Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

8. Các thời thiền định

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9440)
8. Các thời thiền định

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank
PHẦN 2
NHỮNG GIÁO HUẤN VỀ ẨN TU 


CÁC THỜI THIỀN ĐỊNH

Lịch trình hàng ngày

Nói chung, tốt nhất là nên bắt đầu kỳ nhập thất với đa số các thời thiền định ngắn kéo dài một tiếng đồng hồ. Kinh nghiệm đúc kết như vậy vì nếu thực hiện thời thiền định ngắn, bạn sẽ làm tốt. Nếu trong các thời thiền định mà bạn giữ được tỉnh táo và bạn tập trung tâm được mãnh liệt thì hiển nhiên tốt hơn những thời thiền định trong đó bạn bị mệt mỏibuồn ngủ. Chúng ta đã ngủ say trong không biết bao nhiêu kiếp, bây giờ chính là lúc để thức dậy !

Người ta nói rằng thời gian của những thời thiền định có hình dạng giống như hạt lúa, hẹp ở đầu và cuối, nhưng rộng ở đoạn giữa. Khi kỳ nhập thất đang diễn ra và sự thiền định của bạn có được ở mức độ mạnh thì lúc đó bạn tăng dần khoảng thời gian của mỗi thời thiền định lâu hơn. Đến gần cuối kỳ nhập thất, khi bạn sắp trở về thế giới cũ thường ngày thì bạn rút ngắn thời gian mỗi thời thiền định lại. Nếu bạn không rút ngắn, nếu bạn vẫn duy trì thời thiền định lâu, với mức tập trung mạnh thì có sự nguy hiểm là bạn có thể bị khó chịu hay phát bệnh vì chuyện thế gian thường ngày khi bạn rời nơi ẩn cư về nhà. Rung động sẽ quá khác biệt với những gì bạn đã kinh nghiệm qua nơi ở ẩn cư.

Các thời thiền định ngắn sẽ cho bạn nhiều năng lực. Bạn không cần chấm dứt ngay thiền định khi thời khóa đã hết giờ. Nhưng bạn nên ngưng đi. Vì, nếu bạn chỉ dứt sự tập trung khi nào bạn thấy mệt thì bạn không còn hào hứng với thời thiền định kế tiếp. Lúc đó bạn có thể phát ớn khi thấy cái nệm ngồi. Và như vậy thì không tốt. Hoặc như tôi đã nói trước, đôi khi bạn thấy hỷ lạc và tràn đầy sinh lực đến nỗi bạn chỉ muốn duy trì thiền định cả ngày. Nhưng nếu làm thế, chắc chắn hôm sau bạn có cảm giác ngược lại, bạn không muốn thiền tí nào cả. Việc bạn tăng dần thời gian cho mỗi thời thiền sẽ giúp cho bạn vẫn giữ được sự tỉnh táo khi chấm dứt thời thiền và giữ được sự mong muốn cho thời thiền kết tiếp. Bạn hãy biết cách xử sự với “tâm trẻ con” của bạn một cách khôn ngoan.

Một Lama Tây Tạng đã khuyên nên có mười tám thời thiền mỗi ngày ! Chúng ta có lẽ nên sắp xếp bắt đầu với tám thời thôi. Hãy dậy sớm sao cho khi bạn dứt thời thiền đầu trước khi rạng đông. Uống trà, cà-phê giải lao rồi thực hiện thời thiền thứ hai trước khi ăn sáng. Từ bữa ăn sáng đến bữa ăn trưa, bạn thu xếp hai thời thiền nữa, hai thời thứ ba và thứ tư cách nhau mười lăm phút nghỉ giải lao. Sau khi ăn trưa bạn có thể nghỉ ngơi, làm việc, nghiên cứu giáo pháp lam-rim hay kinh luận về Heruka Varasattva hay các công việc riêng. Rồi bạn thực hiện hai thời thiền cách nhau mười lăm phút, hai thời này trước trà chiều. Sau khi uống trà chiều bạn thực hiện thời thiền thứ bảy, rồi ăn cơm chiều và sau đó thực hiện thời thiền cuối trong ngày. Thời điểm tốt nhất để tổ chức tọa đàm của nhóm là sau cơm trưa đến trước thời thiền thứ năm. Không thể tổ chức tọa đàm sau thời thứ tám hay bỏ thời thứ tám và thế vào giờ tọa đàm. Vì lúc đó là thời điểm không tốt vì sẽ phát sanh những ý tưởng tản mạn. Dĩ nhiên những gì đã nói ở đây chỉ là những hướng dẫn đại thể, chung chung. Khi các thời thiền định kéo dài lâu hơn thì số lần thiền định trong ngày sẽ ít đi.

Vào giữa kỳ nhập thất bạn có thể chỉ có bốn thời mỗi ngày, lần đầu trước rạng đông, lần hai giữa ăn sáng và ăn trưa, lần ba giữa ăn trưa và ăn chiều và lần chót sau ăn chiều. Tuy nhiên bạn đừng vào thiền ngay lúc rạng đông, ngay ban trưa, lúc hoàng hôn và nửa đêm. Vào các thời điểm đó, các sự thay đổi rung động của môi trường bên ngoài sẽ ảnh hưởng hệ thần kinh của bạn, làm bạn dễ bị phân tán tâm. Bạn phải tránh thiền vào những thời điểm đó.

Các tăng Tây Tạng thường dậy lúc hai hay ba giờ sáng khi đang ẩn cư, nhưng ở các nước có thời tiết nóng rất khó thức sớm và bạn cũng không quen lề lối dậy thật sớm. Nếu bạn cố dậy thật sớm, bạn sẽ dễ bị mệt mỏi và điều đó sẽ làm hỏng việc thiền định. Bạn nên giữ gìn sức khỏe tốt và nên ngủ trên giường chứ không phải ở cái nệm ngồi thiền ! Bất kể là công việc gì bạn cũng nên làm tốt công việc đó.

Để kết luận, cách tốt nhất là bạn từng tự hối thúc một cách bất hợp lý. Bạn không thể bắt chước Milarepa – và cũng đừng cố làm như vậy. Hãy thoải mái, thư thả ! Hãy làm sao cho kỳ ẩn tu được thoải máiđáng giá.

Ngay trước khi thiền

Rửa ráy : Trước khi thiền bạn phải đánh răng và lau sạch thân thể. Nếu bạn không thể rửa toàn thân thì ít nhất bạn phải rửa mặt, cổ, tay, nách và bàn chân. Điều này giúp tâm bạn khỏi lề mề và buồn ngủ trong thời thiền. Khi được lau rửa sạch, bạn sẽ tỉnh táo, cảm thấy thuận lợi và có khả năng tập trung thiền định với trí huệ hoàn toàn tỉnh táo.

Vào thiền đúng giờ : Bạn phải vào phòng thiền trước năm phút tối thiểu so với giờ bắt đầu, nhất là khi bạn phải sắp xếp bàn thờ. Đừng có vội vội vàng vàng vào phòng thiền, thở hổn hển và mồ hôi toát ra vì làm không kịp, giờ thiền sắp bắt đầu. Hãy đi vào từ tốn, nhẹ nhàng, sụp lạy ba lạy và dịu dàng ngồi xuống. Tâm bạn tập trung lại và tĩnh lặng. Bạn hãy nghĩ thầm : “Trên tấm nệm ngồi này, tôi sẽ tự tịnh hóa một cách trọn vẹn để nhận được trạng thái giác ngộ của Vajrasattva vì lợi lạc của chúng sanh hữu tình.” Rồi thì, với sự tỉnh táo đó, hãy tịnh hóa hệ thần kinh của bạn với vật cúng dường bên trong đã chú nguyện. Nhúng đầu ngón tay đeo nhẫn của bàn tay trái vào vật cúng bên trong cái tách kalapa của bạn, chạm tách vào đầu lưỡi và cảm thấy nguồn năng lực được ban đang chảy xuyên suốt hệ thần kinh, tẩy sạch hệ thần kinh khỏi các điều bất thiện và bạn đang được trí huệ hỷ lạc tràn ngập trong người.

Đừng làm phiền người khác : Đừng nói chuyện với những người sắp tọa thiền ở trong phòng, hay quấy rầy họ dưới hình thức khác. Nên giữ cho phòng thiền được im lặng trong suốt thời gian nhập thất. Nếu bạn phải làm một việc gì đó trong phòng như lau chùi phòng thiền, sắp xếp bàn thờ, thì hãy làm trong yên lặng đừng làm phiền người khác.

Sắp xếp bàn thờ : Như tôi đã nói trước, hãy thay đổi để dâng cúng lễ vật mới mỗi khi bắt đầu thời thiền. Tôi đề nghị nếu trong một nhóm ẩn tu bạn dâng cúng năm đèn cầy hay đèn bơ cho mỗi thời thiền. Hãy cúng dường với ý nghĩ chân thật, trong sạch, bạn nghĩ rằng : “Con dâng cúng lễ vật này, cầu xin trí huệ siêu việt hỷ lạc vĩnh cửu của ngài Heruka Vajrasattva nảy nở trong con sao cho con có khả năng dẫn dắt tất cả chúng sanh hữu tình để cùng khám phá được sự chứng ngộ này ở trong tâm của họ.”

Bắt đầu thời thiền

Trước thời thiền tôi đã lưu ý là cần giữ yên lặng. Và ngay khi thời thiền bắt đầu, phải tuyệt đối không nói chuyện. Bạn bắt đầu bằng việc quy yphát Bồ đề tâm với những câu kinh trong sadhana nhưng như tôi đã nhấn mạnh trước đây, quy yphát Bồ đề tâm là những trạng thái của tâm siêu việt khỏi lời nói ; phải chắc chắn có được trạng thái tâm bạn nhập làm một với việc quy yphát Bồ đề tâm. Khi câu kinh dứt, bạn đừng thực hiện ngay cách thiền giữ hơi thở, nên giữ một lát ở trong sự thiền định về quy yBồ đề tâm. Nếu bạn kết hợp nhuần nhuyễn giữa cách làm này với tâm của bạn ở ngay khi bắt đầu thời thiền thì năng lực của sự kết hợp đó sẽ hiện diện trong suốt thời thiền, lan tỏa khắp toàn bộ việc tu tập của bạn và như vậy sẽ làm cho việc tu tập có nhiều lợi lạc hơn.

Nói chung về các thời thiền

Tôi đã nhấn mạnh về sự quan trọng của phép thiền tập trung nhất tâm. Phép thiền này rất quan trọng suốt thời gian tụng chú. Sự nhấn mạnh không phải quá đáng đâu. Đã từ lâu rồi, tâm ta bị ngập tràn bởi những sự mê tín, những vọng niệmchúng ta tạo nghiệp theo sự chi phối của chúng. Nên điều quan trọng nhất là, ít ra trong thời gian nhập thất, chúng ta không cho phép các mê lầm đó, các vọng niệm đó nổi lên dù chỉ một giây phút, nếu không chúng ta sẽ không đạt được sự chứng ngộchúng ta tìm kiếm. Do đó, hãy thận trọng để bảo đảm rằng, trong suốt kỳ nhập thất, những vọng niệm ảo tưởng đó không nổi lên trong tâm bạn. Điều này không chỉ quan trọng trong thời thiền mà còn có tính sống còn trong khi tụng chú.

Bạn cũng tránh những sự quấy nhiễu khác đối với các thời thiền như là nói chuyện, ăn uống, đứng lên ngồi xuống, đi vào phòng vệ sinh hay những gì khác nữa. Bạn phải nên đi vào phòng vệ sinh trước khi vào thời thiền.

Ngài Phadampa Sanggye một vị yogi nổi tiếng xưa kia đã nói rằng bạn phải hết sức chú ý đến năm điều nếu bạn muốn đạt được kỳ nhập thất hoàn hảo. Và nếu bạn không chú ý đến năm điều này thì kỳ nhập thất của bạn sẽ gần như vô ích.

Điều đầu tiên là lực của thân. Trong suốt thời thiền bạn phải duy trì liên tục sự quán tưởng về vị bổn tôn (deity). Nếu bạn mất sự quán tưởng đó, nếu bạn để cho các phóng chiếu luân hồi sanh tử của những khởi niệm lầm lạc của bạn nổi lên như : “Tôi như thế này ; tôi đói và khát.” Thì như vậy bạn đã mất đi lực của thân. Điều thứ hai là lực của khẩu. Nếu bạn nói trong khi thời thiền diễn ra, bạn trực tiếp đã làm gián đoạn lực của khẩu. Kế tiếp là lực của tâm. Bạn để mất nó ngay khi sự tập trung nhất tâm bị phá vỡ. Điều thứ tư là lực của tín hiệu. Trong suốt kỳ nhập thất có những tín hiệu xuất hiện trong tâm bạn. Nếu bạn tiếp xúc với những người không ở trong kỳ nhập thất, lực tín hiệu sẽ bị mất. Cuối cùng là lực của năng lực : sẽ có những hậu quả xấu nếu để người ngoài chỗ ẩn tu thấy được tranh tượng hóa thần bổn tôn của bạn hay thấy được cách chú nguyện vào những đồ ăn của bạn. Do đó bạn đừng để họ thấy những sự việc đó.

Chúng ta cũng đề cập tới sự ẩn tu về thân, khẩu, ý. Ẩn tu thân có nghĩa là bạn cắt đứt mối liên kết với những phóng chiếu ảo tưởng về thân bạn. Và, trong suốt kỳ nhập thất bạn cũng không để cho mất đi lực của thân bạn. Ví dụ : khi bạn thiền định về một người nữ đại định bạn không được để xuất tinh.

Ẩn tu khẩu có nghĩa là bạn tránh bất kỳ những trò chuyện như thường lệ vì nó sẽ đưa tới sự kích động xáo trộn trong tâm bạn. Bạn phải duy trì lực của khẩu mà bạn sẽ được giải thích khi chúng ta thảo luận về việc trì chú. Bạn cũng không được phép khạc nhổ.

Ẩn tu tâm ý có nghĩa là bạn cắt đứt mọi sự mê tín – đó là nghiệp của tâm mê lầm. Bạn giữ lực của tâm bằng cách đừng để cho những khởi niệm mê tín, mê lầm, nổi lên trong tâm.

Sadhana

Quyển sách này có kèm theo sadhana Heruka Vajrasattva (Xem phụ lục 1) mà tôi đã biên tập cho việc ẩn tu. Bạn có thể đọc bằng tiếng Anh hay tiếng Tây Tạng. Nếu bạn đọc bằng tiếng Tây Tạng phải đảm bảo việc phiên dịch phải chuẩn xác để bạn có thể hiểu được nghĩa rõ ràng. Bạn có thể đọc bằng tiếng Anh, nhưng bằng cách nào đó, tiếng Tây Tạng có một cảm giác tốt, và một loại năng lực ban phước kết hợp trong đó.(13)

Trì chú

Thần chú Heruka Vajrasattva mãnh liệt vượt bậc. Chỉ đọc một lần cũng đã làm lay động các điều bất thiện của bạn đến tận gốc. Tuy nhiên để có hiệu quả, bạn phải đọc câu chú cho rất rõ ràng : bạn đọc một lần với việc phát âm hoàn hảo thì có hiệu lực hơn trăm lần đọc lí nhí không rõ ràng. Tôi muốn nói âm hoàn hảo có nghĩa mỗi âm phải được phát âm từng âm tiết phân biệt hẳn, một cách trong sáng dứt khoát, rõ ràng, êm tai với một nhịp điệu và cao độ đồng đều nhau. Không được đọc luyến, phát âm sai, không đều với một số cụm âm nhanh rồi một số cụm âm chậm lại, cũng không được cao ở âm này rồi lại thấp ở âm kia. Phải chú ý điều này nữa. Khi bạn trì chú, bạn đọc như thì thầm, đủ để tự bạn nghe được rõ âm phát ra của mình nhưng người ngồi bên cạnh không nghe được. Phải làm sao việc trì chú của bạn không quấy phiền người lân cận.

Nếu bạn trì chú một cách thích hợp – trong sự tập trung nhất tâmquán tưởng rõ ràng thì nó thật sự trở nên siêu việtchuyển hóa thân bạn thành ra thân thiêng liêngphúc lạc lan ra khắp thân, nó cũng chuyển hóa lời nói của bạn thành ra lời nói thiêng liêng phúc lạc. Nếu, ngược lại, tâm bạn bị chiếm cứ bởi năng lực bất thiện thì sẽ không đạt năng lực nhiều trong kỳ nhập thất và mọi sự cũng y như khi ngoài đời. Do đó bạn phải biết, ngoài việc trì chú không rõ ràng, thì các yếu tố nào ngăn cản không cho thần chú không trở nên siêu việt.

Bạn đừng nên đọc chú quá lớn tiếng, hay đọc quá nhỏ, quá nhanh, hay quá chậm. Bạn phải ở trong trạng thái tỉnh táo, và phải đảm bảo rằng tổng số những câu chú bạn tính đã được đọc đúng cách, và còn có một số hình phạt bạn phải chịu khi có một số lỗi lầm làm gián đoạn thời thiền. Do đó nếu bạn rời khỏi phòng thiền, hay dù chỉ đứng lên khỏi nệm ngồi hay nói chuyện khác giữa thời, thì bạn không thể tính câu chú nào (bạn đã trì tụng) của thời thiền đó. Lý tưởng nhất là một khi thời thiền bắt đầu bạn không thể di chuyển chân của bạn tí nào cả. Nếu bạn chợt ngủ gục, đánh rơi xâu chuỗi, mất tập trung, bực mình, hay biết mình tụng sai câu chú, thì bạn không thể tính bất kỳ câu chú nào bạn đã tụng trong cái vòng (chu kỳ) xâu chuỗi đó. Bạn phải quay trở lại hạt chuỗi đầu tiên và tụng lại. Mất tập trung là một trong những lỗi tồi tệ nhất. Bất chợt bạn nhận ra rằng tâm bạn đã đi lang thang về nhà, vào siêu thị, gặp bạn bè… Bạn phải không được cho phép loại sự việc này xảy ra.

Nếu bạn bị ngắt hơi thì bị phạt bảy chú : bạn phải quay trở lại bảy hạt chuỗi và bắt đầu đọc tiếp từ đó. Tương tự, cũng sẽ bị phạt năm chú nếu bạn ho, hắt hơi, khạc cổ cho thông cổ, khịt mũi, nấc cục, ợ… trong khi tụng chú. Mật chú ban phước cho lời và hơi thở cho bạn và bạn không nên lãng phí năng lực quý báu này. Điều này có nghĩa rằng bạn không nên lãng phí hơi sức của bạn như thổi tắt đèn cầy đèn bơ, thổi lửa, huýt gió… trong thời gian ẩn tu.

Có hai cách quyết định thời gian ẩn tu : bằng thời gian hay bằng số câu chú. Thời gian ẩn tu theo Vajrasattva thường là ba tháng hay số thời gian để bạn trì một trăm nghìn câu chú. Trên thực tế bạn phải cộng thêm mười phần trăm số câu chú bạn đã tự hứa tụng trong kỳ nhập thất để bù cho những câu bạn tụng sai. Do đó một thời ẩn tu thường thì bạn tụng một trăm mười ngàn câu chú.(14) Như vậy thường cần thời gian ba tháng.

Một vấn đề thường xảy ra khi bạn tự cam kết tụng một số lượng nhất định các câu chú là bạn vì bị ám ảnh bởi con số và chính số lượng này đã làm bạn không an tâm khi ẩn tu. Tốt hơn thà cam kết đọc ít mà trì một cách nghiêm túc còn hơn trì tụng nhiều nhưng cẩu thả, đọc cho đủ số. Và bạn tính vào tổng số chú chỉ những câu chú trọn xâu chuỗi và những câu chú được đọc trong thời thiền chứ không tính đến những câu chú đọc ở ngoài thời thiền.

Tôi nhớ một lần ở trong một nhóm ẩn tu có đến một trăm tăng trong trại tỵ nạn của chúng tôi ở Tây Bengal. Chúng tôi cam kết sẽ trì đọc một số lượng câu chú nhất định và đến khi nào từng mỗi tăng hoàn tất đủ số lượng câu chú đó thì khóa nhập thất mới xong. Có một vị tăng đã gặp khó khăn rất nhiều trong khi phát âm câu chú nên khi chúng tôi hoàn tất đủ số lượng, ông vẫn còn số lượng lớn các câu chưa đọc. Ông bối rối quá, ông không muốn ai thấy mình nên ông ngồi đọc chú mà lấy áo tràng che mặt lại. Chúng tôi đã phải ở lại đó thêm năm ngày để chờ ông đọc xong. Tôi cho rằng ông không nên phản ứng như vậy. Đích thị việc tính số lượng câu chú không phải là trọng tâm. Bạn có thể thực hiện một loại thiền khác cũng được. Điều quan trọng là bạn tận dụng hoàn cảnh ẩn tu để làm những gì thích hợp với các mong cầu của bạn.(15)

Hoàn tất thời thiền

Ở cuối thời sadhana, ngay trước khi hồi hướng, Heruka Vajrasattva tan vào trong bạn và bạn trở nên là một với ngài. Vào lúc này, bạn nên thực hiện một sự thiền định ngắn – có tính cách lướt qua – về con đường thứ bậc (lam-rim) như là các giáo pháp của Lama Tsong Khapa : Ba nguyên tắc của con đường, Ý nghĩa súc tích của các giai đoạn của con đường, hay là Nền tảng của mọi Tuyệt diệu, các bạn tìm thấy những bài giảng này trong sách của Geshe Wangyel có tên là Cánh cửa giải thoát. Ở trong nhóm ẩn tu người trưởng nhóm đọc lên bài thiền định và từng mỗi người thiền định về nó. Sau đó bạn hồi hướng công đức. Sự hồi hướng ở mỗi thời thiền sau cùng ở mỗi ngày phải mãnh liệt một cách đặc biệt. Rồi thì hãy ngồi lại trên tấm đệm ngồi khoảng ít phút thêm nữa, hãy nhất tâm, nghĩ đến sự hợp nhất của bạn với thân, khẩu, ý thiêng liêng của Heruka Vajrasattva và đừng để một ý niệm vọng tưởng nhị nguyên nào nổi lên trong tâm.

 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22988)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22496)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21775)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23357)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21202)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21787)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22254)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23631)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20459)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20066)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21958)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24776)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19017)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 31011)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24011)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27785)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26553)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38177)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18816)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18440)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20004)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19061)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23197)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22944)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18732)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15857)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18878)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19706)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20177)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19968)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18141)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16442)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16942)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39294)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26117)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20127)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18878)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24094)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29164)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22923)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30986)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21038)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26880)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20695)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26278)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23353)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19837)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15847)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19878)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28997)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20712)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19463)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30549)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36470)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33263)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35595)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21007)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21943)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25281)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25819)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant