Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

13. Sự thực hành Vajrasattva và Tantra Yoga Tối Thượng

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9575)
13. Sự thực hành Vajrasattva và Tantra Yoga Tối Thượng

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank
PHẦN 3 
NHỮNG BÀI THUYẾT PHÁP
13 
SỰ THỰC HÀNH VAJRASATTVA VÀ 

TANTRA YOGA TỐI THƯỢNG

Trước khi bạn có thể thực hành giai đoạn hoàn tất của tantra yoga maha-anuttara trong số những pháp môn khác như yoga guru, bạn phải thực hành pháp yoga Vajrasattva.

Ngài Panchen Lama (Ban Thiền Lạt Ma) đã nói rằng để hiểu được thực tại của tâm bạn, bạn phải thực hiện việc tịnh hóa mãnh liệt và làm một số công đức lớn lao. Cả hai đều quan trọng.

Hãy lấy ví dụ về kinh nghiệm riêng của chúng ta. Chúng ta rất nhiệt tình tha thiết và tự đáy lòng mình, chúng ta rất muốn hưởng được sự thiền định sâu xa nhưng bất chấp chúng ta nỗ lực bao nhiêu đi nữa, chúng ta vẫn cứ đương đầu với thứ rác rưởi tâm thức, những sự phân tâm xao lãng, và cái tâm buồn ngủ, hôn trầm. Không kiểm soát, hàng triệu những ý niệm, những suy nghĩ bất thiện và những tâm mê tín dị đoan v.v… phóng nhanh qua tâm bạn. Điều đó có nghĩa rằng một cái gì đó đang hỏng mất. Đó là cái gì ? Sự tịnh hóa. Chúng ta cần tịnh hóa rất nhiều.

Bạn không thể đổ lỗi cho những sự thực hành mà bạn đã làm như là : “ Tôi đã thiền định được hai năm nhưng tôi vẫn không hoàn tất được sự tập trung thiền định nhất tâm. Có đáng để thiền định không ?” Bạn không thể nói như vậy. Mỗi ngày tâm mê tín của bạn đưa bạn đi trên chuyến phiêu diêu thật là không ngờ được. Trong một đêm nó có thể đưa bạn đi khắp thế giới. Mỗi chuyến đi nó để lại những dấu in nghiệp rất sâu đậm trong tâm bạn. Và sẽ mất rất nhiều thời gian để nhổ tận gốc các dấu in đó. Cho nên bạn đừng tự cao nghĩ rằng : “Tôi đâu có làm gì bất thiện. Tôi gần như trong sạch. Tôi chưa bao giờ giết chết ai cả. Tôi không nói dối. Cha mẹ đã chăm sóc lo lắng cho tôi, nên tôi không phải cật lực giành giựt hay lừa dối để kiếm cái ăn cái mặc. Tôi không cần sự tịnh hóa.” Đó đích thực là trò phiêu diêu của cái ngã.

Điều bất tịnh đến từ tâm và thân nữa. Hãy coi lại, kiểm tra lại các chuyến phiêu diêu của tâm bạn từ lúc bạn sanh ra đến giờ. Và thật không thể tin được ! Nếu bạn nhìn vào những kinh nghiệm đó trong ánh sáng của mười hai duyên khởi thì bạn sẽ thấy mình chìm trong đại dương mê lầm. Đó là lý do tại sao chúng ta cần rất nhiều sự tịnh hóa.

Chẳng hạn, rất khó trồng rau diếp loại ngon ở đây, vùng Dharamsala. Đất ở đây toàn là đá, và cỏ mọc rất nhiều. Rõ ràng cần cày sâu cuốc bẩm trên nền đất này. Tương tự như vậy, tâm của chúng ta cần rất nhiều sự tịnh hóa để nhổ tận gốc của mê lầm thô thiển đã ngăn cản tâm thức vi tế nhất của chúng ta làm việc. Đôi khi chúng ta có thể nghĩ rằng chúng ta rất có khả năng làm được một việc nào đó nhưng tận sâu trong tâm một tiếng nói từ tiềm thức liên tục nói rằng : “Tôi không có khả năng, tôi không có khả năng ; Tôi không thạo việc đó. Tôi không bao giờ được giải thoát, không bao giờ được giác ngộ, không bao giờ sẽ là Vajrayogini.” Bên trong, cái loại tiếng nói như vậy tiếp tục phát ra suốt cả thời gian. Trong tiềm thức của bạn, hàng triệu con gà vẫn đang kêu cục tác : “Không thể nào được, không thể được” ; hàng triệu con rắn vẫn đang huýt sáo : “Không thể được, không thể được.” Tiềm thức của bạn bị ô nhiễm sâu đậm bởi hàng tỉ các mê lầm hư dối như vậy đó.

Bạn sẽ ngạc nhiên khi xem sự ô nhiễm này lan tỏa trong tâm như thế nào. Bạn thật sự tin bằng lý trí rằng : “Tôi có thể làm việc đó,” nhưng vì bị che đậy dày đặc quá, nên hàng tỉ tiếng nói “không thể được” của cái tâm con heo-con rắn-con gà (tham sân si) vẫn tiếp tục bảo với bạn là bạn không thể làm được.

Đó là một sự việc có tính tâm lý. Về lý trí bạn có thể chấp nhận một việc – “Tôi muốn trở thành Vajrayogini” – nhưng đồng thời tiếng nói đó vẫn nói : “Không, bạn không muốn.” Luôn có sự chấp nhận và sự từ chối vào cùng một lúc. Bạn không thể hiểu được điều đó. Bạn thật sự bị lẫn lộn : “Tôi muốn hay tôi không muốn ? Tôi muốn hay không muốn một trái táo ?” Bạn không chắc chắn, không biết chắc.

Đó là tâm nhị nguyên. Chúng ta luôn nói về tâm nhị nguyên, nó như vậy đó. Đó là cách mà nó hành động. Tâm nhị nguyên là luôn luôn so sánh hai cái. Bạn muốn đạt tới sự tập trung thật sâu sắc và khám phá sự giải thoát vĩnh cửu, nhưng đồng thời bạn cưỡng lại, bạn từ chối nó. Tâm con người thật buồn cười.

Cho nên thực ra, theo quan niệm thực tế bạn thấy rất cần tịnh hóa bởi vì khi bạn thiền định thì có rất nhiều chướng ngại. Đó là điều hợp lô gích và nó dựa trên kinh nghiệm riêng của bạn. Chắc chắn là bạn cần tịnh hóa. Bạn không thể nói : “Tôi đang thiền định vậy là đủ.” Không bao giờ đủ. Có một sự khác biệt rõ ràng giữa thiền định và tịnh hóa. Như ngài Văn Thù đã bảo Lama Je Tsong Khapa : “Thiền định chưa đủ. Con còn phải tịnh hóa các chướng ngại và tạo nhiều công đức to lớn. Điều rất quan trọng là hai điều này phải được thực hiện cùng một lúc với nhau.”

Giờ đây, bạn có thể thấy tại sao Ngài Văn Thù đã khuyên Lama Je Tsong Khapa như sau : “Đừng chỉ có thiền định suốt thời gian. Cần tịnh hóa nữa.” Ở đây cũng cho thấy rằng ngài Je Tsong Khapa đã rất thích thiền định. Nhiều học giả Tây phương cho rằng ngài Tsong Khapa chỉ là một nhà thông thái, một luận giả của Đạo Phật Tây Tạng chứ không phải là một thiền sư. Nhưng bạn thấy đấy, Ngài Văn Thù đã bảo Lama Khapa “Con đang thiền định quá mức. Nhưng cũng không phải đủ. Con cần phải tịnh hóa và tạo công đức nhiều hơn nữa.” Không nghi ngờ gì nữa, Lama Je Tsong Khapa là một hành giả Du-già (yogi). Bạn không thể tưởng tượng được, ngay lúc khi mới lên mười tuổi, ngài đã là một thiền giả vĩ đại. Và Lama đang thiền định pháp Văn Thù trong khi nhập thất, một hình ảnh của ngài Văn Thù xuất hiện đồng thời trên vách ở hang động. Tôi nghĩ bạn có thể thấy hình ảnh ấy còn ở Tây Tạng.

Sự tịnh hóa rất quan trọng. Đó là cách duy nhất để tránh khỏi hàng tỉ con vật trong tiềm thức đó đã tiếp tục không ngừng nói với bạn : “Không thể được, không thể được.”

Cũng có một dấu hiệu, một triệu chứng tâm lý có hơi khác, như là : “Không thể nào tịnh hóa được, không thể nào cải thiện bản thân bạn, không có khả năng nhổ tận gốc sự bất mãn của bạn, không thể giải phóng sự tham luyến dính mắc của bạn.” Âm điệu này có buồn cười không ? Hãy kiểm tra nó. Ở một mức độ, bạn muốn thực hiện những điều này nhưng khi bạn cố gắng thì có một lời nói từ rất dưới sâu, nói rằng : “Hê, thôi đi. Không thể nào được.” Đó là cái mà chúng ta gọi là Mara (Ma vương), và ông ta có mặt ở đó luôn luôn.

Đó là lý do tại sao chúng ta không có năng lực mạnh mẽ để tịnh hóa chính mình, tại sao chúng ta không thực sự tự tin rằng chúng ta có thể vượt qua nghiệp bám chấp của người phương Tây, chúng ta cũng như những dính mắc như nam châm đối với các lạc thú giác quan. Hãy đi sâu vào trong tiềm thức của bạn và bạn sẽ được thấy những gì tôi đang nói. Về lý trí chúng ta biết chúng tathể đạt được giác ngộ, nhưng dưới sâu, có một chướng ngại vẫn liên tục nói vọng ra : “Không.”

Mấu chốt là thế này : cái tiếng nói bảo với bạn là không thể tịnh hóa nghiệp bất thiện của bạn, chính tiếng nói đó là kết quả từ việc thiếu sự tịnh hóa. Đó là điểm chính. Trong đạo Phật, chúng tôi đề cập rất nhiều đến sự tịnh hóa. Chúng tôi đang nói tới sự tịnh hóa tâm chứ không phải thân, tịnh hóa các thái độ, các trạng thái tâm lý bất thiện, các biểu hiện tâm lý bất thiện. Đó là lý do tại sao phải coi điều tối quan trọng là bạn phải tự tin rằng bạn có thể tịnh hóa bất cứ điều bất thiện nào mà bạn có thể nghĩ tới. Chẳng hạn, Hitler đã hủy diệt hàng triệu con người. Ngay cả sự giết hại rất nhiều người như thế cũng có thể được tịnh hóa hoàn toàn và không để lại một tì vết bất thiện dù nhỏ nhất.

Trong Một bức thư gửi cho người bạn, ngài Long Thọ đã kể một câu chuyện có thật về người em của Đức Bổn Sư, ông ta có sự tham muốn mạnh tới mức không thể tin được, nhiều hơn tất cả những thèm muốn của chúng ta gộp lại. Như vậy mà ông ta cũng đã có thể tịnh hóa và đã trở thành vị A la hán. Còn ông Angulimala, ông ta tu theo một đạo sư tà đạo, ông đạo sư bảo ông ta là khi nào giết chết được một ngàn người thì sẽ đạt tới giác ngộ. Tin vào lời dạy, ông Angulimala đã bắt đầu giết người và khi ông ta giết được 999 người thì đức Phật xuất hiện và bảo cho ông ta biết việc làm đó là sai. Vậy mà ông ta cũng đã có thể tịnh hóa nghiệp bất thiệntrở thành vị A la hán. Cuối cùng có một vị vua tên là Ajatashatru, ông ta sống cùng thời với đức Phật, ông ta đã phạm phải một trong năm tội không thể chuộc lại được, đó là việc bỏ tù người cha đến chết trong tù. Ngay cả việc ác cùng cực này cũng có thể được tịnh hóa và ông đã trở thành A la hán.(19)

Do đó, thông qua những gương điển hình này, bạn nên hiểu rằng bất kỳ nghiệp bất thiện nào mà bạn đã tạo trong cuộc đời, đều được làm bởi tâm bất thiện chấp dính, vô lý, hèn yếu, xúc tình của bạn. Cái hỏa tiễn nguyên tử ở bên trong của trí huệ vĩ đại đầy thần lực, siêu việt, đồng thời sanh của bạn chắc chắn có thể tịnh hóa tất cả ác nghiệp. Bạn phải hoàn toàn tự tin vào điều này, chứ không phải “Có lẽ nó có thể, có lẽ nó không có thể.” Thay vì vậy hãy suy nghĩ : “Chắc chắn một trăm phần trăm, bất kỳ nghiệp nào mà thân, khẩu, ý của tôi tạo ra đều có thể tịnh hóa hoàn toàn.” Cái tâm hiểu biếtcan đảm này là rất, rất hữu dụng. Không có nó, bạn sẽ không bao giờ thành công trong thiền định bởi vì hàng tỉ con vật đó trong tiềm thức bạn sẽ bảo với bạn “Không, không, không, không…”

Nếu bạn trì chú Vajrasattva hai mươi mốt lần mỗi đêm, thì nó sẽ ngưng được sự tăng nhanh theo cấp số mũ các hành vi bất thiện đã tạo ra ngay đó. Nếu không tịnh hóa, năng lực bất thiện của một ngày sẽ nhân đôi lên bởi ngày kế tiếp rồi lại nhân đôi nữa bởi ngày sau đó và tiếp tục như thế. Các giáo lý Kim Cương thừa cũng giải thích rằng nếu bạn trì chú một cách đúng đắn được một trăm nghìn lần bạn có thể tịnh hóa các nghiệp bất thiện, kể cả các thệ nguyện căn bản của Kim Cương thừa đã bị phạm, bị phá bỏ. Không có một hành vi bất thiện nào mà không thể tịnh hóa được với pháp môn này. Nó rất mãnh liệt.

Lại nữa, như tôi đã giải thích ở trên, có nhiều phương diện khác nhau của Vajrasattva : Kriya, charya, yoga và maha-anuttra yoga. Cái maha-anuttra yoga này cũng gồm có Guhyasamaja và Yamantaka, như đức Song Rinpoche nói, thì hai cái này nhấn mạnh vào sự tịnh hóa vật chất, tức là tịnh hóa thân thể trong khi Heruka Vajrasattva tập trung sự quan tâm vào sự tịnh hóa tâm thức nhiều hơn. Đó là lý do tại sao nó là một phương pháp mãnh liệt như thế. Không chỉ đối với người Tây Tạng. Rất có thể một số thực hành thích hợp cho người Tây Tạng nhưng không thích hợp cho người Tây phương nhưng pháp này không thuộc trong số đó. Tôi đã làm một số thí nghiệm nhân chủng học trên một số đệ tử Tây phương của tôi, và đến giờ này tôi cho rằng sự tu tập Vajrasattva của họ là khá thành công. Sau khi ẩn tu xong đầu óc họ đã thay đổi và tôi không ngờ có sự thay đổi lớn như thế. Có nguyên nhân nào đó đã khiến cho việc thực hành Heruka Vajrasattva đã chuyển hóa họ thành ra những người hoàn toàn khác. Tôi vui mừng khi người Tây phương đã thấy được pháp này có ích và thích hợp với họ biết bao.

Việc tu tập Vajrasattva trên thực tếhoàn toàn đơn giản. Trước tiên, như tôi đã lưu ý trước, bạn phải nhận ra được hành vi bất thiện của bạn. Dường như bạn không có hành vi nào nổi cộm hay một cái điều xấu nào để nhận thấy được, nhưng chắc chắn bạn sẽ có nhiều, nhiều điều ở dưới sâu trong tâm thức của bạn. Khi bạn thực hành thiền định Vajrasattva, bạn phải tịnh hóa tất cả những thứ này. Bạn cũng phải có sự tự tin mãnh liệt rằng bạn có khả năng sẽ được tịnh hóa, một lòng tin mãnh liệt rằng sự tịnh hóa sẽ làm được, và bạn phải có một quyết tâm mãnh liệt là không bao giờ lập lại những hành vi bất thiện này nữa. Điều quyết tâm không tái diễn này là một trong bốn lực đối trị mà tôi đã giải thích trong bài giảng chính. Việc sử dụng các lực đó là cách đúng đắn để tịnh hóa.

Tự bản thân việc thiền định thì đơn giản. Tôi sẽ lướt nhanh qua việc này. Cách trên luân xa đỉnh đầu của bạn một khoảng vài ngón tay, có một hoa sen và một mặt trăng làm thành tòa ngồi trên đó là một chày Kim cương trắng với chữ HUM ở trung tâm. Ánh sáng tỏa rực ra mọi hướng tịnh hóa tất cả các hoàn cảnh môi trường và các niệm mê lầm của tất cả chúng hữu tình là mẹ của bạn, rồi thì ánh sáng quay trở lại nhập vào chày Kim cươngchuyển hóa chày Kim cương thành ra sắc thân Heruka Vajrasattva trắng rực rỡ. Lama Je Pabongka mô tả những sắc thái khác nhau của màu trắng đối với những dáng nét khác nhau của thân Vajrasattva. Tự bản thân ngài trong suốt như pha lê, hoa sen trên tim ngài có màu sữa trắng, câu chú viền xung quanh hoa sen có màu bạc. Mọi thứ đều vẫn màu trắng nhưng có hơi phân biệt để giúp bạn quán tưởng.

Ngài có một mặt và hai tay, tay phải cầm chày vajra, tay trái cầm chuông. Ngài ôm Dorje Nyem-ma người phối ngẫu, bà cầm con dao cong bên tay phải, và bên tay trái bưng lấy tách kapala đựng đầy năng lực phúc lạc. Rồi, năng lực kundalini màu trắng phúc lạc tuôn ra từ tim hai vị chảy dọc theo kinh mạch trung ương tới chỗ hai người giao nhau ở luân xa dưới, xuyên qua tòa hoa senmặt trăng, rồi xuyên qua luân xa đỉnh đầu bạn, đi xuống theo kinh mạch trung ương, làm sạch tất cả những hành vi bất thiện trong tiềm thức và trong tâm thứcchúng ta đã nói tới trước đây. Và để làm điều này, chúng ta dùng ba kỹ thuật thiền định khác nhau – mašn-de, yašn-de và phung-de – mà tôi đã mô tả chi tiết rồi.

Hành giả du già vĩ đại, Lama Je Pabongka đã nói trước đây rằng nếu bạn đang thực hành giai đoạn hoàn tất, bạn có thể thực hiện một sự quán tưởng thêm nữa mà nó sẽ giúp bạn được điều đó. Khi năng lực kundalini phúc lạc đổ uà xuống kinh mạch trung ương của bạn, nó kích hoạt bốn loại phúc lạcphúc lạc, đại phúc lạc, phúc lạc phi thường, và đại phúc lạc tối thượng – khi năng lực đó đi qua luân xa đỉnh đầu, luân xa cổ, luân xa tim và luân xa rốn. Bốn mức phúc lạc tương ưng với bốn luân xa đó.

Và, khi bạn nghĩ về điều bất thiện, không phải chỉ những bất thiện vật chất mà còn tịnh hóa những sự yếu kém tâm linh nữa, như là nỗi buồn, nỗi cô đơn, và vân vân. Những lợi lạc khác của năng lực phúc lạc đổ xuống kinh mạch trung ương của bạn là để giúp bạn mở tất cả luân xa của bạn và để phát triển sự thiền định tum-mo và đại lạc. Cho nên giờ đây bạn thấy rằng bạn có thể thực hành thiền định Vajrasattva ở mức độ đơn giản giai đoạn phát sanh hay ở mức độ tiến bộ hơn trong giai đoạn hoàn tất.

Bởi vì việc tu tập Vajrasattva cho phép bạn vượt qua khỏi bất kỳ loại bất thiện nào nên bạn sẽ trở nên can đảm cương quyết và sẽ được giải thoát. Bạn sẽ tự tin rằng bất cứ cái gì cũng có thể được, rằng bạn sẽ chế ngự được bất kỳ khó khăn nào. Khía cạnh này rất là quan trọng. Nó cho bạn nguồn cảm hứng lớn lao. Một tâm yếu hèn sẽ cứ nói : “Không thể được, không thể được. Tôi không thể làm điều đó được. Tôi không quyết định được.” Một vài người thậm chí cũng không thể quyết định là có nên đi vào phòng tắm hay không. Bạn nghĩ thế nào về họ ? Họ cần tu tập Vajrasattva ! Thật đúng như vậy, bạn không ngờ được ! Tôi không hiểu nổi tâm thức của vài người, họ không thể quyết định cái gì cả. Trời ! Khi tôi gặp những người như thế, tôi cảm thấy cuối cùng là tôi cũng đâu có tệ lắm ! 

Sự tịnh hóa rất ích lợi. Nó đem tới cho bạn sự thỏa mãn bao la và tính dễ thích ứng của tâm. Bạn biết bạn có thể làm được một việc gì đấy. Bạn có thể đi vào chỗ nào vào lúc đêm tối, bạn có thể đi ra ngoài nắng, thậm chí bạn có thể đi xuống dưới lòng đất ! Bạn trở nên tự tin vào khả năng của mình có thể làm bất cứ việc gì.

Tôi thực sự hy vọng rằng tất cả những đệ tử của tôi sẽ trì tụng ít nhất là một trăm nghìn lần mật chú Vajrasattva xong trước khi chết. Tôi thực sự tin rằng sau khi ẩn tu Vajra-sattva họ không thể tái sinh vào các cõi địa ngục. Nhất định là không thể ! Họ có thể quyết định : “Sau khi ẩn tu Vajrasattva sẽ không còn cách nào để tôi có thể bị sanh vào cõi khốn khổ bất hạnh nữa. Và tôi chẳng quan tâm đến việc sống chết nữa.” Bạn sẽ có được một sự bảo đảm như thế. Ẩn tu Vajrasattva là một sự bảo hiểm khỏi bị sanh vào các cõi dưới. Chúng ta cần sự bảo hiểm như vậy. Giờ đây tôi đang trở thành một người bán bảo hiểm ! Thật khủng khiếp phải không các bạn ! Dĩ nhiên tôi cần các bạn giúp để làm cho công ty bảo hiểm của tôi thành công !

Cho dù chúng ta là người tín ngưỡng hay vô thần chúng ta cũng cần lòng tin. Tất cả chúng ta đều vô thường. Chúng ta không biết lúc nào chết. Tất cả chúng ta đều có những nhược điểm này. Nhưng nếu bạn có một sự bảo hiểm bất hoại đó thì có ai làm cho bạn âu lo về cái chết được ? Chết là tự nhiên ; lo âu về cái chết là vô ích, lãng phí thời gian. Thay vì lo lắng rằng thân thể mình càng lúc càng không được như xưa, bạn hãy nghĩ đến việc tái sanh với một thân khác, tốt đẹp hơn. Cách nào đấy, tôi đang nói đùa ! Tuy nhiên điều tôi muốn nói là bạn cần một sự tự tin : “Tôi sắp sửa chết, nhưng tôi nhất địnhít nhất tôi cũng không tái sanh vào các cõi thấp.” Cần có một sự bảo đảm như vậy bởi vì với sự tin chắc như vậy sẽ xuất hiện một mức độ tâm linh mà bạn có thể đạt tới và ở mức độ đó bạn không thể tái sanh xuống thấp được.

Đối với những ai không thể trì tụng mật chú Vajrasattva dài như sự thực hành hàng ngày, Đức Song Rinpoche có nói là bạn có thể đọc chú ngắn : OM VAJRASATTVA HUM hai mươi mốt lần trước khi đi ngủ. Mất khoảng hai phút, ai cũng đều làm được.

Giờ đây tôi chắc chắn rằng bạn hiểu một cách thấu đáo rõ ràng là bạn không cần phải giết, phải bắt cóc, phải đánh đập người ta để mới cần sự tịnh hóa Vajrasattva. Có một lý do sâu xa hơn là việc chỉ muốn tịnh hóa những điều mà người bình thường gọi nó là điều bất thiện. Cái gì là bất thiện ? Đa số người ta giải thích bất thiện là làm điều xấu đối với người khác. Người Mỹ luôn nói rằng : “Chúng tôi đã không làm điều tồi tệ, chúng tôi luôn giúp những người khác.” Thật là chuyện tức cười. Họ đang đánh lừa chính họ. Ngay cả khi nếu bạn đã dâng hiến trọn đời bạn để giúp đỡ những người khác thì cái tâm yếu đuối vẫn còn đó. Đó là lý do cần tịnh hóa.

Một điều mà tôi đã quan sát được là : một người đã làm rất nhiều điều xấu cũng có khả năng làm bao nhiêu điều tốt. Đây không phải là một sự kiện hiển nhiên, nó chỉ là điều tôi quan sát thấy được. Có một số người hoàn toàn gần như tê cứng, trơ trơ. Các hành vi tốt lành hoặc bất thiện của họ cũng chẳng có sức mạnh nào, tất cả những hành vi của họ giống như nước lã. Những người kiểu như thế này có khuynh hướng cho rằng : “Tôi đã không làm điều gì xấu. Tôi luôn thận trọng. Nên tôi không cần tịnh hóa.” Đúng là họ có thể đã thận trọng nhưng đó chỉ là từ việc tự xót thương mình và quan tâm đến hạnh phúc no ấm cho riêng mình. Điều đó không có nghĩa là họ không cần sự tịnh hóa.

Lấy Milarepa làm ví dụ. Sau khi cha chết, những người trong làng lấy hết tài sản của mẹ, và bà muốn trả thù mới gửi Ngài đến ông thầy pháp bá đạo để học pháp huyền thuật giết người. Vào một đêm, dân làng tụ họp ở nhà một người, tham dự một bữa tiệc. Với pháp thuật, ngài Milarepa đã khiến cho mái nhà sụp xuống, giết hại họ. Ở đây, bạn có thể thấy được bằng cách nào ngài đã tích tụ được một năng lực bất thiệnsức mạnh ghê gớm. Ngài học pháp thuật trong nhiều năm với một động cơ duy nhấtbất thiện trong tâm là cố giết cho được những người đó, ngài canh chừng và chờ đợi cho đến khi có được cơ hội thích hợp. Nhưng sau đó, ngài đã có khả năng phát sanh năng lực thiện hạnh mãnh liệt hơn nhiều, đã tịnh hóa tất cả điều bất thiện và đạt tới giác ngộ ngay trong một đời. Ngược lại, có những người như là trơ ra, chẳng hề chịu tác động ảnh hưởng cho dù bởi thiện hạnh hay bất thiện, họ hoàn toàn xao lãng với những điều đó.

Tiềm năng con người rất mạnh, khó mà tin được. Bạn có thể làm những thiện hạnh như vậy. Chúa Jesus đã hết sức thần lực không thể tưởng tượng. Có người cho ngài là điên. Còn đức Thích Ca Mâu Ni cũng vậy. Ngài có quyền lựcgiàu có không lường, nhưng Ngài đã từ bỏ tất cả, trốn khỏi chốn luân hồi sanh tử và trở nên giác ngộ. Người ta nghĩ rằng ngài ngu dại : “Nếu ông ta ở lại và làm vua, ông ta đã có thể giúp ích rất nhiều cho những người khác, nhưng ông ta đã bỏ vào rừng để sống như một con thú. Ông ta quả là kỳ cục.” Con người có những quyền lực và tiềm năng lớn lao và có thể tịnh hóa số lượng lớn lao các hành vi bất thiện.

Nếu bạn muốn thực hành giai đoạn hoàn tất của Kim Cương thừa, trước hết bạn phải trì tụng một trăm nghìn mật chú Vajrasattva. Sự tịnh hóa là hết sức quan trọng vì sự giải phóng khỏi tâm nhị nguyên chính là sự giác ngộ. Chúng ta nói về sự chứng đắc giác ngộ, tức Phật tánh. Đó là sự tự do, sự giải thoát khỏi tâm nhị nguyên. Sự tịnh hóa nhổ hết tận gốc rễ tâm nhị nguyên.

Hơn một ngàn năm trước, khi ngài Atisha làm cuộc hành trình dài trên đường núi từ Ấn Độ đến Tây Tạng, ngài đã dừng đoàn lữ hành lại, để thực hành việc tịnh hóa ngay bên lề đường. Bất cứ khi nào Ngài để ý nhận ra một ý tưởng, một khởi niệm bất thiện dù là hết sức nhỏ ngài liền tịnh hóa nó ngay tức thì và tại chỗ. Điều này cho thấy ngài là một vị hành giả yoga vĩ đại, một vị Bồ tát vĩ đại. Điều này cho thấy ngài thấu hiểu về nghiệp. Chúng ta không hiểu nghiệp. Chúng ta chỉ để cho nghiệp tiếp diển. Nhưng ngài hiểu nghiệp bất thiện nhân nhanh lên như thế nào trong tâm thức nên ngài luôn quyết định tịnh hóa ngay tức thì.

tùy thuộc vào mức độ nhạy cảm của bạn. Nếu bạn nhạy bén, bạn sẽ nhận ra được hậu quả của một nghiệp bất thiện dù là nhỏ nhất. Nếu bạn chìm ngập trong biển nghiệp bất thiện, bạn sẽ không cảm thấy được nó. Tấm màn nặng nề dầy đặc của điều bất thiện luôn luôn ở đó.

một lần, một vị đại lama đã rất trong sạch đến độ ông ta luôn thấy được ánh sáng trước mặt. Vào một ngày một gia đình Tây tạng mời ông ta đến làm lễ puja ở tại nhà. Nhưng số tiền mà họ dùng để mua thực phẩm và trà cúng dường ông ta, đã có được nhờ buôn bán kinh Prajnaparamita, Bát nhã ba la mật, kinh này nói về sự hoàn thiện của trí huệ. Như các bạn biết, tiền bán những vật dụng thiêng liêng như kinh sách, tượng phải không được dùng để mua mhững thứ cho nhu cầu tạm thời.

Đêm đó khi vị lama trở về nhà, ông ta nhận ra rằng sự thấy ánh sáng trước mặt ông đã biến mất. Đó là bởi vì ông ta đã ăn thức ăn không “tinh sạch” trong ngày. Nếu bạn nhạy bén và nghiệp của bạn nhẹ, bạn sẽ nhận ra được dễ dàng và nhanh chóng các hậu quả của các hành vi bất thiện và quả của nó sẽ đến sớm. Nghiệp của chúng ta rất nặng bởi vì bất cái gì chúng ta làm, chúng ta không hề nhận ra nó. Bởi vậy việc quán sát nghiệp rất quan trọng.

Khi chúng ta bàn tới việc quan tâm đến những lời thệ nguyệnchúng ta đã hứa – như năm giới, những giới nguyện với tư cách là tăng, ni, những Bồ tát giới – việc quan tâm đó phải được triển khai cùng với nghiệp. Chúng ta không giữ những giới này để trở thành những tù nhân. Do đó, việc tịnh hóa là rất, rất ích lợi.

 






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22987)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22491)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21775)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23356)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21202)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21784)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22250)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23629)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20450)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20064)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21955)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24776)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19016)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 31007)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24010)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27784)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26551)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38168)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18814)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20002)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19060)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23191)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22942)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18732)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15856)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18875)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19705)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20175)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19967)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18141)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16442)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16942)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39292)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26116)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20125)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18874)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24091)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29164)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22918)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30984)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21031)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26877)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20693)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26277)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23352)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19837)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15847)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19877)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28996)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20710)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19462)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30548)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36462)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33258)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35589)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21006)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21941)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25281)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25818)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant