Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 25: Giành lại mảnh đất xưa

09 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9222)
Chương 25: Giành lại mảnh đất xưa

Tủ Sách Đạo Phật Ngày Nay
GIỚI THIỆU ĐẠO PHẬT
Peter Harvey - Mỹ Thanh dịch - Nhà Xuất Bản Hải Phòng 2008

Chương 25
GIÀNH LẠI MẢNH ĐẤT XƯA

Nam Dương (Indonesia)

Sự viếng thăm của các nhà theo thuyết thần trí Tây phương ở Nam Dương vào năm 1883 đã đánh thức lại sự yêu thích Phật giáo nơi người Trung Hoa, chiếm ba phần trăm dân số, và người Nam Dương Hồi giáo chiếm số đông, lúc nào cũng ham thích sự huyền bí. Các cuộc truyền bá Phật pháp từ Tích Lan (1929) và Miến Điện (1934). Vào năm 1955, Ashin Jinarakkhita, một tăng sĩ Trung Hoa được thọ giới ở Miến Điện, trở lại Nam Dương. Các tu viện Phật giáo Nam tông được xây dựng, được giúp đỡ vì sự yêu thích được đánh thức bởi ngày lễ của Đức Phật Jayanti. Việc thọ giớivô số cuộc cải đạo đã diễn ra nơi dân chúng của miền đông Java, họ vẫn còn bám chặt vào thuyết hổ lốn thần Śiva-Phật giáo, giống như người Trung Hoa. Vào năm 1965, vì cuộc đảo chánh có tính cách Cộng Sản, chính phủ cấm tất cả mọi hội đoàn nghi ngờ hoặc phủ nhận sự hiện hữu của Thượng đế

Đây tạo nên một vấn đề 
cho Phật giáo Nam tông “vô thần”. 

Ngài Jinarakkhita đề nghị “Thượng đế” của Phật tửĐức Phật Ādi, một vị Phật Nguyên Thủy của vùng nầy trong Phật giáo Mật tông, trong khi những người theo phái Phật giáo Nam tông chính thống cho rằng Niết Bàn (Nibbāna), cái “vô sanh”, là “Thượng đế” của họ. Nói chung, ngài Jinarakkhita ủng hộ Phật giáo đã phần nào bị hỗn hợp. Trong khi Phật giáo Nam tông chiếm phần lớn về việc giảng dạy, Phật giáo Nam tông sử dụng vài bài văn tiếng Sanskrit và Java, gồm có sự liên quan đến các vị Phật và Bồ-tát (Bodhisattva) của Đại thừa (Mahāyāna) trong việc lễ lạy, và rút ra những yếu tố lễ nghi của Phật giáo Trung Quốc. Sự gia tăng về hoạt động của Phật tử ở Nam Dương đã đưa đến một hoạt động lớn hơn nơi Phật tử Trung Hoa và một sự hồi sinh nơi thần Śiva-Phật giáo cũng có mặt ở đảo Bali. Cuộc truyền giáo của người Thái đã củng cố nhiều truyền thống Phật giáo Nam tông vào năm 1970, và bắt đầu có một Tăng đoàn với các tăng sĩ dân bản xứ. Vào năm 1977, có khoảng từ hai cho đến ba triệu người dân Phật tử ở Nam Dương.

Ấn Độ 

Bắt đầu thế kỷ thứ mười chín, các học giả Ấn Độ và Tây phương học hỏi về gia tài Phật giáo của Ấn Độ xuyên qua khảo cổ học và sự tìm tòi kinh sách. Từ năm 1890, các tác phẩm Phật giáo nổi tiếng xuất hiện, và nhà văn Rabindranath Tagore đã thêm vào những đề tài Phật giáo trong các bản kịch của ông. Hội đoàn Đại Bồ đề (Mahā Bodhi Society) của Dharma-pāla phát triển những trung tâmvô số thành phố và giúp nâng cao sự chú tâm về Phật giáo Ấn Độ. Phật giáo dần dà đã làm một số người Ấn có học thức cải đạo, và một hội viên cũ của Hội đoàn MBS đã làm việc cải đạo cho những người thuộc thành phần hạ cấp ở miền nam. Vào những năm 1920 và 1930, Hội MBS liên kết với những bài viết của nhóm học giả trí thức. Việc nghiên cứu học thuật và những bài viết phổ biến của ba tăngẤn Độ nổi tiếng, R. Sankrityayan, A. Kausalyayan và J. Kashyap.
Niềm yêu thích Phật giáo Ấn Độ được khơi dậy, đã đưa đến việc xuất bản vô số sách về tôn giáo
Vài nhà trí thức thế tục trở nên thích thú với chủ nghĩa “duy lý”, và vì chủ nghĩa nầy không ủng hộ sự phân biệt giai cấp, nhưng thường thì họ không chính thức trở thành Phật tử. Phật giáo thường được xem như là một phần của Ấn giáo, mà họ tin tưởng mạnh mẽ vào bản chất tự nhiên của xã hội

Vị thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ độc lập, Jawaharlal Nehru, là một nhà Phật tử “trí thức”. Phần lớn giới nầy thường ở giai cấp trung lưu, của những sát nhập tôn giáo khác nhau, họ cũng tham dự vào “những trại thiền” mười ngày. Nơi đây dạy thiền Vipassanā như là một phương cách để sống một cuộc sống hài hòa, và có thể được xem là một dạng của Phật giáo hiện đại.

Phần đông các Phật tử “mới” ở Ấn Độ là những hội viên cũ của các giai cấp “không được chạm đến”, là những người theo Giáo sư B. R. Ambedkar (18921-1956). Những người Phật tử “Ambedkar”, có con số khoảng 4,5 triệu, phần lớn tập trung ở miền Tây của tiểu bang Maharashra, nơi mà họ chiếm khoảng 7 phần trăm dân số. Những giai cấp không được chạm đến được gọi là “những giai cấp bị sắp đặt” từ năm 1935, gồm một nhóm tiện dân bị xã hội ruồng bỏ về mặt kinh tế theo truyền thống, họ bị đặt dưới cả thành phần nô lệ (Śūdras) trong xã hội Ấn giáo. Họ làm những công việc nhơ nhớp như quét rửa đường xá, và bị khinh khi, nhất là bị giới Bà-la-môn coi rẻ hơn con người.
Ambedkar, dù là một người nằm trong giai cấp không được chạm đến, đã xoay sở để có được một nền học vấn ở Ấn Độ và ở nước ngoài. Ông trở thành một luật sư và từ năm 1920, hoạt động cho việc giải phóng những người ở giai cấp không được chạm đến trong nấc thang thấp của Ấn giáo. Ông thấy rằng có rất nhiều cái ác trong xã hội Ấn Độ, và ông xem hệ thống giai cấp là gốc rễ của tất cả những xấu ác. Vào năm 1936, ông thành lập Liên Đoàn Những Giai Cấp được Sắp Đặt (Scheduled Castes Federation) để khắc phục quyền lực chính trị của các người Bà-la-môn, mà ông thấy rằng chính họ là nền tảng của hệ thống giai cấp. Là một vị thủ tướng luật pháp của chính phủ sau lần đầu tiên độc lập, ông bảo đảmhiến pháp bảo vệ những quyền lợi của các hội viên trong giai cấp bị sắp đặt.

Vào năm 1935, Ambedkã tuyên bố ông sẽ từ bỏ Ấn giáo cho một tôn giáo mới, và đây là một cách tiến triển cho các hội viên giai cấp bị sắp đặt. Ông được mời gọi đến với những tôn giáo khác, nhưng ông từ chối Thiên Chúa giáoHồi giáo vì gốc gác của các tôn giáo nầy không thuộc về dân Ấn, và vì các hội viên Ấn của hai tôn giáo Thiên chúa và Hồi cũng bị ảnh hưởng với thái độ giai cấp. Ông cũng nhận thấy rằng Thiên Chúa giáotính cách cá nhân và không thích Hồi giáo vì đạo nầy có khuynh hướng cố chấpép buộc sự tách biệt đối với phụ nữ trong tục che mặt (purdah). Đồng thời ông cho rằng Phật giáo là một tôn giáo bình đẳng và duy lý, nhấn mạnh về tình thương yêu, công bằngtự do tâm linh. Ông muốn tránh những việc như tiêu phí về những hoạt động tạo “công đức”, tuy nhiên, ông cho mình là một người “Phật tử mới”. Đối với ông, Phật giáo là một chân lý xã hội, mà Đức Phật đã có ý định là các tăng sĩ là những người mang đuốc chân lý cho một xã hội mới lý tưởng. Vì thế các tăng sĩ phải là “những nhà hoạt động xã hộiđồng thời là những nhà truyền giáo”, giống như các vị giáo sĩ Thiên Chúa giáo. Việc giảng dạy về giáo pháp của Phật là một cách để mang đến cho con người sự tự trọng, và một nền dân chủ cho xã hội. Vào năm 1956, Ambedkar và khoảng 500.000 hội viên giai cấp bị sắp đặt đã cải đạo và đến với Phật giáo trong buổi lễ “quy y” công khai. Những buổi lễ cải đạo sau đó tiếp diễn, và vẫn còn tiếp tục dù trên một bình diện nhỏ hơn. Phật giáo của Ambedkar chú trọng vào sự đổi mới đạo đức của cá nhânxã hội. Nhấn mạnh về lòng kính ngưỡng, nhưng không nhấn mạnh về thiền định, và Ambedkar được chấp nhận là “nơi nương tựa” thứ tư, và được xem là một vị Bồ-tát (Bodhisattva). Những bài giảng Phật giáo của Ambedkar cũng giống như những bài giảng của Phật giáo Nam tông hiện đại.

Sự cải đạo có nghĩa là các Phật tử Ambedkar đã khắc phục được ý nghĩa tính chất thấp kém, và kinh nghiệm về lòng tự trọng của họ được nâng cao lên. Họ sốt sắng trong việc tiến bộ về học vấn, và kinh nghiệm kinh tế được tốt đẹp hơn, thí dụ bằng cách giảm bớt nhiều cho chi phí hôn lễ theo truyền thống. Những người Phật tử của thế hệ đầu tiên đã có nhiệm vụ phát triển sự hiểu biết về tôn giáo mà họ vừa thích nghi, nhiệm vụ nầy không phải là không khó khăn ở buổi ban đầu

Các viên chức cư sĩ đã từng học tập trong vòng sáu tháng đã dẫn đầu phần lớn về hoạt động nầy. Vào năm 1970, có khoảng bốn mươi tăng sĩ , nhưng các việc học tập không đúng tiêu chuẩn, vì thế chỉ có một số ít là có học thức. Các Phật tử Ambedkar phần đông thường là các hội viên cũ của giai cấp Mahar và Jatar, và thật ra bây giờ có chiều hướng bị xem là một giai cấp mới (thấp): dù họ chưa làm vỡ được khuôn đúc. Tuy vậy, con số Phật tử Ambedkar cũng đang tiếp tục gia tăng

Các người Phật tử hành hương từ những nước khác nhau bây giờ thăm viếng những nơi có liên quan đến cuộc sống của Đức PhậtẤn Độ , đặc biệt là Bodh-Gayā, nơi mà Đức Phật thành đạo. Nơi đây, có một tu viện lớn của Tây Tạng, một ngôi chùa Nhật Bản và một trường học cho trẻ em trong vùng, một ngôi chùa Thái, một nhà nghỉ được điều hành bởi các tăng sĩ Tích Lan của hội MBS, một tu viện của Miến Điện, và một ngôi chùa nhỏ của Trung Hoa. Các dân làng quanh vùng bắt đầu hướng về Phật giáo. Trong một ý nghĩa quan trọng, Phật giáo đã bắt đầu ở Bodh-Gayā, và điều nầy rất thích hợp và nơi đây bây giờ là một thế giới vi mô của thế giới Phật giáo

Phật giáo vượt xa hơn Á châu

Quyền lực Âu châu lan rộng đến Á châu, đặc biệt là ở Ấn Độ, sự hiểu biết về những tôn giáo Á châu trở nên nền móng đứng đắnhoàn toàn hơn. Sự thay đổi ý nghĩ của Âu châu cũng đưa đến việc cởi mở chấp nhận những ý tưởng từ các tôn giáo phi-Thiên Chúa giáo. 

Vào thế kỷ thứ mười tám, sự thức tỉnh được nhấn mạnh về mặt “lý trí” và “khoa học” đã làm suy yếu sự nương tựa vào quyền lực “mặc khải” trong những việc có tính cách tôn giáo, và một số người nghĩ rằng họ nhìn thấy mọi người trong những nền văn hóa khác nhau đều có chung một “tôn giáo thiên nhiên”, nhưng được bày tỏ rõ ràng nhất là Thiên Chúa giáo. Vào thế kỷ thứ mười chín, những tiến bộ về địa chất học và việc học tập Kinh thánh đã làm suy yếu việc giải thích Kinh thánh theo nghĩa đen, và những khái niệm về vô số sự tiến hóatính cách sinh vật học dường như đã bao phủ nhiều nghi ngờ về việc tạo thiên lập địa trong Thiên Chúa giáo. Trong ý nghĩa nầy, ý tưởng làm nên một cuộc nghiên cứu về tất cả các tôn giáotính cách “khoa học”, “có thể so sánh được” đã được đề ra.

Những yếu tố nầy đã tập hợp lại vào hai mươi năm cuối của thế kỷ thứ mười chín, nơi đây có sự hâm mộ Phật giáo “hiện đại” trong những thành phần của giới trung lưu ở Mỹ, Anh và Đức. Như Thiên Chúa giáo, Phật giáo có một hệ thống đạo đức cao quý nhưng đây là một tôn giáo về sự tự giúp, không nương tựa vào Thượng đế hay các thầy tế lễ. Giống như khoa học, Phật giáo dựa vào kinh nghiệm, thấy vũ trụ được vận hành theo một quy luật, và không xem con người hay thú vậttriệt để khác nhau. Nhưng cho những người có sở thích về sự huyền bí, thì Phật giáo mang đến một cái gì đó nhiều hơn là khoa học.

Sự uyên bác

Những bài giảng Phật giáo đầu tiên được thực hiện bằng tiếng Sanskrit [phần lớn là Đại thừa (Mahāyāna)] từ Nepal, được một người Anh tên là B.H. Hodgson kết tập. Nhà học giả người Pháp Eugène Burnouf dùng những bài văn nầy để sản xuất một quyển sách của ông “Giới thiệu lịch sử Phật giáo Ấn Độ” [Introduction à l’histoire du Bouddhisme indien(1845)], và một bản dịch của Kinh Pháp hoa (Lotus Sūtra) (1852).

Tích Lan, các giáo sĩ bắt đầu học về giáo pháp Phật, dù quan niệm méo mó của họ cho rằng truyền thống Nam tông là một tôn giáo chán đờithiếu sótVào khoảng năm 1800, các học giả người Anh, Đức và Scandinavian đã điều chỉnh lại điều nầy, như V. Fausboll, đã chọn lọc quyển Kinh Pháp Cú (Dhammapada) và chuyển dịch kinh nầy sang tiếng La-tinh vào năm 1855. Hai bài tường thuật nổi tiếng về đời sốnggiáo pháp của Đức Phật dựa vào những tài liệu tiếng Pali, đó là quyển Đức Phật, Đời sống, Giáo pháp, Tăng đoàn (1881, bằng tiếng Đức) (The Buddha, His Life, His Doctrine, His Community) của Hermann Oldenberg,và quyển Phật giáo (Buddhism) (1878) của T. W. Rhys Davids, người đã từng phục vụ việc hành chánh trong vòng tám năm ở thuộc địa Tích Lan

Bên Anh cũng vậy, ông F. Max Muller, người Anh, gốc Đức chọn lọc năm mươi mốt bộ Những tập Sách Thiêng Liêng của Á châu (Sacred Books of the East series) (1879-1910), chứa đựng những bản dịch của một số bài văn Phật giáo. Ở Mỹ, Henry Clarke Warren, người cùng sáng lập Harvard Oriental Series (1891), và sản xuất những bản dịch hợp tuyển tuyệt hay từ Bộ Kinh Pali, Phật giáo nơi những Bản dịch (Buddhism in Translations) (1896). Đặc biệt quan trọng nhất là hoạt động của Hội đoàn ấn bản Pali (Pāli Text Society) do ông Rhys Davids (1843-1922) sáng lập ở Anh quốc vào năm 1881. Mục đích của hội là phát hành những bản bình luận, bằng chữ La Mã, của các bài giảng trong Kinh Pali và những lời chú thích, cùng với những bản dịch. Sự thích thú tìm hiểu về Bộ Kinh Pali xuất hiện vì nơi đây được xem là gìn giữ “những bài giảng chính gốc” của Đức Phật , được xem là một người Thầy đạo đức và duy lý, với những yếu tố siêu tự nhiên, những điều có tính cách lễ nghi được xem là phần thêm vào sau nầy. Sự hợp tác quốc tế giúp cho hội PTS (Pāli Text Society) xuất bản phần lớn các bài của Bộ kinh bằng tiếng Pali vào năm 1910, và vào năm 1989, hội đã xuất bản 176 bộ kinh và 74 bản dịch, cùng với những tác phẩm giúp cho việc học tập kinh điển.

Vào đầu thế kỷ thứ hai mươi, những bài kinh bằng tiếng Tây Tạng và Trung Hoa được học tập. Ở Nga, T. Stcherbatsky, một học giả triết lý Phật giáo, đã lãnh đạo một đội học giả xuất bản những tác phẩm như “Khái niệm Phật giáo và Ý nghĩa của chữ Pháp” (Conception of Buddhism and the Meaning of the Word Dharma) (1923), và “Lô-gích Phật giáo” (Buddhist Ý thức hệ) (1930). Những học giả khác, phần lớn là người Pháp và người Bỉ, học hỏi về những khía cạnh tôn giáolịch sử của Đại thừa (Mahāyāna), với L. de La Vallée Poussin sản xuất những bản dịch Thắng Pháp (Abhidharma-kośa) và những tác phẩm chánh của Du già tông (Yocāgāra). Sự hiểu biết về Zen Phật giáo được giúp đỡ nhiều do những bài viết nổi tiếngtính cách học giả của Giáo sư D. T. Suzuki, thí dụ những bài luận về Thiền Phật giáo, Tập I (1927) (Essays in Zen Buddhism, First Series).

Từ lúc Đệ Nhị Thế Chiến, các học giả như E. Lamotte (1903-83) tiếp tục trường học Pháp-Bỉ. Những tiến bộ trong sự học tập về Phật giáo Bắc tông được thực hiện bằng những cuộc du lịch và những bài dịch của G. Tucci, người Ý, trong khi những học giả Nhật và Ấn đã có những đóng góp quan trọng đối với việc học hỏi Phật pháp quốc tế. Sự khám phá về những bài kinh từ Trung Tâm châu Á được xem là nhiều như cát, và những ngôi chùa trong hang động ở Tun-huang, Trung Quốc, cũng đã mở ra những phạm vi mới cho việc nghiên cứu. Edward Conze (1904-79) tiến hành sự học hỏi về văn chương Bát Nhã (Perfection of Wisdom), và quyển sách Phật giáo (Buddhism) của ông (1951), Những Bài Văn Phật giáo qua nhiều thế hệ (Buddhist Texts Through the Ages) (1954), Kinh Phật giáo (Buddhist Scriptures) (1959), và Ý nghĩ Phật giáoẤn Độ (Buddhist Thought in India) (1962), đã gieo rắc sự hiểu biết về Phật giáo. Từ năm 1960, việc học tập về Phật giáo đã được thiết lập trong các trường đại học phương Tây.

Các học giả Tây phương vì vậy đã giữ một vai trò quan trọng trong việc mang lại kiến thức Phật giáo cho phương Tây. Điều nầy được bày tỏ trong các tác phẩm uyên bácnổi tiếng và trong những cuộc triển lãm về đồ cổ và nghệ thuật Phật giáo. Một cách gián tiếp, điều nầy cũng đưa đến những luận bàn về Phật giáo trên truyền hình và đài phát thanh. Các tác phẩm về Phật giáo bây giờ đã được các nhà in Phật giáo sản xuất hàng loạt. Ở Mỹ có các nhà xuất bản như Shambhala, Dharma và Snow Lion Publication, và ở Anh có Wisdom và Tharpa Publications.

Ảnh hưởng Phật giáo 
qua văn chươngtriết học

Phật giáo qua một nguồn khác đã lan truyền đến Tây phương qua hoạt động của vài nhà văn và triết gia. Ở Đức, Arthur Schopenhauer (1788 – 1860) đã kinh ngạc khi nhận thấy những tương đương giữa triết lý của ông và những lý tưởng của Phật giáo và Ấn giáo mà ông đã phần nào đúc kết thành một. Tác phẩm chánh của ông, “Thế giới như Ý chí và Điển hình” (The World as Will and Representation) (1818 và 1844, tiếng Đức), chứa đựng vô số tham khảo liên quan đến Phật giáo, đặc biệt là trong tập hai, trong khi các giáo sĩ Thiên Chúa giáo phê bình sự “yếm thế” của Phật giáo, Schopenhauer xem Phật giáotôn giáo hay nhất, ông thấy đây là sức mạnh của Phật giáo, khi chấp nhận một cách thực tế sự hiện hữu của khổ đau trong thế gian. Sự yêu thích Phật giáo của Schopenhauer đã ảnh hưởng đến Wagner trong sáng tác nhạc kịch của ông, “Tristan và Isolde” (Tristan and Isolde) (1855). Vào khoảng năm 1830 và 1840, những nhà văn Mỹ theo thuyết tiên nghiệm, R. W. Emerson và H. D. Thoreau cũng nhờ đến những đề tài Ấn ĐộTuy nhiên, để phát triển triết lý có tính cách cá nhân, trực giác và đa thần, phần lớn các tư liệu gốc của họ đều bắt nguồn từ Ấn giáo.

Ở Anh quốc, ngài Edwin Arnold, chủ bút của tờ báo Điện Tín Hằng Ngày (Daily Telegraph), xuất bản quyển “Ánh Sáng Á Châu” (Light of Asia) (1879), một bài thơ kể về cuộc đời Đức Phật. Quyển sách nầy đã đưa đến sự yêu thích khắp nơi về Phật giáo, như nơi các giai cấp trung lưu ở Anh và Mỹ quốc, và giúp cho sự hồi sinh của Phật giáoTích Lan. Arnold là một người Thiên Chúa giáo tự do, rất thích thú với Phật giáo. Bài tường thuật của ông với phương cách phong phú, đa cảm, gây ấn tượng sâu sắc, đã miêu tả Đức Phật như là một nhân vật có những điểm tương đồng với Jesus. Vào năm 1885, Arnold viếng thăm Bodh-Gayā và rồi du lịch sang Tích LanNhật Bản để cổ động sự ủng hộ về việc trùng tu di tích nầy và những thánh địa khác. Điều nầy đã làm cho Anagārika Dharmapāla phải viếng thăm địa điểm nầy, và sau đó ông thành lập Hội đoàn Đại Bồ Đề (Mahā Bodhi Society).

Các tiểu thuyết của nhà văn Đức Hermann Hesse sử dụng những đề tài Phật giáo, nhất là quyển sách Siddhartha (1922) có ảnh hưởng rất sâu rộng, và Carl Jung, nhà phân tâm học, người Thuỵ Sĩ, đã tìm thấy những tương đồng giữa những giấc mơ có tính hiệu và những Mạn-đà-la (maṇḍalas) của Tây Tạng. Vào năm 1950, quyển sách The Dharma Bums và On the Road của Jack Kerouac thấm đậm những đề tài Zen vào trong văn hóa hỗn loạn của phong trào Beat (Beat sub-culture). 

Sách của Aldous Huxley, “Các cánh cửa khái niệm và Thiên đàng và Điạ ngục” (The Door of Perceptions and Heaven and Hell) (1956) đã khơi dậy sự yêu thích về thiền Đông phương bằng cách (một cách sai lầm) so sánh sự giác ngộ với những kinh nghiệm dưới ảnh hưởng của các chất gây ra ảo giác, mescaline. Vào năm 1960, thành phần liên kết nầy đã giúp cho Phật giáo được nhiều người chú ý tới, dưới ảnh hưởng của phong trào Híp-pi (Hippie).


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11706)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12027)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11179)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11413)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12132)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12622)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10842)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18075)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11793)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10018)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10234)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12431)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15432)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11301)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14412)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12187)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15468)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12077)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12484)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11266)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12147)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10685)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12609)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13249)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14936)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12769)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16662)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19754)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13191)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12748)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12354)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11943)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10993)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13605)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12020)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11930)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11708)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12823)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14614)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12686)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15756)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13701)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12980)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9948)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18096)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11249)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9130)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12260)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13127)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10361)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12257)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15416)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16685)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12314)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11580)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14354)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19799)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14232)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24718)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10750)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant