Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Sự tịnh hóa

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9820)
5. Sự tịnh hóa

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank

PHẦN 1

BÌNH GIẢNG CHÍNH 

5
SỰ TỊNH HÓA 

“(Con cầu xin) Thế Tôn Vajrasattva tịnh hóa tất cả các điều bất thiện và các thệ nguyện không thực hiện được của con và của các chúng hữu tình”

Vì lời thỉnh cầu này, ánh sáng rực rỡ tỏa ra từ chuỗi thần chú và từ chữ HUM ở trái tim thiêng liêng. Nó tịnh hóa tất cả các điều bất thiện và những điều che ám của tất cả chúng hữu tình và ánh sáng đó trở thành vật cúng dường cho chư Phật và chư Bồ tát. Tinh túy của những phẩm chất toàn mỹ của thân, khẩu, ý thánh thiện của chư Phật chư Bồ tát trở lại trong dạng ánh sáng, tan vào trong chữ HUM và chuỗi thần chú.

(Từ chữ HUM và chuỗi thần chú) một dòng năng lực cam lồ lạc phúc màu trắng bắt đầu tuôn tràn xuống các luân xa của hai người phối ngẫu thiêng liêng. Tuôn qua luân xa hợp nhất (chakra of union) nó chảy vào trong luân xa đỉnh đầu của tôi. Dòng cam lồ này của trí huệ siêu việt đầy tràn trong toàn thể thân tôi, phá tan các điều bất thiệnu ám của thân khẩu ý của tôi. Những thứ này hoàn toàn được tịnh hóa.

Trước tiên bạn khẩn cầu Heruka Vajrasattva – người phá tan mọi nhiễm ô, người sở hữu tất cả sự chứng ngộ, người siêu việt khỏi thế giới này – để tịnh hóa bạn và tất cả chúng hữu tình khỏi những điều bất thiện của thân, khẩu, ý và tất cả những thệ nguyện, cam kết thuộc Kim Cương thừa đã bị biến chất hay không thực hiện.

Rất nhiều ánh sáng tỏa ra từ chữ HUM và chuỗi mật chú ở tim thiêng liêng của Heruka Vajrasattva và người phối ngẫu của ngài, ánh sáng tràn đầy trong không gian khắp mười phương, tịnh hóa tất cả bất thiện của chúng hữu tình và làm thành các vật cúng dường cho tất cả chư Phật, các con Phật tức các vị Bồ tát hưởng thụ. Tinh chất của trí huệ siêu việt của thân, khẩu, ý của chư thánh, sẽ trở lại trong dạng ánh sáng, tan vào trong chữ HUM và chuỗi mật chú ở tim của Heruka Vajrasattva và tim của người phối ngẫu. Từ đây, một khối lượng rất lớn của năng lực kundalini màu trắng (amrita), phúc lạc đổ vào kinh mạch trung ương của ngài. Tinh túy của năng lực kundalini này là trí huệ siêu việt phúc lạc của ngài. Năng lực của trí huệ này không hề vơi cạn – hoàn toàn ngược lại với năng lực bị giới hạn của chúng ta luôn bị kiệt quệ nhanh chóng và đòi hỏi chúng ta phải ăn uống để bổ sung. Khi bạn đang quán tưởng việc này, bạn cũng nên quán tưởng năng lực kundalini trắng phúc lạc đổ xuống kinh mạch trung ương của Dorje Nyem-ma, người phối ngẫu của Heruka Vajrasattva.

Năng lực kundalini trắng phúc lạc chảy xuống kinh mạch trung ương của họ, đi qua luân xa rốn và luân xa giới tính và rời khỏi cơ thể tinh khiết của họ ở nơi mà họ liên kết với nhau làm một. Năng lực đó tiếp tục xuống xuyên qua mặt trăng và chỗ ngồi bằng bông sen mà vì bản chấttrí huệ siêu việt, nên không hề cản ngại. Năng lực đó vào người bạn xuyên qua luân xa đỉnh đầu, đổ ào xuống, thông qua kinh mạch trung ương, với sức mạnh như thác nước. Điều rất quan trọng là bạn quán tưởng dòng thác cam lồ màu trắng này như là tràn ngập mãnh liệt. Nó tràn vào cơ thể bạn và lan ra khắp cả thân. Năng lực trắng này không phải là vật chất, nhưng bằng cách nào đó, nó được cảm thấy như rất thật. Ánh sáng rực rỡ cũng tràn đầy trong bạn và bạn hoàn toàn bị cái lạc thu phục. Tất cả những điều bất tịnh của thân, khẩu, ý của bạn biến mất không để lại vết tích gì.

Trì Chú (5) 

OM VAJRA HERUKA SAMAYAM ANUPALAYA. HERUKA TENOPATISHTHA. DRIDHO ME BHAVA, SUTOSHYO ME BHAVA, SUPOSHYO ME BHAVA, ANURAKTO ME BHAVA, SARVA SIDDHIM ME PRAYACCHA, SARVA KARMA SUCHA ME CHITTAM SHREYAH KURU, HUM ! HA HA HA HA HOH ! BHAGAVAN VAJRA HERUKA MA ME MUNCHA, HERUKA BHAVA MAHA SAMAYA SATTVA AH HUM PHAT !

Bây giờ hãy trì tụng thần chú một trăm âm của Heruka Vajrasattva. Có ba kỹ thuật thiền định khác nhau để bạn sử dụng khi bạn trì tụng mật chú đó. Cách thứ nhất gọi là yašn-de. Năng lực kundalini trắng phúc lạc chạy ùa vào kinh mạch trung ương của bạn. Nó lan tỏa khắp hệ thần kinh của bạn, rửa sạch tất cả những điều bất thiện thông qua các khiếu (các lỗ) và lỗ chân lông ở phần dưới của cơ thể. Có nhiều cách quán tưởng về điều bất thiện khi chúng rời cơ thể bạn, bạn có thể chọn cách nào hiệu quả nhất cho tâm thức bạn. Bạn có thể quán tưởng ba tâm độc là ngu si, tham lam, giận ghét đi ra ngoài ở dạng con heo, con gà, con rắn. Hay bạn có thể quán tưởng một cách đơn giản tất cả điều bất thiện ở dạng bạn cho là loại hữu tình tồi tệ nhất như bò cạp, cua, rắn, côn trùng hay đen như hắc ín và dơ như nước hố rác.

Có người cho là lạ lùng nếu từ trong người tuôn ra những côn trùng, loài bò sát, loài có vẩy nhưng trên thực tế có rất nhiều chúng sanh hữu tình đang sống trong người chúng ta. Chúng ta có mối quan hệ cộng sinh với một số hữu tìnhchúng ta không thể tồn tại được nếu không có chúng.

Cơ thể chúng ta cũng là nơi trú ngụ của các loài trùng (giun) trùng ngắn, dài và nhiều thứ nữa. Không phải vì cơ may nhưng chính vì nghiệp mà chúng nó (giun) có mặt ở đó. Chúng ta đang trả món nợ nghiệp cho chúng. Trong quá khứ chúng ta lấy của chúng, bây giờ chúng lấy lại từ ta. Chúng ta đã lấy thực phẩm từ chúng mà không để lại gì cả bởi vậy chúng đã vào bao tử chúng ta và ăn thực phẩm của chúng ta. Ngay cả những người tham lam nhất thế gian, những người vì quá bủn xỉn không chia xẻ cho ai cái gì cả, những người đó cũng bị bắt buộc chia xẻ thức ăn cho các con trùng ở trong ruột. Nghiệp lực rất mạnh, không có cách nào thoát khỏi. Ngay khi bạn cố tránh khỏi những con trùng đó thì chúng cũng cứ trở lại với bạn. Chúng lấy sức khỏe của bạn và đôi khi lấy cả cuộc sống của bạn nữa. Có nhiều cách mà bạn bị chết, đừng nghĩ là cần phải có người dùng dao tấn công thì mới bị chết.

Hãy cảm thấy rằng bạn đã được tịnh hóa hoàn toàn nhất là đối với các điều bất thiện ở dạng thô, dễ biết. Chúng ta thường nói rằng thói quen cũ của ta rất khó sửa, nhưng không phải vậy, ít nhất thì những lý do đó không có cơ sở – chính bởi tâm ta làm cho mọi thứ trở nên khó khăn. Chúng ta luôn cảm thấy niềm hỷ lạc theo tính cách vật chất, như vậy chúng ta bị định hướng vật chất. Chúng ta tin các việc là khó khăn về mặt vật chất vì mọi loại lý do bên ngoài. Khi công việc không suông sẻ chúng ta đổ lỗi cho cha mẹ : “Mẹ tôi đã làm thế, cha tôi đã làm thế. Mẹ tôi thích vậy…” Nhưng không phải cái thân chúng ta mà chính là tâm của chúng ta làm cho cuộc sống khó khăn.

Nếu đích thực vì một mình cái thân bạn gây ra những trục trặc rắc rối thì làm sao bạn có thể ngồi kiết già thật lâu như bạn đã làm được ? Không ai khiến bạn phải ngồi như vậy. Chính tâm bạn cho phép bạn làm như vậy. Khi bạn ngồi kiết già thiền định, bạn cảm thấy thoải mái, tâm bạn càng dễ điều khiển hơn và kinh nghiệm nhỏ này đem đến cho bạn sự thích thú đủ để tiếp tục nữa. Khi bạn làm được như vậy, bạn cảm thấy thoải mái càng lúc càng tăng. Điều này xảy ra không phải vì lý do thuộc vật chất và vì do từ tâm của bạn. Do đó, tiến trình của phương pháp yoga này là để cho năng lực siêu việt phúc lạc rửa sạch cái ngã của bạn và sự tham luyến quá đỗi với thú vui dục lạc, để cho bạn được tịnh hóa hoàn toàn.

Kỹ thuật kế tiếp để sử dụng khi trì chú được gọi là mašn-de. Ở đây năng lực kundalini phúc lạc tràn đầy toàn bộ hệ thần kinh theo chiều bắt đầu từ dưới đi lên đỉnh đầu. Khi năng lực khởi lên, tất cả điều bất thiện trôi nổi trên mặt của năng lực phúc lạccuối cùng thoát ra ngoài thông qua các lỗ ở phần trên của thân. Nó tương tự như cách thức rác rưởi nằm dưới đáy thùng được nổi lên khi bạn đổ nước vào. Khi cam lồ tràn đầy thân bạn, bạn kinh nghiệm đại lạc. Hãy cảm giác rằng bạn đã được tịnh hóa hoàn toàn, nhất là các điều bất thiện vi tế.

Kỹ thuật quán tưởng thứ ba được gọi là phung-de. Ở đây, sự nhấn mạnh nhằm vào ánh sáng chứ không vào năng lực kundalini màu trắng. Ánh sáng rực rỡ phúc lạc vô biên như là một tia sáng rất mạnh phát xuất từ tim của Heruka Vajrasattva, nó bùng lên xuyên qua luân xa giới tính của Heruka và luân xa đỉnh đầu của bạn và đi vào trong kinh mạch trung ương của bạn. Nó có màu trắng nhưng có phẩm chất giống như cầu vồng với các màu đỏ, vàng, xanh lá cây, và xanh dương trong nó nữa. Khoảnh khắc mà ánh sáng rực rỡ này vào trong thân bạn, nó hoàn toàn xua tan bóng tối của tâm bất định đầy nghi ngờ của bạn cũng như si, tham, sân của bạn ; mọi thứ này tan biến vĩnh viễn. Giống như việc mở đèn trong một phòng tối, bóng tối tan biến tức thì và không còn hiện diện nơi nào nữa cả. Bóng tối đâu có chạy ra ngoài cửa sổ phải không ? Đơn giản là nó tan biến mất. Do đó, chẳng còn chỗ trú ngụ cho bóng tối hay điều bất thiện ở bất cứ đâu trong đầu óc bạn, ở cổ, hay các nơi khác trong hệ thần kinh của bạn. Bạn được trong sáng như pha lê. Hãy cảm thấy rằng bạn được tịnh hóa hoàn toàn, nhất là đối với những điều bất thiện vi tế nhất.

Khi bạn đang ẩn cư bạn có thể thực hiện mỗi một kỹ thuật tịnh hóa trong mỗi đoạn thời gian bằng cách chia thời gian trì chú ra làm ba khoảng thời gian ngắn ; hay thực hiện một kỹ thuật cho toàn bộ thời gian, dùng kỹ thuật kế tiếp cho thời gian sắp tới.

Khi bạn không ẩn tu thì việc tu tập cách thiền định này mỗi ngày rất tiện lợi cho bạn ; ở mỗi kỹ thuật tịnh hóa bạn trì chú Heruka Vajrasattva này hai mươi lần. Thời điểm tốt nhất là vào ban đêm ngay trước khi bạn đi ngủ. Trong ngày bạn quá bận rộn đến nỗi bạn rất có thể bị xao lãng khi thiền định. Do đó, coi việc trì chú như là việc làm cuối cùng trong ngày trước khi đi ngủ, bạn sẽ tịnh hóa hoàn toàn tất cả những gì thiếu đạo đức mà bạn đã làm trong ngày, và rồi bạn đi ngủ với cảm giác tự do, giải thoát, thay vì sự buồn bực, bực mình bởi những điều bất thiện của ban ngày. Bởi vì chúng ta không ngừng dính líu đến quá nhiều việc, chúng ta rất cần một phương pháp yoga mạnh mẽ như phương pháp này. Chỉ cần rất ít thời giờ cho việc tịnh hóa.

Sức nặng của dấu ấn nghiệp bất thiện không được tịnh hóa sẽ gia tăng theo cấp số nhân, nhưng nếu chúng ta trì chú Vajrasattva chỉ hai mươi mốt lần vào lúc trước khi đi ngủ mỗi đêm, thì ngay cả nghiệp bất thiện của những lời thệ nguyện Kim Cương thừa đã bị hư hoại trong ngày đó, cũng sẽ không gia tăng. Nếu phương pháp này đủ oai lực, để ngăn không cho gia tăng nghiệp bất thiện do những thệ nguyện căn bản của Kim Cương thừa đã bị hư hoại – chẳng hạn những thệ nguyện cao nhất và những sự vi phạm nghiêm trọng nhất – thì phương pháp này đương nhiên có khả năng ngăn chận sự gia tăng những điều bất thiện của những hành động tự bản chất là không đạo đức như giết người…, cũng như các thệ nguyện bị hư hoại khác nữa. Hơn nữa, nếu chúng ta trì chú này một cách thích hợp và được một trăm nghìn lần, thì bất kể điều bất thiện nào cũng được tịnh hóa hoàn toàn.

Trong khi bạn trì chú, điều rất quan trọng là bạn phải ở trong tập trung nhất tâm không được để cho vọng niệm sanh tử nào xen vào ngăn trở sự thiền định của bạn. Nếu bạn có thể thực hiện sự trì chú với sự tập trung tốt và sự quán chiếu, soi thấu vững chắc thì nó sẽ có hiệu quả vô cùng to tát trong việc nhổ sạch các niệm bất tịnh và sự đen tối của những chướng ngại phiền não. Sự tịnh hóa đó đến từ oai lực của sự thiền định được tập trung của bạn, nhưng mật chú cũng có oai lực riêng của nó. Đôi khi nó cho bạn khả năng thấy biết bằng thần giao cách cảm về những gì xảy ra ở nửa địa cầu bên kia. Khi bạn tịnh hóa được những vướng mắc chướng ngại của các ý niệm cảm tính rất chật hẹp, bạn sẽ khám phá một thế giới mới trọn vẹn.

Mật chú cũng có thể làm cho bạn vui hoặc buồn, nó tùy thuộc những gì mà người kia đang suy nghĩ ! Nhiều sự việc nữa cũng xảy ra – điều đó tùy thuộc hoàn toàn vào từng mỗi người ; khi người ta đi ẩn cư, họ có những kinh nghiệm khác nhau và nhận được những chứng ngộ khác nhau. Thật khó để nói cho biết là ai đã chứng ngộ được gì. Một số trở nên Vajrasattva người Mỹ, một số là Vajrasattva người châu Á, châu Âu, châu Úc…, ai mà biết được !

 





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22988)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22491)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21775)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23356)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21202)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21786)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22253)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23629)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20452)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20065)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21957)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24776)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19016)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 31011)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24010)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27784)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26552)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38170)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18815)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18440)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20004)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19061)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23193)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22944)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18732)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15857)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18876)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19705)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20175)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19967)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18141)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16442)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16942)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39293)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26116)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20125)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18875)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24093)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29164)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22919)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30985)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21031)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26878)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20695)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26278)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23352)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19837)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15847)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19878)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28996)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20710)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19463)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30548)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36466)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33260)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35592)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21006)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21942)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25281)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25819)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant