PHẬT PHÁP VẤN ĐÁP
Bình Anson biên dịch
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo PL. 2550 – DL. 2006
-2-
Tam tạng kinh
điển
Bình
Anson
Trong 45 năm truyền giảng con đường giải thoát, Đức Phật thu nhận rất nhiều đệ tử, có người xuất gia theo Ngài và lập thành tăng đoàn, có người cũng còn tại gia, gọi là các cư sĩ. Vùng truyền giáo của ngài là vùng đông bắc Ấn Độ giáp biên giới xứ Nepal, dọc theo các nhánh sông thượng nguồn sông Gange (Hằng hà).
Ngài có rất nhiều đệ tử từ các quốc gia trong vùng, gồm đủ mọi thành phần trong xã hội, lứa tuổi, nam nữ, và từ nhiều nguồn gốc tín ngưỡng khác nhau. Đức Phật đã để lại một kho tàng quí giá gồm nhiều bài thuyết giảng (Sutta, Kinh) trong nhiều dịp giảng dạy cho hàng đệ tử, bậc thánh thanh văn, hàng vua quan, cư sĩ, v.v. Với sự phát triển và mở rộng của tăng đoàn, Ngài đặt ra nhiều giới luật để tạo điều kiện thuận lợi trong công việc tu tập (Vinaya, Luật). Ngoài ra còn nhiều bài giảng đặc biệt khác mà về sau này được đúc kết lại trong tạng A-tỳ-đàm (Abhidhamma, Thắng pháp).
Kết tập đầu tiên
Ba tháng sau khi Đức Phật tịch diệt, một đại hội các vị tu sĩ (tỳ khưu, bhikkhu) được tổ chức, ngày nay được gọi là Đại hội Kết tập Kinh điển I, tại vùng đồi núi ngoại thành Rājagaha (Vương xá). Mục đích là để kết tập các bài kinh giảng và các điều luật thành một hệ thống chặt chẽ hơn. Chủ trì đại hội là tỳ khưu Mahā Kassapa (Đại Ca-diếp). Tuyên đọc phần Luật là tỳ khưu Upāli (Ưu-ba-ly). Tuyên đọc phần Kinh là tỳ khưu Ānanda (A-nan-đa), là thị giả của Đức Phật và vì thế có nhiều dịp nhất để nghe và ghi nhớ các bài giảng của Ngài. Đại hội gồm khoảng 500 vị thánh tăng, duyệt lại các giới luật và các bài thuyết giảng, sắp xếp thành hai nhóm chính: Luật tạng và Kinh tạng. Qua những thu thập lúc đó, Kinh tạng được phân chia làm 4 bộ chính: Trường bộ, Trung bộ, Tương ưng bộ, và Tăng chi bộ.
Kết tập lần thứ 2
Trong 45 năm hoằng dương đạo pháp, Đức Phật đã đi nhiều nơi, giảng đạo cho nhiều người và thu nhận nhiều đệ tử. Các đệ tử của Ngài ở rải rác khắp nơi, không thể nào cùng về tham dự đại hội đầu tiên. Do đó, có thể có một số bài thuyết giảng và giới luật phụ do Đức Phật đặt ra đã không được kết tập trong kỳ đại hội đó.Vì vậy, khoảng 100 năm sau, năm 383 trước Tây lịch (TL), Đại hội Kết tập Kinh điển lần thứ hai được tổ chức, theo yêu cầu của tăng chúng thành Vesali và Vajji. Sau lần kết tập này, Luật tạng được mở rộng với các giới luật mà các đại biểu cho rằng đã không được kết tập trong kỳ Đại hội I, và một số các bài kinh giảng khác chưa kết tập, tạo thành một bộ kinh thứ 5 của Kinh tạng (Tiểu bộ).
Sau lần kết tập này, Luật tạng và Kinh tạng xem như đã thành hình, và các bài giảng có lẽ cũng giống như bài giảng mà chúng ta có được trong bộ Đại tạng kinh hiện nay.
Kết tập lần thứ 3
Một trăm ba mươi năm sau đó, năm 253 trước TL, vua Asoka (A-dục) cho triệu tập Đại hội Kết tập Kinh điển lần thứ III. Tiểu bộ của Kinh tạng lại được mở rộng và kết tập thêm nhiều bài kinh giảng khác. Quan trọng hơn hết là việc Đại hội đã đúc kết các bài giảng về tâm lý, thể tính và sự tướng của vạn pháp, tạo thành Thắng pháp tạng (Abhidhamma pitaka, A-tỳ-đàm tạng, hay còn gọi là Vi diệu pháp tạng, Luận tạng).
Kết tập lần thứ 4
Khoảng năm 20 trước TL, 500 năm sau ngày Đức Phật tịch diệt, vua Vattagamani của Tích Lan (Sri Lanka) triệu tập Đại Hội Tăng Già IV tại vùng núi Aluhivihara gần thành phố Kandy ngày nay, kết tập lại các phần Kinh, Luật, và đúc kết phần Thắng pháp tạng. Để gìn giữ các bài giảng của Đức Phật, dù đã kết tập nhưng chỉ truyền khẩu trong 500 năm qua, ba tạng kinh điển được cho viết lại trên một loại giấy bằng lá bối-đa khô. Từ đó, Tam tạng Pāli được thành hình, và không còn thay đổi nào khác.
Kết tập lần thứ 5 và 6
Trong thời kỳ gần đây, Miến Điện có tổ chức hai kỳ kết tập khác: lần thứ V vào năm 1870, và lần thứ VI vào năm 1954. Tuy nhiên, các kỳ kết tập này chỉ để làm sáng tỏ các điểm chính trong kinh, nhưng không thay đổi gì trong bộ Tam tạng.
Tam tạng kinh điển
"Tạng" hay "Tàng" là giỏ chứa, chỗ chứa, tiếng Pāli gọi là Pitaka. Ngày xưa tại các chùa lớn thường có một thư viện gọi là "tàng kinh các" để lưu trữ các bộ kinh quí. "Tam tạng" theo tiếng Pāli gọi là Tipi-taka, gồm có: Luật tạng (Vinaya pitaka), Kinh tạng (Sutta pitaka), và Thắng pháp tạng (Abhidhamma pitaka).
Sau đây là sơ lược về các tạng này:
1. Luật tạng
Tạng này bao gồm các giới luật và nghi lễ cho nam tu sĩ (bhikkhu, tỳ khưu) và nữ tu sĩ (bhikkhuni, tỳ khưu ni), cách thức gia nhập tăng đoàn, truyền giới luật, sinh hoạt tăng chúng, cách hành xử trong các trường hợp vi phạm giới luật, các bài giảng và câu chuyện liên quan đến giới luật, v.v. Tạng này thường được chia làm 5 bộ:
1)
Phân tích giới tỳ khưu (Bhikkhu-vibhaṅga),
2)
Phân
tích giới tỳ khưu ni (Bhikkhunī-vibhaṅga),
3)
Đại
Phẩm (Mahāvagga),
4)
Tiểu
Phẩm (Cullavagga),
5)
Tập
Yếu (Parivara).
2. Kinh tạng
Gồm 5 bộ chính (nikāya):
1)
Trường bộ (Dīgha nikāya),
2)
Trung
bộ (Majjhima nikāya),
3)
Tương
ưng bộ (Samyutta nikāya),
4)
Tăng
chi bộ (Anguttara nikāya),
5)
Tiểu
bộ (Khuddaka nikāya).
Trong hệ Sanskrit (Bắc Phạn), các bộ tương đương là các bộ A-hàm (Āgama). Tuy nhiên, các bộ A-hàm nguyên thủy đã bị thất lạc và chỉ còn tìm thấy các bản kinh tiếng Sanskrit rời rạc, mà hiện nay chỉ còn các bản Hán văn, dịch từ nhiều nguồn gốc bộ phái và qua nhiều đời khác nhau.
Trường bộ là tập hợp các bài kinh dài, gồm 34 bài kinh, đã được dịch sang Việt ngữ. Ngoài các bài thuyết giảng của Đức Phật, Bộ này cũng có các bài giảng của Đại đức Sāriputta (Xá-lợi-phất), vị đệ tử hàng đầu có tài thuyết giảng hùng biện nhất thời đó, và các vị đệ tử nổi tiếng khác.
Trung Bộ gồm có 152 bài kinh sắp xếp trong 15 phẩm, theo từng chủ đề. Các bài kinh quan trọng thường có liên quan đến phép hành thiền quán niệm, chánh kiến, cách tịnh tâm, cuộc đời Đức Phật, Tứ Diệu Đế, tính không, quán niệm hơi thở, v.v. Có thể nói đây là một bộ kinh quan trọng nhất, bao gồm các bài giảng thiết yếu trên đường tu tập, thực hành lời Phật dạy.
Tương ưng bộ gồm 2.889 bài kinh ngắn, chia làm 5 chương và 56 phẩm. Đây là tập hợp các bài kinh có chủ đề giống nhau về một điểm thảo luận, hoặc về một nhân vật nào đó trong thời Đức Phật. Có những bài giảng quan trọng về hành thiền, 12 nhân duyên và về 37 phẩm trợ đạo.
Tăng chi bộ là bộ kinh dựa theo cách sắp xếp số học (pháp số), từ các chủ đề có liên quan đến 1 phần tử, 1 yếu tố, dần dần lên đến các chủ đề có 11 phần tử hay yếu tố. Vì vậy, bộ kinh được chia làm 11 chương, gồm 2.308 bài kinh.
Tiểu bộ thật ra không phải là bộ sách nhỏ, mà là tập hợp 15 bộ sách nhỏ:
1)
Tiểu tụng (Khuddakapātha),
2)
Pháp
cú (Dhammapada),
3)
Phật
tự thuyết (Udāna),
4)
Như
thị ngữ (Itivuttaka),
5)
Kinh
tập (Suttanipāta),
6)
Thiên
cung sự (Vimānavatthu),
7)
Ngạ
quỷ sự (Petavatthu),
8)
Trưởng
lão tăng kệ (Theragāthā),
9)
Trưởng
lão ni kệ (Therigāthā),
10)
Bổn
sanh (Jātaka),
11)
Nghĩa
thích (Niddesa),
12)
Vô
ngại giải đạo (Patisambhidāmagga),
13)
Thí
dụ (Apadāna),
14)
Phật
sử (Buddhavamsa),
15)
Hạnh
tạng (Cariyāpitaka).
3. Thắng pháp tạng
Còn gọi là Vi diệu pháp tạng, đây là tập hợp các bài giảng của Đức Phật về thể tính và sự tướng của vạn pháp, phân giải triết học và tâm lý học. Thắng pháp tạng gồm có 7 quyển:
1)
Pháp tụ (Dhammasanganī),
2)
Phân
tích (Vibhanga),
3)
Chất
ngữ (Dhātukatha),
4)
Nhân
chế định (Puggalapaññatti),
5)
Ngữ
tông (Kathāvatthu),
6)
Song
đối (Yamaka),
7)
Vị
trí (Patthāna).
4. Các thánh điển trọng yếu khác
Ngoài Tam tạng kinh điển còn có các bộ Chú giải, Phụ chú giải, và một số tác phẩm Pāli quan trọng khác cũng được học tập và lưu truyền cho đến ngày nay:
- Đảo
sử (Dīpavamsa),
-
Đại sử (Mahāvamsa),
-
Tiểu sử (Cullavamsa),
-
Mi-lan-đa vấn đạo (Milindapañha),
-
Thanh tịnh đạo (Visuddhimagga),
-
Thắng pháp tập yếu (Abhidhammatthasangaha),
-
v.v.