Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Khái niệm căn bản

11 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9339)
2. Khái niệm căn bản

THERAVĀDA PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
PHẬT PHÁP VẤN ĐÁP
Bình Anson biên dịch
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo PL. 2550 – DL. 2006

KHÉO VẤN, KHÉO ĐÁP
Nguyên tác: Good Question, Good Answer
Tác giả: Tỳ khưu Shravasti Dhammika
Dịch giả: Phạm Kim Khánh & Bình Anson

2. KHÁI NIỆM CĂN BẢN

VẤN: Điểm chính yếu trong Phật giáo là gì?

ĐÁP: Tất cả các lời dạy của Đức Phật đều tập trung vào Tứ Diệu Đế – bốn chân lý cao thượng, cũng như trong bánh xe, tất cả những cây căm đều hợp lại nơi cái đùm của trục xe. Gọi là "Tứ", vì tất cả có bốn. Gọi là "Diệu" vì nó làm cho người ta hiểu biếttrở thành cao thâm vi diệu. Và gọi là "Đế", hay chân lý, vì nó phù hợp với thực tế, nó là đạo lý chân thật, là chân lý.

VẤN: Đế thứ nhất là gì?

ĐÁP: Khổ đế, hay chân lý đầu tiên, nói rằng đời sốngđau khổ. Sống là phải khổ. Không thể sống mà không chứng nghiệm một loại đau khổ nào. Ta phải chịu đau khổ về vật chất như bệnh hoạn, thương tích, mệt mỏi, già nua, rồi chết. Và ta phải chịu đau khổ về mặt tâm linh như cô đơn, phiền giận, bực bội, sợ hãi, bối rối, thất vọng, sân hận v.v. 

VẤN: Nói như thế có phải chăngbi quan yếm thế không?

ĐÁP: Tự điển định nghĩa "bi quan" là "có thói quen nghĩ rằng bất luận gì sẽ xảy đến cũng là xấu", hoặc "tin rằng điều xấu mạnh thế hơn điều tốt". Phật giáo không dạy những gì giống như hai điều này, Phật giáo cũng không phủ nhận rằng có hạnh phúc trong đời sống. Phật giáo chỉ nói rằng sống là chứng nghiệm đau khổ, về thể chấttinh thần. Đó là một lời nói rất đúng, và rõ ràng, hiển nhiên, không thể chối cãi. Trung tâm điểm của phần đông các tôn giáo khác là một thần thoại, một thánh truyện hay một lòng tin rất khó hoặc không thể kiểm nhận. Phật giáo khởi đầu với một kinh nghiệm, một sự kiện không thể chối cãi, một điều mà tất cả ai ai cũng đều biết, tất cả mọi người đều có chứng nghiệm, và mọi người đều tận lực cố vượt qua khỏi. Như vậy, Phật giáotôn giáo duy nhất thật sự phổ quát, vì đi ngay vào cốt lõi của nỗi niềm lo âu của mỗi cá nhân ­ đau khổ, và làm thế nào tránh khỏi đau khổ.

VẤN: Đế thứ nhì là gì?

ĐÁP: Tập đế, chân lý thứ nhì, dạy rằng tất cả mọi đau khổ đều do ái dục làm nguyên nhân. Nhìn vào nỗi khổ của phần tâm lý, ta dễ thấy rằng nó bắt nguồn từ ái dục. Khi muốn điều gì mà không được toại nguyện, ta cảm thấy buồn phiền. Khi mong chờ một người nào sống lâu, mạnh khỏe mà không được, ta cảm thấy bị bỏ rơithất vọng. Khi muốn được người khác ưa thích, thương yêu, mà không được, ta cảm thấy bị xúc phạm. Ngay đến khi ta muốn và được, điều này lắm lúc cũng không đưa đến hạnh phúc, bởi vì không bao lâu sau đó, ta cảm thấy buồn chán, không còn thích thú, quan tâm đến, và bắt đầu ước muốn điều khác. Một cách đơn giản, Tập đế dạy rằng có được những gì mong mỏi cũng không chắc là hạnh phúc. Thay vì kiên trì chiến đấu để thành đạt điều mong muốn, hãy cố gắng sửa đổi chính cái lòng ước muốn của mình. Tâm khát khao ham muốn cướp đoạt của ta niềm vui được vừa lònghạnh phúc.

VẤN: Nhưng bằng cách nào ham muốnái dục dẫn đến đau khổ về mặt thể chất?

ĐÁP: Trọn đời, ước muốn và khát khao điều này hay điều kia và đặc biệt, lòng khát khao muốn sống, muốn được tiếp tục hiện hữu, tạo một năng lực hùng mạnh đưa cá nhân đi tái sinh. Khi tái sinh, ta có một xác thân và, như đã đề cập ở phần trên, có thân là có bệnh hoạn, thương tích, mỏi mòn kiệt quệ, già yếu, suy nhược, rồi chết. Do đó, ái dục đưa đến đau khổ thể chất, vì nó đưa đến tái sinh.

VẤN: Vậy thì rất tốt đẹp. Nhưng nếu chúng ta ngưng hẳn, không muốn gì hết, ắt chúng ta không được gì hoặc không thành đạt gì cả?

ĐÁP: Đúng vậy. Nhưng điều Đức Phật dạy là khi lòng ham muốn, ái dục của ta, nỗi niềm mãi mãi bất mãn của ta đối với những gì mình đang có, và khát vọng không ngừng muốn có thêm và có thêm, chắc chắn sẽ tạo đau khổ; như vậy, ta nên dừng lại. Ngài dạy chúng ta nên phân biệt điều gì ta cần và điều ta ham muốn, nên cố gắng thành đạt điều cần và sửa đổi lòng ham muốn. Ngài nói rằng những gì ta cần, có thể được thoả mãn. Nhưng điều chúng ta ham muốn thì vô cùng tận ­ một hố sâu không đáy. Có những điều cần thiết chính yếu, cơ bản, và có thể thành tựu, ta nên gia công thành tựu. Còn những ham muốn vượt qua khỏi sự cần thiết, ta nên giảm thiểu dần dần. Dầu sao, mục tiêu của đời sống là gì? Để được có, hay để được vừa lòng và hạnh phúc?

VẤN: Sư nhắc đến tái sinh, nhưng có gì chứng minh rằng có tái sinh?

ĐÁP: Có rất nhiều bằng chứng, nhưng ta sẽ thảo luận về điểm này với nhiều chi tiết ở phần sau.

VẤN: Đế thứ ba là gì?

ĐÁP: Diệt đế, hay chân lý thâm diệu thứ ba, là có thể chấm dứt đau khổthành đạt hạnh phúc. Đây có lẽ là điểm quan trọng nhất trong bốn chân lý thâm diệu ­ Tứ Diệu Đế ­ bởi vì nơi đây Đức Phật xác nhận rằng có thể tiến đến hạnh phúc thật sự và trạng thái mãn nguyện

Khi ta dứt bỏ ái dục, vốn là vô ích, và tập sống từng ngày, mỗi ngày, nhận lãnh những kinh nghiệmđời sống dành cho mà không lo âu bồn chồn vì lòng mãi ham muốn điều này điều nọ, nhẫn nại chịu đựng những khó khăn của cuộc sống mà không kinh sợ, không thù hằnsân hận, chừng đó chúng ta bắt đầu sống đầy đủ, trọn vẹn

Vì không còn bị lòng muốn nuông chiều những khát vọng ích kỷ của mình ám ảnh, chúng ta sẽ có nhiều thì giờ hơn để giúp đỡ người khác, giúp người khác thoả mãn những gì cần thiết cho họ. Trạng thái ấy được gọi là Niết bàn. Chúng ta đã giải thoát, vượt khỏi mọi đau khổ tinh thần

VẤN: Niết bàn là gì? Niết bàn ở đâu?

ĐÁP: Đó là tầm mức vượt ra ngoài thời giankhông gian, và như vậy, khó nói hay nghe bàn đến. Ngôn ngữtư tưởng chỉ có thể mô tả những gì trong tầm mức thời gian-không gian. Nhưng bởi vì Niết bàn vượt ra ngoài thời gian nên không có sự chuyển động, do đó không có già, không có chết. Niết bànvĩnh cửu. Bởi vì Niết bàn vượt ra ngoài không gian nên không có nhân quả tương quan, không ranh giới, không có khái niệm về tự ngã và không tự ngã, và như vậy, Niết bàn vô cùng tận. Đức Phật cũng dạy rằng Niết bànkinh nghiệm hạnh phúc lớn lao. Ngài dạy: "Niết bàn là hạnh phúc tối thượng" (Pháp cú, 204).

VẤN: Nhưng có gì chứng minh rằng có tầm mức như vậy không?

ĐÁP: Không. Không có. Nhưng do suy luận, ta có thể hiểu biết. Nếu có một tầm mức trong đó thời giankhông gian vận hành, và có một tầm mức như vậy ­ thế gian mà ta đang kinh nghiệm, đang sống trong đó ­ ắt ta có thể suy rằng có một tầm mức mà không có thời giankhông gian vận hành, Niết bàn. Một lần nữa, mặc dù ta không thể chứng minh rằng Niết bànhiện hữu, ta có lời Phật dạy rằng Niết bàn hiện hữu. Ngài nói:

"Có cái không sinh (ajāta, phát sinh mà không tùy thuộc nguyên nhân hay điều kiện, không tùy thuộc nơi nhân duyên để hiện hữu), cái không trở thành (abhūta, không khởi phát từ nhân duyên), không được tạo nên (akata, không phát sinh từ một nhân nguyên và không trở thành, tức nhiên không được cấu tạo), và không được cấu hợp (asamkhata, không tùy thế, tức không tùy thuộc nguyên nhân nào tạo duyên để hiện hữu, không do duyên sinh, vô lậu). Nếu không có cái không sinh, cái không trở thành, cái không được tạo, cái không được cấu hợp, ắt không có lối thoát cho cái có sinh, có trở thành, có được tạo, có cấu hợp. Nhưng bởi vì có cái không sinh, không trở thành, không được tạo, không được cấu hợp, nên mới có lối thoát cho cái có sinh, có trở thành, có tạo, có cấu hợp" (Phật tự thuyết, 80).

Niết bàn là thế nào, chúng ta sẽ biết khi chứng đắc Niết bàn. Trong khi thời giờ chưa đến, ta vẫn có thể tu tập.

VẤN: Đế thứ tư là gì?

ĐÁP: Đạo đế, hay chân lý thâm diệu thứ tư, là con đường đưa đến chấm dứt đau khổ. Con đường này gọi là Bát Chánh Đạo, bao gồm tám phần tử: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định

Hành trì theo đạo Phậtthực hành theo tám pháp này cho đến khi thành tựu viên mãn. Bạn sẽ thấy các chi phần trong Bát Chánh Đạo bao trùm mọi phương diện trong cuộc sống: trí thức, đạo đức, xã hội, kinh tế và tâm lý; do đó, bao gồm mọi điều mà con người cần đến, để có một đời sống tốt đẹp và phát triển tâm linh.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33637)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6662)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11494)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30529)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30551)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8101)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12362)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12370)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11713)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 13010)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 35031)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9961)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52409)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10889)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10643)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10841)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10624)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13185)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16421)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 22059)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9734)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7247)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10492)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12924)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12905)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16360)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16648)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13972)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16724)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12248)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13980)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14426)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9316)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11856)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11376)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16491)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14478)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16302)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12809)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12201)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11913)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15820)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11628)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14153)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12131)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12782)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15107)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 12072)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13242)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14659)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20895)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13354)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 11077)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20830)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14504)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20582)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17794)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14148)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31989)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12118)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant