai Thanh Tịnh thiền. Do đó khi đi, đứng, nằm, ngồi
con người lúc nào cũng giữ
Chánh Niệm tức là theo tánh giác thì cũng như
chúng ta đang
tọa thiền vậy. Đối với những bậc
thượng căn lợi trí như
Lục Tổ Huệ
Năng thì họ tiến
xa hơn phản quang tự kỷ để đến
trạng thái gọi là
hồi quang phản chiếu.
Vì thế mỗi khi
Lục Tổ thấy
đệ tử ngồi thiền thì ngài liền kéo lỗ tai bắt phải
đứng dậy. Vậy không
ngồi thiền mà làm
sao ngài được giác ngộ?
Phương pháp hồi quang phản chiếu mà
Lục Tổ đã
thực hành viên mãn là luôn luôn nhớ nơi sáu căn thường
sáng tỏ mà không
phóng ra ngoài. Câu:”Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong
kinh Kim Cang làm ngài
kiến tánh. Có thật chỉ có một câu kinh nầy mà đủ tiềm năng và
sức mạnh để đưa con thuyền
Huệ Năng sang bờ
giác ngộ hay sao? Sự
minh tâm kiến tánh của
Lục Tổ không phải là một sự
tự nhiên mà có mà
đây chính là sự
thức tỉnh toàn vẹn để sống với
tự tánh của mình. Đó là
sáu căn không dính mắc nơi
sáu trần thì tâm
hoàn toàn thanh tịnh và cái tâm nầy chính là
chơn tâm, là cái
tự tánh thanh tịnh sáng suốt thường có trong mỗi
chúng ta. Nhưng thế nào là sáu căn không dính mắc nơi sáu trần? Sáu căn là mắt, tai, lưỡi, mũi, thân và ý và
sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.
Khi mắt thấy sắc mà tâm mê theo sắc là
chạy theo sinh tử, còn
tâm không chạy theo sắc là đạt quả
Bồ đề.
Thí dụ như mắt thấy một chiếc xe thật mới, thật đẹp và lộng lẩy mà tâm của
chúng ta không
rung động tức là lòng tham không nổi dậy. Tại
sao chiếc xe đẹp như thế mà
chúng ta không si mê? Khi biết
vạn pháp giai không thì trên đời nầy có cái gì là thật đâu? Cái
hình tướng đẹp đẻ
bề ngoài nầy chỉ là giả tướng, là do
nhân duyên tạo thành nên bị
sinh diệt. Do đó cái đẹp ngày nay của chiếc xe chỉ là tạm bợ,
nhất thời
bằng một lớp sơn bóng bên ngoài và nó cũng
trở thành xấu và hư hoại như những chiếc xe khác nay mai mà thôi. Thế thì xe vẫn là xe và ta vẫn
là ta, chả có gì là quan trọng cả. Khi biết thế thì
tâm không khởi động niệm tức là
tâm không dính mắc. Nên nhớ
tâm không khởi
vọng niệm và không
phân biệt thì đây chính là
chân tâm vậy.
Âm thanh thì
cũng thế. Khi nghe tiếng nhạc
êm đềm hay
lời khen, tiếng chê
thị phi mà
tâm không khởi
vọng niệm phân biệt tức là ta không bị
si mê hay tức giận thì
tâm không dính mắc.
Cái cạm bẩy trên
thế gian nầy lúc nào vẫn là Tham-Sân-Si làm cho cuộc sống
trở thành điên đảo. Không dính mắc
là biết
buông xả và không
chạy theo tham dục nên không bị con rắn Tham-Sân-Si
hành hạ. Nên nhớ tai và mắt là hai căn rất bén nhạy và nó chính là hai cánh cửa lớn để thâu nhập
vọng niệm từ bên ngoài. Còn lưỡi
nếm những
thức ăn ngon làm ta thích và
thức ăn không ngon làm ta
bực bội,
không vui. Không dính mắc là ăn để sống chớ không phải ăn để gây ra
phiền não. Ngày nào
chúng ta còn thích món nầy hay không thích món nọ là ngày ấy tâm còn dính mắc. Nhắc lại
ngày xưa Đức Phật hằng ngày đi
khất thực thì Ngài
thọ dụng bất cứ những gì
chúng sinh cúng dường mà tâm luôn
thường trụ Niết Bàn có nghĩa là bất cứ món nào Ngài ăn cũng ngon, miễn sao no bụng là xong.
Tấm thân của
con người theo
tinh
thần Phật giáo cũng như chiếc bè dùng để qua
bờ bên kia.
Chúng ta ăn uống để nuôi thân cũng như
tu bổ chiếc bè đừng cho đổ bể chớ đừng sơn son thép vàng mà quên đi
cứu cánh là bến
bờ bên kia chớ không phải chiếc bè. Vì thế nếu
cung phụng cho thân tức là tham có nghĩa là tâm vẫn
còn dính mắc. Còn
khứu giác thì sao?
Con người lúc nào cũng có khuynh hướng
thưởng thức hương vị thơm ngon.
Mùi thơm của hoa dạ lý, hoa lan hoặc
hoa hồng làm cho
con người sảng khoái và
thích thú. Khi ngữi mùi
hoa thơm thì lòng tê tái,
sung sướng muốn hái nó đem cắm trong phòng của
mình. Thế thì từ lòng
si mê biến thành lòng
tham muốn chiếm hữu. Chẳng
hạn như khi thấy mâm cơm trên bàn mà ngữi thấy đồ ăn thơm ngon thì lòng tham nổi dậy muốn ăn cho nhiều, cho thật no. Còn ngữi không thơm ngon thì đâm
chán ghét, muốn đánh đổ nó đi. Vì thế một khi
con người còn muốn
thỏa mãn khứu giác của mình là tâm vẫn còn dính mắc.
Từ
trước
đến nay cái nghe của
chúng ta là dựa theo
âm thanh bên ngoài. Vì
cái nghe duyên theo
âm thanh bên ngoài nên được gọi là tùy lưu có nghĩa là trôi theo giòng bên ngoài. Bây giờ nếu
chúng ta không trôi theo theo giòng bên ngoài mà chỉ nhớ đến tánh nghe mà tánh nghe thì không có
tướng mạo và trùm phắp
mười phương nên không bị
hạn chế hay ngăn cách thì
dĩ nhiên tâm không còn bị dính mắc. Mắt thì
cũng thế, đừng để
thị giác duyên theo
sắc trần mà chỉ
quay về với
tánh thấy thì
tâm không bị dính mắc.
Về sau Tổ
Lâm Tế và những vị Tổ khác cũng
không thích
ngồi thiền mà chỉ
hồi quang phản chiếu mà thôi. Vì thế khi
giảng pháp cho
đồ chúng thì ngài hỏi:”Người đang
nghe pháp đây là ai?”. Ý của Tổ
Lâm Tế là sáu căn của
con người là sáu cánh cửa để
tiếp nhận gió
lục trần. Nếu
con người biết dùng tánh nghe,
tánh thấy, tánh ngữi, tánh nếm…mà không bị dính mắc thì người đó đang sống với cái tánh
chân thật của mình tức là họ đang
ngồi thiền vậy. Người nào
đạt được trình độ như vậy dù ngồi giữa chợ cũng vẫn thiền như thường.
Thật
ra sống trong thế kỷ 21 nầy thì
phương pháp thiền mà không thiền của
Lục Tổ rất hữu ích và có thể
áp dụng được trong cuộc sống thường nhật ở
bất cứ nơi nào cho tất cả
chúng sinh. Khi một thiền giả chỉ đợi đến một giờ
nhất định mới đi
tọa thiền, khi thiền thì yên lặng
theo dõi từng
hơi thở để cho tâm
hoàn toàn tĩnh lặng,
tự chủ và
an lạc. Nhưng khi xã thiền và
đối diện với cuộc sống xô bồ
xáo trộn thì họ đánh mất tính
tự chủ và
tâm thanh tịnh của mình. Thêm nữa, trong
thiền phòng, thiền giả
đi thiền hành từng bước chậm rãi, khoan thai và có
ý thức nhưng trong cuộc sống ngoài đời từ trong
gia đình, chợ búa, công sở…thì
họ
trở thành một
con người khác, đi đứng một cách hồ đồ, vội vã như bị
ma đuổi vì họ không còn giữ được
chánh niệm bởi vì
vọng niệm đua nhau quấy phá và giết chết
tâm thanh tịnh của họ.
Do đó nếu
chúng ta muốn
trở về với
tâm thanh tịnh thì có thể
áp dụng phương pháp phản quang tự kỷ tức là dùng
thiền định để làm cho tâm được
an định trong một
thời gian nhất định là 15 phút
cho đến một giờ rồi sau đó
nới rộng cái tâm
an định nầy
trong suốt 24 tiếng đồng hồ bằng cách luôn giữ
Chánh Niệm thì cũng tìm được sự an vui
tự tại. Hoặc là lúc nào cũng
thức tỉnh để có đủ
nghị lực sáng suốt hầu ngăn chận sáu căn không cho dính mắc nơi
sáu trần.
Chúng ta có thể
áp dụng phương pháp hồi quang phản chiếu để sống với cái tánh giác
chân thật thanh tịnh đầy đủ của mình. Khi
tự tánh trong sáng được
thể hiện thì nó sẽ mang lại sự
an lạc, yên vui và chính sự
thức tỉnh kiến tánh nầy sẽ là
kinh nghiệm mà mình có thể sống mãi trong đó, không bao giờ
chấm dứt.
Con người
sống trong
thế gian nầy thì
hằng ngày lục căn tiếp xúc với
lục trần mà
ba cánh
cửa chính là Thân-Khẩu-Ý luôn luôn
phát khởi để tạo ra nghiệp.
Nhưng trên
thực tế thì tuy
thân khẩu ý tác tạo nhưng cội nguồn vẫn phát xuất
từ tâm. Khi
chúng ta muốn
mắng chửi người nào thì trước nhất
chúng ta phải có những
ý niệm không tốt về người nầy và sau đó tâm mới phát họa thêm ra những
hình ảnh xấu để
chúng ta ghét họ và sau cùng mới
đánh chửi họ được. Thế thì tất cả những
tội nghiệp mà
chúng ta đã gây ra đều phát xuất
từ tâm. Nhưng tâm là Tướng tức là
không thật. Nếu
tâm không thật thì
tội nghiệp làm gì có thật?
Đức Phật dạy thêm rằng:”tội nghiệp
từ tâm sanh, cũng
từ tâm diệt”.
Nếu
chúng ta nghĩ rằng nếu mình có gây ra
tội nghiệp thật thì sẽ có
quả báo thật. Nói như thế có nghĩa là
chúng ta xác nhận tâm là thật,
tội nghiệp cũng thật và
dĩ nhiên quả báo cũng là thật. Nhưng tâm là
vọng tưởng chứ đâu có thật. Chỉ có Thể là
thật tánh, là
chân như thanh tịnh mới là thật. Do đó nếu
tâm không thật,
tội nghiệp cũng
không thật thì
quả báo làm sao có thật?
Nói như vậy có nghĩa là gốc của
tội nghiệp phát xuất
từ tâm mà tâm nầy
chính là tâm
sinh diệt tức là tâm nghĩ thiện, nghĩ ác, nghĩ tốt, nghĩ xấu mà thôi. Biết tâm là
sinh diệt thì
con người phải
quay về tâm để trừ cái
sinh diệt nầy thì làm gì còn
tội nghiệp.
Thí dụ như hiện nay ta
đang
oán hận ai và muốn
tìm cách để hảm hại hay
tiêu diệt người nầy. Muốn hại người là do tâm. Bày mưu lập chước để hại người cũng bởi do tâm. Nếu biết
thức tỉnh quay về dập tắt cái tâm
cuồng loạn nầy thì
tâm bất thiện không còn nữa. Vì thế
tâm diệt thì
tội nghiệp cũng theo đó mà diệt.
Nếu dựa theo
Lục Tổ là tâm của
chúng ta không nghĩ thiện, không nghĩ ác,
buông xả hết tất cả thì cái tâm
sinh diệt sẽ được yên lặng. Tâm mà yên lặng thì
tự tánh sẽ hiện bày để giúp
con người sống yên
vui
thanh tịnh.
Tâm kinh lại dạy rằng
ngũ uẩn giai không tức là thân nầy
không thật. Thân của
chúng ta không thật vì thân nầy là do
trùng trùng duyên khởi hợp lại mà thành. Thân thì
không thật mà hành động tạo tác phát xuất từ thân nên cũng
hư dối. Một khi hành động
không thật thì
tội nghiệp do thân tạo ra làm sao thật được? Vì thế
thiền sư Huyền Giác mới có câu:
Liễu tức
nghiệp chướng bổn lai không
Vị liễu ưng tu thường
túc trái.
Dịch là:
Liễu ngộ tức
nghiệp chướng xưa nay không
Chưa
liễu ngộ cần phải đền nợ trước.
Đối với các bậc
liễu ngộ thì họ thấy các
pháp duyên hợp thì
không thật.
Mà thân nầy chính là do
pháp duyên hợp nên thân là
hư dối. Hành động tạo tác phát xuất từ thân thì lại càng
không thật. Do đó họ thấy rằng hành động
không thật thì nghiệp do hành động tạo thành làm sao thật được? Bởi biết nghiệp
không thật nên họ
xem thường và không quan trọng vì thế nếu nghiệp có đến thì họ xem cũng như trò chơi chả có gì phải
kinh hoàng sợ hãi. Khi vua
Kế Tân muốn giết hại
Tổ Sư Tử nên cầm dao đến
trước mặt Tổ mà nói rằng:
- Có thật ngài thấy
ngũ uẩn giai không chăng?
Tổ đáp:
- Đúng vậy.
Vua nói thêm:
-
Nếu thế ngài có thể cho tôi cái đầu được không?
Tổ đáp:
-
Năm uẩn đã không sá gì cái đầu.
Nhà vua liền chặt đầu ngài.
Đối
với cái nhìn của
chúng ta thì cái chết của
Tổ Sư Tử chẳng qua là để trả nghiệp. Luật
nghiệp quả không sót một ai cho dù kẻ đó là người
chứng đạo.
Trường hợp nầy cũng giống như
tôn giả Mục Kiền Liên bị bọn
ngoại đạo lăn đá trên núi cao đè chết mặc dù
tôn giả là đệ nhất
thần thông hay là ngài
Huệ Khả bị giết trong khám. Nhưng thật ra dưới mắt của người
ngộ đạo thì nghiệp là
hư dối,
không thật thì làm gì có chuyện
trả nghiệp. Thân là giả thì nghiệp cũng
không thật nên họ
thong dong tự tại không
vướng mắc,
lo âu hay
sợ hãi.
Nên nhớ thân
không thật, hành động
không thật và
tội nghiệp cũng
không thật nhưng không phải là không Có, tất cả chỉ là
hiện tượng duyên sinh nên
không thật Có. Vì thế
tội nghiệp tuy
không thật mà chẳng mất.
Ngày xưa ngài
Tăng Xán bị bệnh cùi rất
đau khổ nghe danh Tổ
Huệ Khả nên đến
nghe pháp. Khi gặp Tổ thì ngài thưa:
- Bạch Hòa Thượng! con
nghiệp chướng nặng nề nên phải mang bệnh nan y xin
Hòa thượng dạy con
phương pháp sám hối.
Tổ
Huệ Khả cũng dùng thuật của Tổ
Bồ Đề Đạt Ma khi xưa nên nhìn thẳng vào mặt
Tăng Xán mà nói rằng:
- Đem
tội nghiệp ra, Ta sẽ sám cho.
Ngài
Tăng Xán quay lại tìm nhưng tìm mãi mà không thấy
tội nghiệp ở đâu nên thưa:
- Bạch Hòa thượng! Con tìm tội không được.
Tổ
Huệ Khả bảo:
- Ta đã
sám hối cho ngươi rồi đó.
Ngài
Tăng Xán quay lại tìm
tội nghiệp của mình mà lúc đó ngài cho là thật, nhưng càng tìm thì càng không thấy tâm dạng của nó ở đâu. Vì ngài thấy
tội nghiệp là thật mới sanh ra bệnh cùi bây giờ tìm thì lại không thấy nó nữa. Như vậy
tội nghiệp có hay không?
Nếu không thì làm sao lại mang
bệnh còn nếu có thì nó ở đâu? Khi ngài
Tăng Xán tìm mà không thấy
tội nghiệp thì
tội nghiệp nay
biến thành không. Một khi
tội nghiệp đã không
thì
hiện tượng quả báo đang chịu đó làm sao có thật? Vì thế cái gốc của
tội nghiệp vốn không thì tất cả tướng
tội nghiệp cũng theo đó mà
tiêu diệt hết. Khi hiểu được như thế thì bệnh cùi của ngài
Tăng Xán từ từ tan biến và về sau
trở thành Tổ thứ ba của
Trung Quốc.
Còn
chúng ta thì
cũng thế. Khi mang bệnh trầm kha hay gặp chuyện
hiểm nghèo
thì hảy cố tìm xem chỗ nào mà sanh ra
bệnh hoạn hay chuyện
trắc trở. Nếu tìm không được
tội nghiệp thì bệnh sẽ lành còn
tìm ra nó thế nầy thế kia thì
tội nghiệp chưa hết.
Tội nghiệp còn thì
đau khổ sẽ còn và
dĩ nhiên sám hối là
phương pháp để
hòa giải oan gia nghiệp báo kia.
Con
người sống trong bất cứ
xã hội nào thì
hoàn cảnh chung quanh dễ dàng
ảnh hưởng để làm cho
con người tạo nghiệp. Như khi sanh ra
chúng ta đâu
có ghiền cà phê, thuốc lá hay rượu chè cờ bạc. Do đó khởi
nguyên không
có mà sau đó mọi
đau khổ đều do chính mình chủ động tạo ra. Nhưng Phật
dạy:”nghiệp tánh bổn không” có nghĩa là tánh nó vốn không thì làm gì có nghiệp. Vì thế một khi
con người tìm thấy tội nghiệp tức là còn thấy
cái nhân gây ra nghiệp có nghĩa là còn thói hư, tật xấu.
Nếu không tìm
thấy tội nghiệp tức là
buông xả hết thói hư, tật xấu làm căn gây ra nghiệp thì nghiệp đâu còn. Không thấy
tội nghiệp tức là không
chạy theo
vọng trần mà sống với tánh giác của mình.
Câu chuyện ngài
Đạo Tín lúc ấy mới mười bốn tuổi tìm tới gặp
Tổ Tăng Xán mà thưa rằng:
- Kính bạch Hòa thượng! xin
Hòa thượng dạy cho con
pháp môn giải thoát.
Tổ Tăng Xán bảo:
- Ai
trói buộc ngươi?
- Không ai
trói buộc con.
Tổ bảo:
- Không ai
trói buộc thì cầu
giải thoát để làm gì?
Chúng
ta thường hay có
thói quen là nghĩ rằng nghiệp dẫn dắt
chúng sinh đi trong
sanh tử luân hồi. Vì thế nghiệp chính là cái đã
trói buộc mình. Nhưng nghiệp có thật không? Nếu nghiệp là thật thì
chúng ta đã
tìm thấy,
nhưng có ai thấy được nghiệp của mình đâu? Như thế thì nghiệp
không thật nên tìm không thấy. Nếu nghiệp
không thật thì làm sao dám
kết luận là nghiệp
trói buộc mình. Do đó khi biết nghiệp
không thật nên hết
trói
buộc tức là
giải thoát. Nói một cách khác là nếu
con người làm chủ được mình có nghĩa là không còn
chạy theo thói hư tất xấu mà cái gốc của nó là
suy nghĩ,
phân biệt,
đối đãi để có cơ hội tạo nghiệp thì nghiệp đâu còn tức là
chúng ta được giải thoát vậy.
Ví như ngày xưa khi
chúng ta chưa
học đạo, nếu có người làm việc gì sai quấy làm
tổn thương đến
danh dự và
gia đình của
chúng ta thì
dĩ nhiên chúng ta mắng chửi họ một cách thậm tệ. Một
thời gian sau thì người bị
mắng chửi
kia tìm đến để
mắng chửi trả thù. Bây giờ đến lượt ông ta mắng chữi
chúng ta rất thậm tệ. Đây chẳng qua là
nhân quả mà thôi. Như thế đây có
phải trả nợ trước hay không? Khi đã biết đạo thì thấy lời
mắng chửi kia
không thật, không có gì quan trọng nên
chúng ta vẫn bình thản tươi cười. Thật ra nợ đã vay thì phải trả, chỉ khác là người mê thì thấy thật còn người ngộ thì thấy là
hư dối. Mà nghiệp đã
không thật thì trả cũng
như không trả, không có gì quan trọng cả.
Vì thế khi biết rằng:”nghiệp tánh bổn không” tức là thân
không thật, hành động do thân
tác tạo cũng
không thật thì
dĩ nhiên nghiệp báo cũng là
hư dối,
không thật. Mà nghiệp
không thật thì còn cái gì
trói buộc, làm khổ
chúng ta cho nên từ đây cuộc sống của
con người sẽ được an vui
tự tại và
hoàn toàn giải thoát ra khỏi mọi
hệ lụy của
phiền não khổ đau.
“Khi
nghiệp chướng tới thì
phiền não khởi. Cũng như khi không giữ
chánh niệm
thì tà niệm khởi.
Lúc ấy, bạn thấy người nào cũng không hợp nhãn; thấy
việc gì cũng chẳng
vừa lòng. Thật ra, không cần biết bạn có lý hay
vô lý, hễ bạn khởi
phiền não là bạn đã
sai lầm rồi đó”.