BÌNH GIẢNG CHÍNH
1
TẠI SAO VÀ NHƯ THẾ NÀO
CHÚNG TA PHẢI TỊNH HÓA
Lời dạy này đến do yêu cầu của các bạn, không phải do tôi nói : “Tôi muốn cho bạn những lời dạy, hãy đến đây và lắng nghe.” Trong sự học hỏi của bạn trên con đường thứ bậc đến giác ngộ, bạn phải biết sức mạnh tâm thức bạn như thế nào và nó tạo tác những hành vi tích cực và tiêu cực mạnh mẽ ra sao. Nhận biết được điều này, khảo sát đời sống mình và nhìn thấy bản chất của những hành vi thuộc thân, khẩu, ý của bạn. Do đó, với trí huệ hiểu biết bạn thỉnh cầu giáo lý này để tịnh hóa những lực bất thiện trong bạn.
Cách thức mà bạn thỉnh cầu lời dạy này là rất tốt. Đặt căn bản trên sự hiểu biết của bạn về những tính chất của tâm thức tiêu cực, sự thỉnh cầu của bạn chẳng phải vô minh hay xúc cảm. Vì bạn có may mắn, thông minh và thông tuệ để thực hành phương pháp yoga đầy sức mạnh này, và nhờ đó hoàn toàn tiêu diệt những sức mạnh tiêu cực của bạn, tôi cảm nhận rằng trao cho các bạn lời dạy này sẽ là một lợi lạc lớn lao.
Trước hết, bạn rất may mắn thấy rằng thực sự có một giải pháp cho những hành vi tiêu cực khởi lên từ tâm thức vô minh. Hãy xem đa số những người không nhận thức việc tạo tác những hành vi của họ như thế nào, cũng như không hiểu sự khác nhau giữa những hành vi tích cực và tiêu cực và những kết quả hạnh phúc và đau khổ của họ. Bạn biết tất cả những điều đó, chính đó là tại sao bạn may mắn. Ngay cả khi người ta khám phá ra sự tiến hóa này, cũng rất khó cho họ biết được làm sao để tịnh hóa và tự giải thoát họ hoàn toàn khỏi vòng nhân quả mà họ đã bị trói buộc vào. Điều này không dễ ; cần có một thời gian dài. Bạn thật sự may mắn khi đi đến kết luận rằng bạn có thể tịnh hóa chính mình.
Hơn nữa, bạn rất may mắn vì trí huệ của bạn có thể nắm lấy những phương pháp thâm sâu của yoga tantra. Điều này cũng rất đỗi khó khăn. Khó khăn thế nào ? Đây, khi những người Tây phương lần đầu tiên gặp giáo pháp, thậm chí họ không thể hiểu được mục đích của việc lễ lạy : “Tại sao tôi phải lễ lạy ? Xin lỗi, việc này không dành cho tôi.” Lễ lạy thì đơn giản và dễ hiểu. Nhưng phương pháp yoga tantra thì cực kỳ sâu sắc. Rất xứng đáng cho bạn để làm những thực hành tịnh hóa đầy sức mạnh này.
Hãy để tôi nêu vấn đề một cách khác. Chúng ta thường thấy rằng khi thiền định về lam-rim – Con đường đến giải thoát và những chứng ngộ – chúng ta gặp nhiều cản trở. Chúng ta không hiểu tại sao lại khó thiền định, khó kiểm soát tâm thức đến thế để thu được những chứng ngộ. “Tại sao tôi gặp quá nhiều khó khăn bất cứ khi nào tôi cố gắng làm một điều gì thiện ? Sống với cuộc sống trần tục thì dễ dàng hơn nhiều. Thậm chí một giờ thiền định cũng khó.” Nhiều ý nghĩ và thắc mắc như vậy khởi lên.
Thế không hẳn là thiếu trí huệ. Chính vì qua vô số kiếp sống mà những lực lượng tiêu cực của thân, khẩu, ý đã tích tập cho đến nay tràn đầy trong ta như một đại dương bao la. Nếu biểu hiện ở dạng vật chất, chúng sẽ chiếm trọn không gian. Ngược lại, trí huệ hiểu biết thông minh nhỏ bé của ta lại yếu như ánh sáng chập chờn của một cây đèn cầy nhỏ bé. Một ngọn nến nhỏ bé thì chẳng giúp đỡ gì nhiều trong một đêm đen và đầy gió.
Trí huệ hiểu biết giống như ngọn nến nhỏ bé của chúng ta không thể kiểm soát hay giải phóng chúng ta khỏi lực lượng mạnh mẽ của tâm thức tiêu cực của chúng ta. Thế đấy, chính là năng lực của những quan niệm sai lạc, tâm thức tiêu cực của ta, làm cho chúng ta khó thành đạt con đường giải thoát an bình vĩnh cửu và tiếp nhận những chứng ngộ. Vì vậy, chúng ta cần một thực hành tịnh hóa đầy sức mạnh như phương pháp yoga Kim Cương thừa của Đức Heruka Vajrasattva để tiêu hủy cả hai lực lượng của tâm ý vô minh và những hành vi tiêu cực của thân và ngữ khởi lên từ đó.
Phương tiện Yoga của Heruka Vajrasattva có sức mạnh tịnh hóa tất cả năng lượng tiêu cực, cái chính yếu ngăn cản bạn chứng đạo. Năng lượng bất tịnh này tạo ra chướng ngại về tinh thần lẫn thân xác, và cũng để lại những dấu vết. Một cách triết học, chúng ta nói rằng không có tâm mà cũng không có tướng. Nếu bạn thích thú điều này bạn có thể kiểm nghiệm vào thời điểm khác, chúng là loại hiện tượng gì. Lý do khiến tôi nêu nó lên đây là khi tôi nói về tiêu cực thì ý nghĩa của tôi khác với sự hiểu biết của bạn trước đó về thuật ngữ. Đa số người phương Tây nghĩ rằng tiêu cực chỉ ám chỉ mức độ thô của những xúc cảm. Thật ra nó còn sâu xa hơn nhiều.
Chẳng hạn lấy một ví dụ về thân thể vật chất. Lần đầu tiên người ta đến với một khóa thiền định, họ có rắc rối lớn trong thế ngồi. Có cái gì đó trong hệ thần kinh kéo năng lực của họ xuống phần đáy của cột sống. Lý do chúng ta được khuyên ngồi xếp bằng theo tư thế cổ điển để thiền định với lưng thẳng giúp dòng năng lực tâm linh trôi chảy đúng đường và nhờ vậy giúp bạn kiểm soát tâm thức dễ dàng hơn. Tuy nhiên, sự thay đổi này trong hệ thần kinh của bạn làm nó cảm thấy dường như tất cả năng lực đi xuống từ luân xa đỉnh đầu đến những luân xa thấp hơn. Điều này làm cho một số người sợ hãi rằng họ như bị mất tâm thức. Những thiền sinh sơ học không những rắc rối vì ngồi, họ còn phải tập trung tâm thức trong một thời gian dài để lắng nghe những ý tưởng hoàn toàn mới, điều này cũng có thể rất xáo trộn. Những vấn đề về tinh thần và thể xác thật sự làm họ tự hỏi tại sao mình lại ngồi ở đây trên trái đất này.
Áp lực trong luân xa dưới thấp gây ra bởi năng lực vật chất tiêu cực nó đến từ tâm thức tiêu cực. Trong Phật giáo Đại thừa chúng ta ít chú trọng vào những phản ứng vật chất như vậy, và chỉ chú tâm vào gốc rễ của mọi vấn đề : tâm vô minh, tiêu cực.
Trong lúc thiền quán về con đường tiệm tiến là cách hiện thực để giải thoát, khi bạn cảm thấy không thể thiền định được – có quá nhiều ngắt quãng, bạn không thể làm bất cứ gì, không thể giải quyết những vấn đề – hãy nhớ rằng có một điều gì đó có thể làm để gỡ bỏ những chướng ngại đối với sự tiến bộ của mình, đó là sự tịnh hóa. Trong kinh nghiệm của những Lama Tây Tạng, thời khóa thiền quán về con đường đạo được xen kẽ với thời khóa thực hành tịnh hóa đầy sức mạnh, chẳng hạn phương pháp Yoga của Heruka Vajrasattva. Cách phối hợp này bảo đảm rằng bạn sẽ đạt những chứng ngộ mà bạn đã tìm kiếm kiên trì.
Nhưng không nên có những mong đợi không thực tế : “Hôm nay, tôi hoàn toàn tiêu cực, tối nay tôi thiền định, ngày mai tôi sẽ hoàn toàn thanh tịnh.” Bạn không thể tự tịnh hóa mình tức thời. Những mong đợi như thế không chỉ là sai lầm mà chúng còn trở thành chướng ngại. Đặc biệt khi nhập thất, bạn không nên mong đợi bất cứ điều gì – mà chỉ buông xả. Tất cả điều bạn cần là trong đời sống này bạn sẽ hoạt động tích cực hết lòng. Nếu bạn làm được điều đó, kết quả tốt sẽ đến với bạn, dù có mong đợi chúng hay không. Bạn cũng không nên hỏi vị Lama cho một lời tiên đoán : “Nếu tôi kiểm soát thân, khẩu, ý tránh khỏi tất cả những bất thiện và chỉ làm điều thiện, tôi sẽ được kết quả tốt hay không ?” Nhiều đệ tử đã hỏi điều này. Tại sao ? Vì họ không hiểu nhân quả. Nếu bạn luôn hành động khôn ngoan và tích cực, cần gì phải hỏi ?
Chỉ nên nghĩ “Từ giờ cho đến lúc tôi chết, cho dù giác ngộ có đến hay không, tôi nên hành động tích cực hết lòng. Cố gắng tạo một cuộc sống lợi lạc cho tôi và mọi người bằng hết khả năng.” Bạn có thể mong đợi gì hơn ? Loại mong đợi này phù hợp với lý luận hơn là nghĩ “Nếu tôi thiền định trong một tháng, tôi sẽ trở thành Heruka Vajrasattva,” những loại mong đợi như vậy chỉ quấy nhiễu tâm trí bạn.
Cho dù bạn tạo tác nhiều hành vi bất thiện suốt cả cuộc đời, một tâm thức tích cực vào lúc chết bảo đảm rằng bạn sẽ không tái sanh vào những cõi thấp. Bạn nhận sự bảo đảm bên trong này khi tịnh hóa những tiêu cực. Nó không giống như những bảo đảm tầm thường, bạn có thể tin tưởng hoàn toàn vào nó. Trên thế gian sự vật thay đổi liên tục. Bạn có thể không tin vào những bảo đảm của giấy tờ thế gian. Nhưng sự bảo đảm nội tâm của nghiệp tích cực cam kết rằng vào lúc chết bạn sẽ có thể kiểm soát tâm thức mình và không rơi vào ảnh hưởng của tâm thức tiêu cực như tham muốn và sân hận.
Để đạt được những chứng ngộ cao hơn, việc quan trọng nhất là thực hành phương pháp đầy sức mạnh của sự tịnh hóa được tìm thấy trong con đường Kim Cương thừa. Nhiều vị Lama đã thấy rằng sự tịnh hóa vượt thắng những chướng ngại của cả năng lực tiêu cực và in vết để lại của nó.
Trong khi những thực hành Vajrasattva khác nhấn mạnh vào việc tịnh hóa thân xác vật chất, thì phương pháp tịnh hóa Yoga Heruka Vajrasattva nhấn mạnh về tịnh hóa tâm linh. Điều này làm cho nó đặc biệt mạnh mẽ.
Bốn sức mạnh đối trị
Sadhana Heruka Vajrasattva được chia làm ba phần : quy y, phát Bồ đề tâm, và phương pháp Yoga. Tại sao quy y và phát Bồ đề tâm là những phần trong sự thực hành tịnh hóa này ? Vì những hành động tiêu cực thường có liên quan đến những đối tượng thiêng liêng mà ta quy y như Tam Bảo và những chúng sanh khác.
Bạn có thể thấy điều này đúng thực ra sao. Hãy kiểm tra lại. Đa số những vấn đề rắc rối của bạn khởi lên từ những người quanh bạn, chẳng phải do gạch, đá hay cây cối. Và những vấn đề thông thường nhất có thể tìm thấy giữa những người thân thiết với nhau – mối liên kết càng chặt chẽ thì những rắc rối tâm trí càng nhiều hơn. Chẳng hạn, nếu bạn tránh xa thuốc lá, bạn sẽ khỏe lắm, nhưng nếu bạn chạm đến nó, nó sẽ thống trị bạn, sẽ rất khó từ bỏ, và gây cho bạn nhiều khó khăn. Tương tự, thân mật với người khác có thể dẫn đến những tình thế dính dấp khó khăn.
Một số ví dụ đơn giản về những tiêu cực thông thường sẽ làm sáng tỏ điều này. Tự thân chúng ta, chủ thể của hành vi, hành động dưới ảnh hưởng của tâm thức tiêu cực của mình, thường chúng ta cần một đối tượng để hành động. Chẳng hạn, khi giết phải có một chúng sanh khác bị ta cướp mất cuộc sống, khi ta trộm phải có người chủ món đồ để ta lấy, khi nói dối phải có người để chúng ta nói dối. Dĩ nhiên, tâm vô minh, không thỏa mãn, ích kỷ, ham muốn của chúng ta luôn có, mà những người khác cũng có. Theo cách này, sự tạo tác những tiêu cực của chúng ta nương dựa vào những người khác. Chúng ta tịnh hóa những nghiệp bất thiện như vậy bằng việc phát Bồ đề tâm.
Chúng ta cũng tạo tác những nghiệp bất thiện trên những đối tượng thiêng liêng. Đôi khi với tâm bất thiện chúng ta phê bình Đức Phật, chê bai Bồ tát, đối xử với sách kinh và hình tượng không đúng, hay phàn nàn về Tăng Ni. Có vô số cách tạo nghiệp bất thiện như vậy và chúng ta tịnh hóa bằng việc thọ quy y Phật, Pháp, Tăng.
Để phát Bồ đề tâm, chúng ta phải cảm thấy lòng bi lớn lao không chịu đựng nổi đối với tất cả chúng sanh, bất chấp chủng tộc, màu da, quốc tịch hay tín ngưỡng. Cũng như chúng ta phải có ý chí mạnh mẽ nhiệt tâm dẫn dắt họ đến toàn giác, nhận lấy trách nhiệm tự làm việc ấy một mình. Chỉ thái độ như vậy, sẽ giải thoát chúng ta khỏi nhiều tiêu cực.
Ví dụ, bạn có mối quan hệ nghiệp lực rất mạnh, nhưng không kiểm soát được với cha mẹ của mình. Mặc dù họ rất thương bạn, bạn gây cho họ đau khổ lớn lao. Bạn không thể cắt mối quan hệ với cha mẹ bằng cách nói rằng bạn hoàn toàn chán chường họ và không muốn thấy lại họ, và bỏ lên núi. Điều đó không đủ tách lìa bạn và cha mẹ về mặt vật chất. Để chấm dứt nghiệp với cha mẹ mình, bạn phải tịnh hóa nó bằng cách có lòng đại bi đối với họ và phát Bồ đề tâm với họ trong tâm thức. Tương tự bạn không thể cắt đứt mối quan hệ nghiệp với người khác một cách tri thức bằng cách chỉ nói rằng bạn đã chấm dứt với họ và không muốn gặp họ nữa. Những mối trói buộc này phải được cắt rời bằng sự tịnh hóa.
Cách tốt nhất để tịnh hóa những tiêu cực là việc dùng bốn sức mạnh đối trị. Cái thứ nhất là sức mạnh của đối tượng, có nghĩa là quy y và phát Bồ đề tâm. Trong sự thực hành tôi mô tả ở đây, đối tượng để quy y là Heruka Vajrasattva, là thể hợp nhất của Quy y Tam Bảo : Phật, Pháp và Tăng. Chúng ta cũng có thể nói rằng ngài là một với vị Đạo Sư (Guru), với Vị Đạo Sư Tuyệt Đối nhưng tôi sẽ nói điều ấy nhiều hơn về sau. Trí huệ thiêng liêng của ngài thấu suốt bản tánh cả hai lực lượng tích cực và tiêu cực. Ngài trở thành người giải phóng cho bạn, và bạn quy y với ngài.
Sức mạnh thứ hai là sức mạnh của sự buông bỏ. Đôi lúc nó được gọi là sức mạnh của hối tiếc, nhưng điều này có thể có một hàm ý sai lạc. Sức mạnh này xuất phát từ trí huệ và không phải là một loại cảm xúc buồn rầu hay phạm tội, những cảm xúc này khiến chỉ kéo dài thêm những vấn đề của chúng ta vì chúng gây ra sự tích tập những khuynh hướng tiêu cực nhiều hơn cho ta. Hãy nghĩ đến một người chợt nhận ra mình uống nhầm thuốc độc : Người ấy muốn dùng sự đối trị giải độc ngay lập tức. Sức mạnh buông bỏ là trí huệ hiểu được hậu quả tiêu cực của những hành động độc hại ngay khoảnh khắc bạn nhận ra mình đã tạo ra một hành động tiêu cực, bạn muốn tịnh hóa chúng tức thời.
Thứ ba là sức mạnh của phương thuốc chữa trị. Chính với năng lực này mà bạn thực sự chống lại lực lượng tiêu cực mà bạn đã tích lũy. Với sự tập trung nhất tâm vào Đức Heruka Vajrasattva – sự biểu lộ của trí huệ phúc lạc, siêu việt, thiêng liêng và là đấng nhất thể với vị Đạo sư của bạn. Bạn thực hành phương pháp Yoga và trì tụng chân ngôn (Mantra) tịnh hóa đầy sức mạnh này. Đây là phương thuốc chữa bệnh.
Tôi không chắc rằng sức mạnh thứ tư có thể dịch một cách súc tích sang tiếng Anh. Đó là một cái gì giống như sức mạnh của quyết tâm không thể hủy diệt, nơi đó bạn có quyết tâm lớn lao không, không, không bao giờ bị ảnh hưởng trở lại bởi những thói quen ô nhiễm của mình. Nó không giống lắm với một lời hứa hay lời nguyện hoặc một giải pháp hay một quyết định. Cùng với sức mạnh của phương thuốc chữa trị, bạn có quyết định lớn lao này, sẽ không bao giờ tạo tác bất cứ hành vi bất thiện nào nữa. Có một cái gì đó trọn vẹn trong đó. Nó là sự vững chắc, mạnh mẽ và đến từ trí huệ. Ở trong bạn có một năng lực tinh tế bảo vệ bạn khỏi những sa đọa về phẩm hạnh. Nó cũng xa hơn sự quyết định được điều động bởi trí óc : Đó là một lực lượng hoàn toàn chống lại những tập khí cũ, một thấu hiểu tự động bảo vệ bạn. Dĩ nhiên, sức mạnh này có những mức độ, nhưng khi phát triển hoàn toàn, nó cung cấp cho bạn sự bảo vệ trọn vẹn.
Chẳng hạn, khi bạn thọ nhận tám giới Đại thừa cho một ngày, tại lúc thọ giới vào sáng sớm bạn phát sanh sự quyết tâm lớn lao để giữ nguyên vẹn những lời thệ nguyện. Từ lúc đó, bạn phải thực hành sự tỉnh giác hoàn toàn và duy trì nó suốt ngày. Chỉ sự xác định giữ những giới tại buổi lễ không đủ, nó phải được duy trì từng phút một trong suốt thời gian cam kết. Trái lại nếu không duy trì sự tỉnh giác sau khi lễ thọ giới chấm dứt, bạn sẽ rơi thẳng trở lại vào những đường lối sanh tử cũ kỹ của bạn, hầu như vô ý thức, hoàn toàn không nhận biết bạn đang làm gì.
Những lời nguyện sẽ không bị phá vỡ bởi những hành động tâm thức một cách tức thời. Chính cái động cơ cho một hành động phá vỡ một lời nguyện đã dần dần phát triển trong tâm thức. Bạn có cả một chuỗi lịch sử dài của những kiểu năng lực không kiểm soát giống như vậy. Bởi thế nếu quyết tâm của bạn lúc sáng sớm có đi đôi với sự tỉnh giác có ý thức liên tục một cách đặc biệt thì không có cách nào có thể phá vỡ những lời thệ nguyện của bạn. Trong bạn luôn luôn có cái năng lực được tích tụ rất tinh tế này nó hoàn toàn bảo vệ bạn khỏi những hành vi nhiễm ô.
Nghiệp
Luật của nghiệp là “cùng nhân sẽ có cùng quả.” Khi chúng ta quy y, bổn phận của chúng ta là giữ cho các hành vi (nghiệp) được chính trực, tránh các hành vi bất thiện. Nhưng chúng ta không làm được như vậy cho dù ở mức độ tri thức chúng ta hiểu được rằng nếu chúng ta tiếp tục tái tạo các hành vi như thế chúng ta sẽ không ngừng trôi lăn trong vòng đau khổ và xung đột. Sở dĩ như vậy là vì chúng ta không có một sự hiểu biết nội tâm sâu sắc về bản chất của nghiệp. Người nào đã chắc chắn có được sự hiểu biết thấu đáo này sẽ không bao giờ tạo nên những hành vi tiêu cực với sự buông thả liều lĩnh như cách chúng ta làm. Bất cứ khi nào sự tham luyến hay sự ích kỷ xui khiến được chúng ta hành động thì dù cho chúng ta biết rất rõ rằng những việc đó là bất thiện nhưng chúng ta vẫn cứ tiến hành các hành vi đó.
Tôi biết rất rõ về người Tây phương. Họ thông minh nhưng tâm của họ không nhất quán. Một mặt họ ước muốn có được trí huệ toàn thiện và giữ hạnh nghiệp được chính trực. Nhưng mặt khác, họ bị các thói quen bất thiện kéo họ, khiến cho họ không giữ nghiệp được chính trực. Điều này làm họ đau khổ rất nhiều. Thậm chí khiến họ phải bật khóc. Họ là những con người rất nhạy cảm. Khi những tình huống khó khăn xuất hiện, năng lực bất thiện sẽ thắng lướt năng lực thiện bởi vì họ chưa hề thiết lập trong bản thân mình một sức mạnh của các thói quen thiện hạnh và cũng bởi vì họ thiếu một sự hiểu biết nội tại sâu sắc về bản chất của nghiệp hay luật nhân quả. Từ đó, vài người có thể nói “Chỉ người nào tin vào nghiệp mới phải kinh qua nghiệp. Ai không tin vào nghiệp sẽ không bị chi phối bởi nghiệp.” Người Tây phương đã nói với tôi lời phản biện này. Đây là một quan niệm hoàn toàn sai lầm. Nghiệp vẫn hiệu lực dù tin hay không. Nếu bạn hành động theo một cung cách nào đó, bạn sẽ chắc chắn kinh qua một hậu quả tương xứng y như khi bạn uống thuốc độc, bạn sẽ ngộ độc cho dù bạn vào lúc uống bạn tin rằng mình đang uống thuốc chữa bệnh. Một khi bạn tạo nghiệp thì bạn phải tới chỗ kinh qua một quả báo.
Bò, heo, bò cạp không hề biết cái gì là nghiệp, cái gì không phải nghiệp – cũng không có một chút lòng tin – nhưng chúng vẫn phải bị nghiệp chi phối. Mỗi hành động của chúng đều bị xúi đẩy bởi tham lam, vô minh, sân hận và chắc chắn từng mỗi hành động sẽ đưa tới hậu quả riêng. Cho nên, đừng nghĩ rằng các hành động nghiệp và các phản hồi của nó chỉ là việc riêng của Phật tử hay của vị Lama. Nghiệp là Luật có tính khoa học, thống trị mọi hiện tượng vật chất và phi vật chất trong vũ trụ. Việc hiểu biết về việc đó rất ư quan trọng.
Khi tôi giải thích về nghiệp, tôi thường không trích dẫn các kinh sách Tây Tạng để luận giải. Tôi chỉ khuyên người nghe hãy xem cái kiểu mà tâm khởi niệm trong từng sát na. Họ có thể dễ dàng thấy được tâm thăng trầm như thế nào nhất là đang khi thiền định. Một khi nhận thức được vấn đề này, họ dễ dàng hiểu được bằng cách nào mà nó đã khởi lên từ những kinh nghiệm trước, và đích thật đó là nghiệp. Họ sẽ thấy nó rất rõ và tôi không cần dùng bất kỳ một thuật ngữ chuyên môn hay mới lạ. Đơn giản là : thân, lời, ý mà không được kiểm soát đều là biểu hiện của nghiệp. Do vậy, tất cả chúng ta đều bị chi phối bởi Luật chân thật của nghiệp cho dù chúng ta tin vào nghiệp hay không. Đừng nghĩ rằng các tín đồ Cơ đốc hay Do Thái giáo, Hồi giáo không bị nghiệp chi phối và do đó không cần quan tâm đến nó. Điều này không đúng. Chẳng hạn, người Do Thái và Ả rập đã tạo nghiệp lẫn nhau và giờ đây có đủ thứ phức tạp xảy ra ở Trung đông. Các đồ tể đừng cho rằng việc sát hại súc vật không có quả phản hồi, và dù cho các đồ tể đó có tin vào nghiệp hay không thì những sự đau đớn, chết chóc mà họ tạo ra đối với chúng hữu tình chắc chắn xảy ra cho họ.
Chẳng hạn, khi bạn tới Thủ đô Kathmandu bạn tìm thấy thoải mái như đang ở nhà. Nhưng rồi khi bạn lên tu viện Kopan này bạn thấy khó chịu. Bạn nói tu viện quá dơ bẩn, không có phòng vệ sinh sạch. Cảm giác khó chịu bực bội của bạn là quả của thời gian lâu bạn bị gắn bó vào nhu cầu tiện nghi trước khi đến tu viện. Và đó cũng là nghiệp. Nếu bạn không có thời gian quen sống với những điều kiện sinh hoạt tiện nghi mà bạn đã kinh qua trước đây thì bạn sẽ không chú ý quá đáng với những gì chung quanh đây. Do đó, bằng cách phân tích những việc bạn trải qua mỗi ngày, bạn cũng có thể hiểu rõ ràng về hành động của nghiệp và phản ứng đáp trả.
Tôi cho rằng đây là cách thức mạnh mẽ và tốt đẹp để giúp bạn tăng cường sự tỉnh giác đến những hành động của mình, hơn là bạn trở nên bị ám ảnh băn khoăn, như nhiều người Tây phương bị ám ảnh với sự tu tập về tập trung nhất tâm (samadhi) và về thiền quán (vipassana). Nếu điều này xảy ra, bạn có nguy cơ nhận định rằng việc ngồi yên thiền định là hình thức tu tập Phật pháp duy nhất, và những hành động khác như là ăn uống, đàm luận ngủ nghỉ là hoàn toàn tiêu cực và thuộc về luân hồi sinh tử. Khi bạn tin rằng những điều này là tiêu cực thì nó trở nên tiêu cực.
Điều tôi đang nói là : có nhiều cách thiền định. Vipassana không phải là cách thiền định duy nhất. Thiền quán có thể đạt được bằng cách thiền định về bất kỳ hiện tượng nào trong vũ trụ. Và bạn không bắt buộc phải ngồi kiết già để thiền định ; việc canh giữ nghiệp hàng ngày cũng là một cách thiền định và có thể là một phương pháp mạnh mẽ để phát triển quán chiếu. Trong cách này, toàn bộ đời sống của bạn có thể được sử dụng để đưa bạn được gần hơn nữa đến Trí Huệ Vô Ngã.
Khi bạn hiểu thấu đáo bản chất của nghiệp, bạn sẽ không ngừng thấy biết được mọi việc mà bạn làm. Do vậy, bạn không rời bỏ được thiền định dù bạn đi bất cứ nơi nào. Bạn nên biết rằng nếu bạn không duy trì sự tỉnh giác về mọi hành vi của thân, khẩu, ý bạn sẽ liên tục tạo ra điều tiêu cực bất thiện và bạn sẽ phải kinh qua hậu quả khổ đau của sự mê lầm vô minh bất mãn. Điều ấy làm cho bạn tỉnh thức trong mọi lúc : khi bạn tiếp xúc với người khác, hay khi ngồi ăn trong tiệm ăn, khi mua sắm trong cửa hiệu hay khi đang làm việc trong cơ quan.
Tâm phân biệt của chúng ta thường xuyên coi các hành động thông thường của đời sống hàng ngày là thuộc về luân hồi sanh tử, bất mãn, khổ đau và không thể nào dùng nó làm đối tượng để thiền quán. Đây là một sự hiểu sai lệch tồi tệ. Phật giáo Đại thừa dạy rằng những cảm giác từ thân thể như xúc giác có thể được dùng để phát triển quán chiếu thì các dạng cảm giác khác như vị giác cũng được dùng như vậy.
Một số người nói rằng những quán tưởng không thể được dùng cho sự thiền quán bởi vì chúng chỉ là phóng tưởng của tâm, vì một hơi thở hay những cảm giác trong cơ thể thì thật hơn. Những cảm giác của cơ thể không thường hằng. Nó thay đổi từng phút giây vì tâm đối đãi tương đối này thay đổi không ngừng. Những cảm xúc của thân và tâm, nhất là những cảm xúc do tâm bất thiện gây ra, chính là phóng tưởng của vô minh. Tâm nhị nguyên của bạn tự động phóng chiếu ra một cái thấy nhị nguyên về bất cứ cái gì mà bạn kinh qua. Người thường khi khởi sự thực hành pháp mà họ cho là thiền định vipassana, họ tin rằng thế giới của những cảm giác thuộc thân thể là có thật. Nhưng dù họ dùng một đối tượng thiền định nội tâm hay ngoại cảnh, thì nó cũng chỉ có mặt trong sự tưởng tượng và trong cái thấy của tâm thức tương đối của họ. Về cơ bản, không có sự khác biệt giữa hiện tượng nội tâm và ngoại cảnh, hoặc cả hai đều là thật hoặc cả hai đều là ảo giác. Bất cứ cái gì bạn kinh qua – vật chất hay tinh thần – đều là một nhận định huyễn hoặc sai lệch cho đến khi nào bạn nhận biết được cái bất nhị, tánh Không (sunyata).
Trên thực tế, hương vị thức ăn trên lưỡi cũng là cảm giác của cơ thể. Nếu cho điều đó không đúng thì thật là một quan niệm sai lầm. Truyền thống Đại thừa đều có những cách thực hành thiền định cho mỗi một hành vi. Yoga Mật thừa dạy chúng ta rằng khi ăn, trước tiên chúng ta phải nên cúng dường và ban phước thực phẩm. Trong khi ăn chúng ta phải thư thả và nhận biết việc chúng ta đang làm, và không ngừng nhớ nghĩ đến bản chất phụ thuộc duyên sanh của tự tâm mình và thực phẩm, và không bám níu vào cảm giác sung sướng khoái khẩu như chúng ta thường có. Do vậy, bất kỳ trần cảnh nào cũng được dùng cho sự phát huy quán chiếu.
Trì tụng mật chú có thể cũng là một sự trợ lực lớn lao trong việc thực hành quán chiếu. Nó khiến cho tâm tập trung vào một điểm duy nhất, bằng cách đó, chống lại được sự phân tán và xao lãng. Tuy nhiên, việc tụng chú không phải là việc đọc ngoài miệng. Mật chú là âm thanh đã có sẵn trong hệ thần kinh của bạn kể từ trước khi bạn được sinh ra đời, và bạn sẽ nghe được mật chú nếu bạn lắng nghe một cách khôn ngoan, trí huệ. Mật chú không phải là cái mà bạn nhận được từ vị thầy một cách bất ngờ. Không sự rung động âm thanh tự nhiên ở trong hệ thần kinh của bạn thì bạn sẽ bị điếc – mỗi loại năng lượng có âm thanh tự nhiên riêng của nó. Điều này không phải là học thuyết tôn giáo, nhưng là điều bạn có thể khám phá theo khoa học. Bạn không thể vứt bỏ âm thanh tự nhiên của hệ thần kinh của bạn, nếu vậy chẳng khác gì bạn vứt bỏ cái đầu của bạn !
Tuy nhiên, theo kinh nghiệm vô số của các vị lama thì trần cảnh bất định, tạm bợ của năm căn là thứ chướng ngại nhiều hơn là thứ trợ lực trong việc triển khai sự tập trung vào một điểm duy nhất. Bao lâu mà bạn vẫn tiếp tục nhận thức các sự việc với tâm đối đãi và vẫn mắc dính vào những trần cảnh của năm căn, thì bạn vẫn không thể có khả năng nhận biết được phép thiền chỉ (tập trung vào điểm duy nhất). Bạn sẽ không thể nào là thiền giả của pháp samadhi hay vipassana. Hãy kiểm tra xem điều này có đúng hay không.
Cho nên bạn có thể hiểu thật buồn cười khi cho rằng việc ngồi và cố đạt được định (samadhi : tam ma đề) là cách duy nhất để tu tập Pháp, và rằng bất cứ cái gì cần làm cho cuộc sống trong thế giới này đều toàn là tiêu cực. Bạn nên liên tục quan tâm đến mọi khía cạnh của cuộc sống – thức dậy, làm việc, ăn, ngủ – với trí huệ thấu biết. Hoặc lúc bạn gần kề với vị Thầy, cùng tăng chúng, hay với cha mẹ, hay khi hoàn toàn một mình, bạn đều phải quan tâm cẩn trọng đến mức tối đa các hạnh nghiệp của bạn. Hoàn toàn sai lầm khi tin rằng bạn có thể tinh ranh hơn nghiệp bằng cách giam mình riêng biệt trong phòng, và nghĩ rằng khi bạn ở một mình bạn có thể làm bất cứ điều gì bạn thích. Không có chỗ nào để tránh thoát được cho dù là bạn có ở cùng ai hay ngồi một mình thì những phản ứng đáp trả của nghiệp vẫn tự động đưa tới.
Nếu tôi phải dạy bạn – thực tế tôi không nói vậy – rằng cách duy nhất để thiền định là ngồi và không nghĩ gì cả, thì bạn cũng sẽ không tìm ra được thời giờ để tu tập. Nghiệp đảm bảo rằng đa số người Tây phương đều phải dành thì giờ cho công việc hoặc để làm điều gì khác cho xã hội. Bởi vì bạn không thể tìm được thời giờ để ngồi thiền, bạn sẽ nghĩ rằng việc tu tập Pháp của bạn là việc không bình thường. Nhưng thiền định không phải là nhìn chăm chú vào lổ rốn với tâm trống rỗng. Một khi bạn có được sự thấu biết những cơ bản của Pháp bạn sẽ thấy có rất nhiều điều cho bạn để hành động và bạn sẽ có thể tiến bộ lớn lao làm sao. Điều này sẽ cho bạn sự lý thú quan tâm không ngừng trong khi duy trì việc tu tập và cho dù bạn không thể tập trung tư tưởng được, bạn hãy biết rằng bạn vẫn đang tu tập Pháp. Bất cứ nơi nào bạn đang ở, với những người đang tu hành như bạn hay với những người thế tục, bạn sẽ học được cách kết hợp cuộc sống của bạn với Pháp lại với nhau thành một. Khả năng này đến từ trí huệ. Nếu không có trí huệ, làm sao bạn có thể làm cho những hợp đồng không thể tránh né được như ăn uống, ngủ, đi tiêu tiểu có thể hợp thành một với Pháp ? Khi bạn có trí huệ, bạn không cần phải lúc nào cũng quanh quẩn bên người thầy để nghe giáo huấn. Bạn có thể thấy những giáo huấn từ mọi điều chung quanh bạn. Bạn có thể học từ hình ảnh sao băng, từ thời tiết, cây trồng lúc nó lớn lên hay lúc nó lụi tàn, và tất cả các hiện tượng khác nữa. Đây chính là những gì hiện đang xảy ra khi bạn có trí huệ. Thật vậy, trí huệ của chính bạn thấu hiểu thực tại là vị thầy thực sự của bạn. Đây là điều mà Đạo Phật Tây Tạng dạy cho bạn.
Hãy hợp nhất toàn bộ cuộc sống với những kinh nghiệm về Pháp. Đó là điều có ảnh hưởng lớn lao nhất mà bạn có thể làm. Đó là cách để đạt tới giác ngộ trong đời này bởi vì bạn không hề lãng phí một giây trong đời bạn. Điều này hoàn toàn hợp lô-gích. Nếu bạn tin vào một quan niệm hoàn toàn sai lầm rằng chỉ thời gian một giờ ngồi thiền định là dịp, là lúc bạn tu tập Pháp và hai mươi ba giờ còn lại trong ngày hoàn toàn là ô nhiễm, là luân hồi sinh diệt, thì chắc chắn bạn sẽ cần ba a-tăng-kỳ kiếp để đạt tới giác ngộ. Bất cứ điều gì tâm bạn đã tin đều trở nên sự thật đối với bạn, cho dù điều đó là có thực hay không.