Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

9. Thêm một số khuyến cáo về sự ẩn tu

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 8879)
9. Thêm một số khuyến cáo về sự ẩn tu

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank
PHẦN 2
NHỮNG GIÁO HUẤN VỀ ẨN TU 

THÊM MỘT SỐ KHUYẾN CÁO 

VỀ SỰ ẨN TU

Giữa các thời thiền

Đối với những hành giả ẩn tu nghiêm túc, thời gian giải lao ngắn giữa các thời thiền đích thực cũng quan trọng như thời gian trong thiền. Thực ra thời gian nghỉ giải lao phải nên coi là một thời thiền. Bạn đặt rất nhiều nỗ lực trong việc tạo nên một hoàn cảnh xung quanh tốt đẹp trong phòng thiền và bạn phát triển tâm thức trong suốt thời thiền ; bạn hãy bảo đảm rằng vào thời gian nghỉ giữa hai thời thiền, bạn không phá hủy mọi điều mà bạn đã có được. Trong khi thiền bạn đã có sự tập trung tâm rất tốt và bạn cảm thấy hỷ lạc, nhưng khi bạn đứng dậy ra ngoài bạn trở nên không tỉnh táotrở lại kiểu tâm mê muội như lúc thường, giống như có người đi bộ dọc theo bãi biển có cát, ông ta cố gắng khỏa bằng dấu chân trong khi đi, trong khi đó lại đồng thời tạo ra những dấu chân khác trong suốt đường đi. Bởi thế, anh đừng cảm thấy thời gian thiền là thiên đường còn thời gian nghỉ là địa ngục.

Trong suốt thời thiền, trong khi bạn chú tâm rất tốt vào vị bổn tôn nên những ý nghĩ thuộc thế gian không thể xâm nhập được, do đó trong thời gian thiền định tâm của bạn giải thoát được những vọng niệm thế tục đó. Nên bạn phải duy trì sự tỉnh thức tập trung đó sau khi thiền. Bằng cách này bạn có thể loại bỏ toàn bộ tâm luân hồi sanh tử của bạn. Cái thói quen cũ vẫn ở đó chờ cơ hội để nổi lên, nên bạn phải chú ý đừng có nhượng bộ chúng.

Thời giải lao nên kéo dài ít nhất mười lăm phút sao cho bạn có cơ hội cử động thể dục, đi bộ, duỗi chân, thư giãn cái lưng. Tuy nhiên đừng có thư giãn sự tỉnh giác êm dịu, cố giữ cho tâm của bạn ổn định và bằng phẳng ở mức độ mà bạn đạt được trong thời thiền. Việc duy trì như vậy tương đối dễ trong lúc giải lao ngắn nhưng sẽ rất khó trong những lúc nghỉ giải lao dài – như thời gian ăn cơm trưa và ban đêm. Cho nên bạn phải lợi dụng cơ hội các lúc nghỉ ngắn để thực hành loại “thiền định lúc nghỉ giải lao” này.

Như tôi đã nói ở trước, vào cuối thời thiền, Heruka Vajrasattva tan biến vào trong bạn, bạn trở nên là “một” với ngài, và trước khi bạn đứng lên, rời phòng, bạn nên ngồi lại một chốc lát để thiền định về sự hợp nhất phúc lạc này, thân khẩu ý của bạn làm thành một với thân khẩu ý thiêng liêng của Heruka Vajrasattva. Bạn phải nên có hình tướng rõ ràng của bản thân bạn như vị bổn tôn và sự kiêu hãnh thiêng liêng được là chính Vajrasattva. Điều này là sự tập trung mà bạn phải duy trì giữa hai thời thiền. Bạn đừng bao giờ nghĩ rằng : “Tôi như vậy như vậy, như thế như thế, chỗ này chỗ nọ” như cái “tôi” của bạn thường có thói quen phóng chiếu. Ngay khi bạn bắt đầu nghĩ như vậy thì các chuyện rắc rối bắt đầu. Nếu bạn không thể duy trì ý nghĩ : “Tôi là Heruka Vajrasattva” thì ít nhất bạn cũng nên nghĩ rằng : “Tôi phải đạt được trạng thái thiêng liêng của Heruka Vajrasattva càng nhanh càng tốt chỉ vì một mục đích duy nhấtgiác ngộ tất cả chúng sanh hữu tình.”

Suốt kỳ nhập thất bạn nên cảm thấy rất may mắn có cơ hội tu tập phương pháp yoga Kim Cương thừa tối thượng này và biến sáu ba la mật siêu việt (lục độ) thành hiện thực vì lợi ích của tất cả chúng sanh. Hãy hoan hỷ nhận thức rằng đây là lần đầu tiên trong đời, bạn đang làm một việc có ý nghĩa thực sự. Nếu bạn phân tích một cách chân thật cuộc đời bạn, bạn sẽ thấy rằng đa số thời gian của cuộc sống đã trôi qua trong nỗ lực thỏa mãn tâm tham lam, giả dối của bạn với các đối tượng huyễn hóa của các giác quan. Các vọng tưởng nhị nguyên của bạn chưa bao giờ để yên cho bạn được một thời khắc không gian nhỏ để bạn tu tập trí huệ.

Từ lúc thức dậy buổi sáng, ham muốn thưởng thức một ly cà phê, hay nhiều thứ khác để thỏa mãn các khẩu vị cảm giác, cho đến khi đi ngủ, cũng ham muốn dục lạc mê muội, như vậy trong suốt một ngày đêm bạn đã làm toàn là những việc mà động cơ chính là sự tham lam bám víu mê muội. Thiếu tỉnh giác, bạn thọ hưởng vài thứ dục lạc nhỏ nhoi mà bạn tìm được rồi bạn tin rằng những đối tượng huyễn hóa của tâm nhị nguyên của bạn cũng như những phóng chiếu của các thức hư dối của bạn là chính thực tại. Không có lấy một giây phút nào bạn để cho trí huệ của bạn làm việc. Đó, như vậy đó, cuộc đời bạn trôi lăn cho đến khi chấm dứt trong khốn khổ.

Giờ đây, bạn có cơ hội may mắn để làm được một điều gì cho tất cả cuộc đời này, đó chính là mệnh lệnh rằng bạn không được lãng phí một giây phút nào nữa. Do đó, bạn phải duy trì sự tỉnh thức suốt trong ngày đêm, chứ không chỉ trong thời thiền mà thôi. Nếu bạn cho rằng thời gian trong thời thiền là Pháp và thời gian bạn ăn uống là lúc bạn đang ở trong vòng sanh tử, vậy là bạn hiểu sai. Điều làm cho pháp yoga Kim Cương thừa rất mãnh liệt chính là điều nó làm cho hành giả không có lấy thời gian ở trong luân hồi sanh tử. Không có cách nào để một hành giả Kim Cương thừa thực hành đúng pháp mà có thể nói, lúc này “Tôi đang tu tập Pháp,” lúc khác lại nói “Ô ! hành động của tôi thuộc về luân hồi sanh tử.” Kim Cương thừa có đủ mọi phương pháp cần thiết để chuyển đổi bất kỳ một nghiệp nhỏ nhoi nào cũng thành ra trí huệ Pháp.

Nếu bạn tin rằng thiền định là Pháp còn ăn, uống, đi mua sắm… là việc luân hồi sanh tử, thì như vậy bạn sẽ không bao giờ đạt tới giải thoát. Vì số thời gian bạn dành cho thiền định – điều mà bạn tin là Pháp – con đường đi tới giải thoát – sẽ quá ít ỏi nếu so với số thời gian còn lại trong ngày. Nhưng nếu bạn thiện xảo trong việc áp dụng trí huệphương tiện thì mọi điều bạn làm, kể cả những việc mà bạn cho là trần tục cũng có thể trở thành con đường đưa tới giác ngộ. Do đó, toàn bộ cuộc sống của bạn trở thành yoga Kim Cương thừa và sẽ không có chỗ cho sanh tử. Và một khi bạn chấm dứt được tâm sanh tử khỏi tác động thì làm sao bạn không thể nhanh chóng đạt được sự giải thoát hoàn toàn ?

Trong thừa Ba la mật đa, ước muốn được coi là xấu. Giới Vinaya quy định : “Bạn không được làm việc này, bạn không được chạm đến cái kia.” Đôi khi bạn cảm thấy rằng bạn không thể có được ngay cả một giọt nước. Các phương pháp mãnh liệt của yoga Kim Cương thừa lấy sự tham muốn làm một trong những nguồn lực để đạt tới giác ngộ nhanh chóng. Bạn chuyển hóa bất kỳ dục lạc nào bạn có thành ra các thể nghiệm của trí huệ phúc lạc của bổn tôn. Bạn không nên cảm thấy tội lỗi vì bạn đang hưởng thụ những thứ bạn có hay bởi vì những người khác không có. Điều đó chẳng giúp được ai.

Hãy hưởng thọ những gì bạn làm với niềm hỷ lạc. Khi bạn ăn hay uống, hãy chú nguyện thức ăn, thức uống bằng câu thần chú OM AH HUM, bằng cách đó, bạn chuyển hóa thức ăn đồ uống thành ra bản tánh của thân, khẩu, ý thiêng liêng của Heruka Vajrasattva và dâng nó đến bản thân bạn đã được đồng hóa như là bổn tôn. Hãy cảm thấy năng lực phúc lạc của những chất đã được chú nguyện lan tỏa toàn bộ hệ thần kinh của bạn. Nếu bạn làm điều này với trí huệ, nó có thể nhanh chóng giúp đem đến cho bạn những chứng ngộ về phúc lạc siêu việt. Nhưng nếu bạn ăn, uống chỉ với ham muốnthể hiện kinh nghiệm trong kiểu cách thông thường thì bạn chỉ có được một kinh nghiệm rất trói buộc, rất sanh tử. Tất cả việc đó đều tùy thuộc vào tâm của bạn. Khi bạn đi ngủ, bạn đừng để cho phóng chiếu về chính bạn của cái “tôi” nổi lên, nhưng hãy ngủ với cảm giác hợp nhất rất hỷ lạc với Heruka Vajrasattva. Khi bạn rửa mặt, hãy tự quán tưởng mình như là Vajrasattva và nghĩ rằng : “Thân thiêng liêng của Heruka Vajrasattva hoàn toàn không có một chút nhiễm ô nào cả, nhưng tôi đang rửa để tịnh hóa tâm nhị nguyên của tôi.”

Cái nhìn thường ngày về bản thân mình của bạn được phóng chiếu bởi cái “tôi” của bạn. Thay vì vậy, giữa các thời thiền bạn phải tự nhận ra mình như là sự biểu lộ của Heruka Vajrasattva – trí huệ siêu việt phúc lạc. Như thế, bất cứ cái gì bạn thấy biết đều là cái thấy của tâm bất nhị này và ở trong bản tánh bất nhị. Trong cảnh giới bất nhị này, toàn bộ thế giới diễn qua. Bạn cảm thấy rằng nó giống như một màn trình diễn trên ti vi. Thế giới không còn có vẻ bề ngoài cụ thể như thường lệ và do đó không thể quấy phiền bạn nữa. Nó giống như một cơn mơ, một ảo ảnh. Do vậy, bạn nên khẳng định bất cứ cái gì xuất hiện trước các giác quan của bạn cũng đều không có thực, ngược với điều mà trước đây bạn luôn tin tưởng. Bất cứ khi nào bạn thấy những thứ gì khác bạn nên coi chúng không phải ở trong hình thức thông thường mà là sắc thân Heruka Vajrasattva và bạn cư xử chúng với sự kính trọng tối đa.

Sự ẩn tu nói chung

Bạn rất có thể đã nghĩ rằng việc ẩn tu quá dễ. Ngay giờ đây, tôi chắc chắn rằng bạn có thể thấy nếu thực hiện một cách thỏa đáng thì việc ẩn tu không dễ. Tuy nhiên, việc ẩn tu xứng đáng được thực hiện một cách nghiêm túc. Bạn càng tu tập nghiêm túc thì càng có kết quả tốt hơn. Việc ẩn tu là cách duy nhất để chuyển hóa thực sự tâm của bạn, bởi vì trong khi ẩn tu bạn đang đưa các lời giảng vào hành động chứ không phải thuần túy thu thập thêm thông tin. Các giải pháp để giải quyết các vấn đề của bạn sẽ xuất hiện cùng với sự chuyển hóa này. Tự bản thân bạn thực hiện thiền định theo pháp Heruka Vajrasattva thay vì như kiểu bạn ở đây, nhìn sadhana in trên sách ở kia kìa. Khi có cái kiểu tách biệt này, thì có nguy cơ tâm bạn sẽ khởi niệm rằng : “Ngươi là người Tây phương, còn đây là Tây Tạng… tại sao ngươi đang làm điều này ?” Tất cả những loại nghi ngờ sẽ khởi lên. Nhưng khi bạn ẩn tu và đạt được kết quả thì sẽ không có sự nghi ngờ nào cả.

Do đó bạn nên thực hiện sự ẩn tu của bạn càng nghiêm túc tới mức tối đa có thể được và giữ tâm bạn một cách liên tục trong cảnh giới của tiến trình siêu việt. Ngồi trong hang động mà tâm lại lang thang về nhà thì không thể gọi là ẩn tu. Thân, khẩu, ý của bạn phải nên tập trung vào cùng một sự việc. Trong đời thường đa số thời gian tâm bạn bị phân tán bị kích động, và bạn không thể ở trong trạng thái tỉnh giác cao khi đang làm những việc trần tục. Khi ẩn tu bạn phải học cách làm sao hợp nhất hai điều đó lại – trần tụcsiêu phàm.

Tâm của chúng ta có phần nào điên khùng và “nổi loạn,” bởi thế chúng ta cần cư xử tâm ta một cách kiên định. Nhưng sự rèn luyện kiên quyết của đợt ẩn tu thì hoàn toàn khác biệt với cách kiểm soát bề ngoài thường ép buộc cho những người ở phương Tây bị xáo trộn về tâm thần. Bạn không thể đem lại một sự thay đổi tận cơ bản ở trong tâm thần con người thông qua việc tổ chức thể chế hóa hay dùng điện tạo cú sốc, hay chữa bằng thuốc hay bằng sự truyền bá giáo dục. Thay vì vậy, nó phải được làm một cách tự nguyện, chân thật, và thiện xảo. Đôi khi các hành giả tu ẩn đã không được khéo léo. Họ tưởng tượng rằng họ là những thiền giả tu khổ hạnh, vĩ đại, và họ muốn trở nên nổi tiếng như vậy đấy. Họ thay đổi vẻ bề ngoài của họ và tự thúc ép mình cho đến khi hệ thần kinh của họ bị nổ tung. Bạn không thể thay đổi tâm bạn bằng cách chỉ đơn giản thay đổi màu áo, đem nhuộm áo quần đi. Hãy tự rèn luyện mình một cách khôn ngoan.

Do đó nếu bạn muốn sự ẩn tu được thành công bạn nên có một thái độ đúng đắn về sự ẩn tu. Bạn đừng nên cảm thấy nó như thể là một loại bị phạt ở tù trong đó bạn bị khóa nhốt lại trong một thời gian nào đó, không thể đi xem xi nê, thăm bạn bè, trò chuyện tự do… Ngược lại, bạn nên cảm thấy như được tận hưởng, được may mắn rằng cuối cùng bạn có được cơ hội làm điều lợi lạc cao quý cho bản thân và cho người khác, một cơ hội hiếm có mà trước đây bạn chưa từng có được và có thể trong tương lai sẽ không còn có được lại nữa. Nhưng bạn cũng đừng mong những chuyện như : “Ồ ! Thật không thể tin được ! Ngài Heruka Vajrasattva sắp sửa xuất hiện trước mặt tôi và nói : ‘Con trai của ta ơi… !’” Mong ước này không thực tế và sẽ trở thành một trở ngại cho việc thiền định của bạn. Bạn nên thư giãn, nhưng phải có một quyết tâm mãnh liệt rằng : “Trên tấm nệm ngồi này tôi sắp sửa hiện thực hóa pháp yoga của Heruka Vajrasattva. Tôi sẽ không ngưng việc ẩn tu này cho đến khi nào tôi nhận được tín hiệu thành công.”

Để cho mình cơ hội tốt nhất đạt kết quả, bạn phải giảm bớt các sự phân tán tâm đến mức nhỏ nhất. Bạn phải tạo ra một hoàn cảnh xung quanh sao cho thích nghi được các điều bạn bạn cần. Khi làm các công việc làm ăn bạn thiết lập văn phòng theo một phương pháp nhất định nào đấy. Giờ đây công việc của bạn là ẩn tu và bạn phải hành động tương ứng. Phòng thiền phải nên tiện lợi, sạch sẽ, ngăn nắp. Tương tự, cái phòng bạn ngủ phải không nên treo những bức tranh hay đặt những đồ đạc có thể kích động những điều hư dối xấu xa của bạn. Bạn nên tránh gặp, nói chuyện với những người bên ngoài càng ít càng tốt. Những tin tức họ mang đến và những rung động của họ chỉ quấy nhiễu sự tập trung của bạn mà thôi. Tốt nhất đừng nói chuyện dù đó là người cùng ẩn tu với bạn cho tới khi ăn trưa – và trong bữa ăn nếu có nói chỉ nên nói về Pháp, chứ chẳng nên nói về kinh nghiệm quá khứ, kế hoạch trong tương lai hay những chuyện tầm phào. Nếu bạn cảm thấy quá căng thẳng và cần nói chuyện để thư giãn – như loại chữa bệnh – như vậy có lẽ cũng có thể chấp nhận được ; nhưng bạn phải nên cẩn thận đừng lãng phí năng lực của bạn và của người khác.

Bạn đừng nên viết thư hay nhận thư. Ngay cả khi bất ngờ người bạn tốt nhất không dự trù trước, tự nhiên xuất hiện thì bạn cũng đừng nên gặp họ ; hãy nhớ rằng trước khi bắt đầu ẩn tu bạn phải quyết định trước là bạn sẽ gặp ai và sẽ không gặp ai, cố giữ ít liên lạc với những người bên ngoài đến mức tối thiểu. Nếu có điều gì khẩn cấp hay quan trọng cần nói thì bạn có thể viết một miếng giấy nhỏ gửi ra. Nếu có quà đẹp đến bạn không nên nhận nó cho tới khi đợt ẩn tu chấm dứt. Bạn phải hết sức cẩn thận đối với những kinh sách đọc trong thời gian ẩn tu, và tránh không đọc toàn bộ các ấn phẩm đời thường như báo chí, tạp chí, tiểu thuyết, sách kỹ thuật, thơ ca, thiên văn…

Ngay cả kinh sách Phật Pháp cũng nên tránh dùng trong thời ẩn tu. Những kinh sách thuộc về thuyết, luận thì quá khô khan và thuần lý trí và có lẽ làm cho bạn thêm nhầm lẫn, mê tín thay vì giúp bạn thêm sức trong việc tu tập tâm linh như mục đích cuộc ẩn tu đang nhắm tới. Nhưng bạn có thể đọc những sách thuộc về “Con đường có thứ bậc đưa tới giải thoát – lam-rim”, hay những sách luận về phép yoga ; tuy nhiên dù là những thứ sách này thì cũng không nên đọc nhiều. Hãy chỉ đọc những sách giúp đỡ cho bạn. Cũng sẽ có lợi cho bạn nếu trong giờ nghỉ bạn thực hiện “sự thiền định lướt qua” về “lam-rim” bởi vì điều đó sẽ dẫn dắt năng lực của bạn vào đúng đường. Đôi khi trong khi ẩn tu tâm bạn có thể xoay hướng về những cực đoan thì “Con đường có thứ bậc – lam-rim” sẽ mang tâm bạn trở lại trọng tâm.

Có nhiều quy định ràng buộc khác nữa đã thấy là có ích cho bạn trong việc bảo tồn năng lực của việc ẩn tu. Bạn đừng mang cái gì ở ngoài vào phòng ẩn tu hay mang ra khỏi phòng, đặc biệt là xâu chuỗi và các dụng cụ thực hiện nghi lễ như chuông, chày, và người ngoài cũng như súc vật thì không nên vào phòng ẩn tu. Bạn đừng cho ai được ngủ trên giường bạn hay ngồi trên cái nệm lót ngồi của bạn. Bạn cũng không được đem giặt, phơi cái nệm lót ngồi đó, bạn chỉ việc phủi bụi nó thôi. Bạn không được chạm tay vào vũ khí như súng, bom, cũng không được đưa vào miệng các thứ như con dao, mũi tên… Bạn không nên dùng các vật dụng để ăn như dao, thìa, muỗng, chén dĩa của người khác, cũng không để ai dùng đồ vật đó của mình. Và nếu bạn đánh nhau với người khác trong nhóm ẩn tu sẽ là điều tệ hại nhất ; vì như vậy có nghĩa là bạn thực sự phá vỡ cuộc ẩn tu.

Cũng có nhiều việc bạn có thể làm trong khi ẩn tu. Nếu đang tu theo nhóm thì “Karma yoga” là tốt. Mỗi người đều có công việc nhỏ để làm để giúp trung tâm Pháp hay phục vụ các người trong nhóm. Tuy nhiên, tất cả những việc phân công này phải được hoạch định trước khi khởi sự ẩn tu, và sổ phân công này phải phổ biến rõ cho mọi người biết để khỏi có sự bàn bạc quá nhiều trước khi ẩn tu. Ai là người sẽ lo sắp xếp dọn sạch bàn thờ, quét sạch phòng thiền trước mỗi thời thiền. Cũng cần giúp đỡ trong công việc bếp núc và phục vụ thức ăn. Có vài người thích chăm sóc vườn. Những người khác có thể dịch băng nghe hay sách giáo pháp. Những việc làm này cũng tốt để giúp bạn thăng bằng đầu óc, nhưng trong khi làm, bạn phải duy trì sự quan tâm chú ý đến những gì tôi đã mô tả ra rồi.

Trong thời gian không thiền bạn có thể làm những việc khác : công việc thường hàng ngày, hay lạy… Bạn cũng có thể trì chú Vajrasattva nhưng hãy nhớ là không được tính vào tổng số câu chú trong đợt nhập thất.

Một trong những điều quan trọng nhất bạn có thể làm để bảo đảm sự thành công cho việc ẩn tu là giữ cho sức khỏe tốt. Vài người coi việc ẩn tu ngang với những gì họ tưởng tượng về sự khổ hạnh như là điều kiện sống không được thuận lợi, môi trường không thích hợp cho sức khỏe, thức ăn tồi tệ, luôn bị đói và khát, không ngủ, ăn mặc rách rưới… Điều này hoàn toàn sai. Trước hết, đây không phải tu khổ hạnh. Thứ hai, như tôi đã nói trước, yoga Kim Cương thừa có những phương pháp chuyển hóa tất cả những thứ tiện nghi, những dục lạc của bạn thành ra con đường nhanh chóng đưa đến giác ngộ. Bởi thế bao lâu mà bạn biết sử dụng nó một cách khôn ngoan thì bạn có thể có những gì bạn thích. Bạn nên ở trong một nơi vệ sinh, sạch sẽ, có một phòng đẹp, sáng sủa, một cái nệm lót ngồi hay cái ghế tiện nghi, một nơi tốt để ngủ và nhiều thức ăn tốt.

Hãy đối xử bản thân mình với sự trân trọng – vì rốt lại bạn là Heruka Vajrasattva ! Hãy cung cấp cho mình quần áo thích hợpthức ăn bổ. Điều này không có nghĩa là bạn phải ăn cho nhiều. Nếu bạn ăn quá nhiều bạn sẽ không khả năng thiền định được. Thức ăn bạn dùng phải nên sạch sẽ, có lợi cho sức khỏe. Bạn đừng dùng thức ăn chung với các người đang bị bệnh lây nhiễm, như lao phổi. Và như tôi đã nói trước, hãy tránh dùng thức ăn “đen” như thịt, trứng, hành, tỏi, củ cải, nhất là khi bạn ẩn tu theo bậc kriya của tantra (bậc đầu trong bốn bậc tantra). Về mặt khác, không có nhiều giới hạn về thức ăn. Vài người thích ăn chay trong kỳ ẩn tu. Trong đợt ẩn tu lâu, bạn nên ăn chay với mức độ vừa phải.

Nếu bạn ăn uống không thỏa đáng thì sẽ có nguy cơ là hệ thần kinh của bạn và khí lực của cơ thể bạn sẽ bị xáo trộn. Một sự ẩn tu mãnh liệt tự bản thânxu hướng tạo nên sự xáo trộn, và nếu việc ăn uống tồi tệ sẽ tăng thêm việc rủi ro. Những xáo trộn như thế thường biểu hiện như những suy sụp thần kinh, như thể “trống trải ra,” hay những cơn đau thể xác, đặc biệt trong luân xa tim. Đôi khi bạn thấy đau ở tim bởi vì việc bạn quán tưởng cam lồ chảy từ tim Vajrasattva xuống vào kinh mạch trung ương của bạn, việc quán tưởng đó quá ư cụ thể, hình tướng. Bạn đang tập trung mạnh ở tim bạn và bạn nghĩ rằng một cái gì đó cụ thể đang đụng chạm vào tim bạn. Đây là một lỗi cơ bản, những hiện tượng này dễ xảy ra và tăng lên nếu bạn không để ý chăm sóc sức khỏe bạn.

Hãy tỏ ra tử tế với chính mình. Khi bạn thực hiện một thời thiền tốt, hãy vỗ nhẹ vào lưng và tự chúc mừng cho mình. Tự thưởng cho mình một bữa ăn ngon. Nếu bạn thực hiện một thời thiền tồi tệ, hãy tự la mắng mình một cách nhẹ nhàng và tự hứa là sẽ làm tốt hơn. Phải bảo đảm ngủ đủ giờ. Nếu được ngủ thỏa đáng vào ban đêm để rồi tập trung mãnh liệt trong thiền định thì tốt hơn bị ngủ gà ngủ gật trong khi thiền định.

Nếu bạn vướng phải nhiều chướng ngại trong khi nhập thất ẩn tu bạn có thể làm một lễ cúng dường (puja) thần thủ hộ Mahakala hay đặc biệt thiền định về tánh Không, nó thực sự là sự che chở tốt nhất. Bạn phải nên nhận định rằng những tín hiệu xấu, những cơn ác mộng đều chỉ là huyễn hoặc và như vậy bạn chẳng nên coi trọng những sự việc đó. Nhưng dù sao bạn cũng nên ghi chép những tín hiệu, những cơn mơ đó vào một quyển sổ, hãy ghi tất cả những gì đã kinh qua dù tốt hay xấu. Sau này quyển sổ đó rất có lợi không chỉ cho bản thân bạn – để nhớ lại những gì tự mình kinh nghiệm được – mà cũng còn có ích cho những người khác khi họ dự định ẩn tu.

Nếu bạn thực hành việc ẩn tu một cách tận tâm, tuân theo một cách nghiêm túc các điều kiện đã đặt ra ở trên, thì có thể bảo đảm rằng bạn sẽ nhận được các tín hiệu chứng ngộ. Các phần khác nhau của sadhana đã được sắp xếp một cách đặc biệt để hướng dẫn tâm bạn một cách tuần tự sao cho khi bạn đến thời điểm trì chú, nó sẽ được tập trung một cách tự nhiên. Bạn không thể nhảy thẳng vào sự thiền định tập trung nhất tâm, bạn phải xây dựng dần đưa đến chỗ đó. Nếu bạn thực hành việc này được thỏa đáng, tuân theo tất cả những điều kiện rèn luyện đã mô tả, thì sẽ có những tín hiệu – nếu không phải trong thời gian ban ngày thì cũng trong giấc mơ của bạn vào ban đêm. Không phải bạn nên mong đợi những tín hiệu đó ! Như tôi đã nói ở trước, bạn chỉ việc hãy thoải mái trong sự kiên định rằng sẽ có một thời điểm bạn trích ra được tinh túy của cuộc sống con người quý báu này, và bạn cảm thấy mình rất may mắn vì đang làm một việc không dành cho những dục lạc sanh tử. Rồi thì bạn hãy làm hết mình nhưng không thúc ép mình. Và khi các tín hiệu đến bạn hãy không bám níu, không dao động, tự kiềm chế, đừng chộp bắt chúng theo cảm xúc. Đừng nói với ai, đừng trình bày cho ai biết những chứng ngộ của bạn. Hãy tỏ ra giản dị, khiêm tốn, hạ mình thấp xuống đất và hãy thực tế. Theo cách này, cuộc sống sẽ dễ dàng hơn nhiều.

Ẩn tu theo nhóm

Tôi quan sát nhiều người phương Tây tu tập qua nhiều đợt tu ẩn, và tôi thấy rằng khi họ tu ẩn theo nhóm họ dễ đạt thành công hơn là khi tu một mình. Điều khám phá này không hẳn đúng cho tất cả nhưng chắc chắn đúng với đa số. Đặc biệt khi họ là những tân hành giả và khi thời gian ẩn tu là lâu, chẳng hạn ba tháng thì việc tu tập nhập thất theo nhóm tốt hơn. Khi bạn ẩn tu một mình thì rất dễ làm khác lịch trình đặt ra. Ngày này bạn có thể thiền định rất tốt nên bạn cố thiền định cả ngày mà không theo đúng các thời thiền. Nhưng ngày kế tiếp bạn bị suy sụp và không thể thiền định được. Hay vào một buổi sáng bạn cảm thấy mệt nên bỏ đợt thiền đầu tiên để ngủ tiếp. Hoặc chân hay đầu bạn bị đau nên bạn tự miễn thứ cho mình mà không thiền. Những việc này sẽ không xảy ra nếu bạn ở trong một nhóm, vì bạn tự có trách nhiệm với những người khác là phải tham dự các thời thiền.

Trong nhóm người hưởng lợi từ việc chia xẻ năng lực cho nhau : các bạn giúp lẫn nhau. Nếu bạn thấy thất vọng bạn hỏi ý kiến bạn bè trong nhóm và những góp ý rất cảm thông của họ giúp bạn hưng phấn trở lại. Khi có ai đang gặp khó khăn mà bạn đã gặp phải và đã có kinh nghiệm vượt qua, bạn có thể giúp giải thích họ nên làm gì. Chúng ta không hoàn toàn mê muội và có thể khá hơn để giúp người khác. Bởi thế, tôi khuyến cáo nên ẩn tu theo nhóm cho đến khi nào bạn đủ kinh nghiệm để ẩn tu một mình.

Kết luận

Nếu bạn có cơ may – hoặc sắp xếp được thời gian để ẩn tu, bạn thật là người may mắn. Có ít việc gì lợi lạc cho bằng ẩn tu. Với sự từ bỏ quyết liệt vòng sanh tử (samsara) bạn đã nhận thức được rằng bạn đã ở khắp mọi nơi, đã làm đủ mọi việc và sự làm đi làm lại hoài hoài những công việc y như vậy thì thật là vô íchchắc chắn chẳng đưa mình đi đến đâu cả. Nhận thức đó ngăn chặn tâm bạn khỏi phải đi lang thang. Nếu đang khi ẩn tu, bạn mơ thấy mình trở về lại phố cũ hay ở một nơi đã mong ước, thì bạn có thể tự nhủ : “Tôi biết chắc tôi sẽ làm gì nếu tôi trở lại nơi ấy. Tôi đã từng làm như vậy suốt cả đời. Điều cốt lõi là, chẳng có gì mới ở đó cả. Tại sao cứ say mê đuổi bám cuộc hành trình luân hồi sanh tử xưa cũ và không kiềm chế đó ?”

Bởi thế nhờ vào việc nhận ra bản chất của vòng sanh tử và nhờ vào việc có được sự tha thiết quyết tâm cắt đứt toàn bộ gốc rễ của vòng sanh tử đó, bạn sẽ không còn mong đợi những thứ vui dục lạc đến từ thế gian. Thậm chí nếu người bạn thân nhất chợt xuất hiện nói : “Thôi mà, hãy đi ra ngoài hưởng thụ đi !” thì bạn có thể nói : “Xin lỗi bạn. Tôi đã có đủ mọi thứ đó rồi.”

Bạn không cần phải bị kích động rồi tự ép mình trong một căn chòi tranh nhỏ và khóa chặt cửa lại. Tốt hơn, bạn nên thực sự buông bỏ vòng sanh tử luân hồi với một trí huệ vững chắc. Bạn từng biết sự chìm đắm trong gia đình, bè bạn đã là một loại vô nghĩa, bè bạn nên bạn phát sanh một động cơ mãnh liệt : “Tôi sẽ không ngưng ngang kỳ ẩn tu này cho đến khi tôi hợp nhất được thân khẩu ý của tôi với thân khẩu ý của ngài Heruka Vajrasattva.”

Chúng ta thường làm công việc không được nhiệt tình. Đó là vì tâm chúng ta bị chia chẻ. Khi có một cuộc xung đột bởi các xu hướng tâm thức chống đối nhau, chúng ta rất dễ bị đưa tới sự suy sụp thần kinh. Nên bạn thực sự cần biết rõ tại sao bạn đang nhập thất và bạn phải chắc chắn là động cơ của bạn là mãnh liệt. Bạn phải nên cảm thấy được việc ẩn tu là rất cần thiết và đáng được làm và bạn là người may mắn, cực kỳ may mắn có cơ hội ẩn tu. “Tôi rất được diễm phúc có cơ hội được ẩn tu vài tháng coi như được một lần trong đời, làm việc trong sự ảnh hưởng mạnh mẽ của trí huệ mà không phải liên tục bám theo việc này việc nọ để nhúng tay vào mật.” Bạn có biết tôi ám chỉ gì khi nói nhúng tay vào mật ? Khi bạn đụng vào mật nó sẽ dính vào tay bạn và vào mọi thứ khác mà bạn đụng tới, khiến cho tạo nên sự lộn xộn, lộn sòng, và rất khó thoát ra. Các hành động trong vòng luân hồi sanh tử rất giống như vậy.

Bởi thế hãy bắt đầu ẩn tu với một quyết tâm cao và đừng có mong đợi nào cả. “Tôi có nhận được mọi sự chứng đắc giác ngộ hay không, điều đó không thành vần đề. Có thể nói là đủ nếu tôi cố kiểm soát tâm tôi và thư giãn được trong một bầu không khí yên bình tĩnh lặng này.” Thật là một kết quả may mắn lớn lao để đạt tới một kết luận như vậy. Tất cả dòng đời trong vòng luân hồi sanh tử chỉ là sự lãng phí thời gian vì chỉ tạo ra càng lúc càng nhiều rắc rối chướng ngại. Nếu bạn nhận thức được sâu sắc về bản chất của cuộc sống sanh tử luân hồi, bạn sẽ không còn chướng ngại hay phân tán tâm trong suốt kỳ nhập thất. Nhưng nếu bạn giải đãi do dự, thì tâm bạn sẽ đi lang thang và gây phiền cho bạn luôn. “Ồ ! Nếu phải chi tôi đã ở nhà tôi có thể ra tiệm ăn cơm tối hay đi xem phim với bạn gái…”

Đối với cách suy nghĩ trong vòng sanh tử, thì đó là thời gian chơi bời thỏa thích nhưng thực ra, đó chỉ là mê lầm. Hãy kiểm tra lại bằng trí huệ xem ! Mặc dù bạn nói : “Tôi đã chơi bời thỏa thích,” nhưng nếu bạn tỏ ra trung thực bạn sẽ thừa nhận đó chỉ là một vòng đời sanh diệt như kiếp trước. Chúng ta từng trải qua những kinh nghiệm như thế trong vô số bao nhiêu kiếp, nhưng rồi tâm chúng ta vẫn cứ mê muội, bất trị, không rèn luyện được, không kiềm chế được.

Bởi vậy bạn đừng do dự lưỡng lự. Hãy cắt đứt tâm mê lầm lang thang đó bằng việc phát sanh một động cơ mãnh liệt, thiết tha : “Tôi thật sự may mắn, ít nhấttrong đời này, đã rút ra được quyết định rằng việc quý giá hiện nay là điều phục thân, khẩu, ý của tôi và có được cơ hội để kiên quyết đặt mình trên con đường đạo đưa tới sự an bình toàn vẹn.”

Rồi thì, khi bạn ngồi xuống tấm nệm trước mỗi thời thiền, bạn có thể nghĩ rằng : “Tôi phải đạt được giác ngộlợi lạc của tất cả chúng sanh hữu tình là mẹ của tôi, ngay trên chỗ ngồi này. Tôi sẽ không rời chỗ này cho đến khi nào tôi là “một” với Guru Heruka Vajrasattva.”

 





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22987)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22491)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21774)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23355)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21202)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21783)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22248)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23625)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20438)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20060)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21955)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24776)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19016)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 31006)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24010)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27784)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26548)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38167)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18812)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20001)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19060)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23190)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22942)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18730)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15856)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18872)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19701)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20174)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19967)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18141)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16441)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16942)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39285)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26115)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20123)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18868)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24090)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29164)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22916)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30982)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21029)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26875)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20692)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26277)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23350)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19837)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15846)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19876)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28995)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20710)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19461)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30546)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36460)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33257)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35588)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21006)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21941)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25281)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25818)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant