Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

15. Ý Nghĩa Lễ Phật Đản

09 Tháng Mười 201100:00(Xem: 15022)
15. Ý Nghĩa Lễ Phật Đản

CÁC BÀI
HỌC PHẬT
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông

Phần 3: THỰC HÀNH

Ý Nghĩa Lễ Phật Đản

*

Mỗi năm vào ngày trăng tròn tháng 5 dương lịch, nhằm ngày Rằm Tháng Tư âm lịch, các tín đồ Phật giáo cử hành lễ Phật Đản, để kỷ niệm ngày đức Phật đã giáng sinh tại vườn Lâm Tỳ Ni (nay thuộc về nước Népal), năm 624 trước Tây Lịch, tương truyền ngay khi lâm phàm, thái tử Tất Ðạt Ða bước đi bảy bước, trên bảy cái hoa sen, tượng trưng cho sáu đức Phật đã qua: Phật Tỳ Bà Thi (Vipacyin), Phật Thi Khí (Cikhin), Phật Tỳ Xá Phù (Visabhũ), Phật Ca La Ca Tôn Ðại (Krakacchanda), Phật Câu Na Hàm Mâu Ni (Kranahamouni), Phật Ca Diếp (Kacyapa) và Phật hiện tại là ngài, đức Thích Ca Mâu Ni (Cakyamouni).

Ngài dừng ở bước thứ bảy, rồi một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, Ngài nói rằng:

 Thiên thượng thiên hạ
Duy ngã độc tôn
Nhứt thiết chúng sanh
Sanh, lão, bệnh, tử.

Cho nên vào ngày Phật đản, các chùa thường thiết trí ảnh tượng Phật sơ sanh, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, và vào buổi sáng sớm các chùa cũng thường cử hành lễ Mộc dục, tức là lễ tắm Phật, tượng trưng ngày ấy Phật giáng sinh cho nên tắm Phật. Người dự lễ có đức tin rằng mình tắm Phật, dâng lên đức Thế Tôn tấm lòng thành kính sẽ được phước đức, tin vào điều thiện sẽ gieo được chủng tử thiện thì rất quý.

Bài kệ trên, có vẻ đi ngược với tam pháp ấn :

- Chư hành vô thường.
- Chư pháp vô ngã.
- Niết Bàn tịch tĩnh.

Cho nên người ta giải thích rằng, ngã ấy chính là Phật tính mà hết thảy chúng sinh ai cũng đều có Phật tính như nhau, tu tập để làm cho Phật tính ấy ngày càng hiển lộ, để đạt đến quả vị Phật ấy mới là độc tôn.

Bài kệ theo kinh điển Nam Tông ghi tiếng Pali như sau:

Aggohamasmi lokasmim
Setthohamasmi lokasmim
Ayanca antimà jàti
Nathi dàti punabbhavo


Dịch nghĩa như sau:

Khắp trong ba cõi Ta bà,
Chỉ ta quý báu hơn là nhân thiên.
Kiếp nầy đoạn tuyệt căn duyên,
Dứt nguồn sanh tử triền miên luân hồi.

Là một vị thái tử, con vua Tịnh Phạn, nước Ca Tỳ La Vệ. Ngài cũng có gia đinh, vợ con, nhưng Ngài đã nhìn thấy cảnh Sanh. Lão, Bệnh Tử đều là khổ mà mọi nguời không tránh khỏi, nên năm 29 tuổi, vào một đêm kia Ngài rời bỏ vợ con, cung vàng, điện ngọc để đi tìm chân lý, giải thoát mọi khổ đau của kiếp nhân sinh.

 

Sau sáu năm khổ hạnh nơi rừng già, Ngài đã thiền định dưới gốc cây bồ đề, ròng rã nghiêm mật bốn mươi chín ngày đêm, cuối cùng Ngài đã tìm ra Chân lý, trở thành bậc đại giác ngộ. Nguời đời tôn xưng Ngài là đức Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

Rồi Ngài đem sự giác ngộ ấy, dạy cho mọi nguời để tu tập, thực hành hầu giải thoát mọi khổ đau, tiến lên chứng quả vị toàn giác như Ngài.

 

Tu tập theo con đường của Ngài chỉ dạy, từ đó đến nay biết bao nguời đã chứng quả A La Hán, Bồ TátPhật quả, nhưng chỉ có đức Di Lặc, trong tương lai sẽ thị hiện để thay thế Ngài chưởng quản quần sanh.

 

Ngày Phật Đản, mọi nguời con Phật đều thành tâm tưởng niệm đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, vì hồng ân Ngài đã mở đường chỉ lối cho chúng ta biết con đường chân chính để đi đến Niết bàn tịch tĩnh, thoát khỏi luân hồi và nguyện cầu cho mọi nhà an lạc, Thế giới hòa bình.

 

Nam Mổn Su Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam Mổn Su Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam Mổn Su Thích Ca Mâu Ni Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 72)
Là một thuật ngữ âm Hán – Việt, có lẽ khó hiểu với một số Phật tử cũng như những người trẻ.
(Xem: 369)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳ là thời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 397)
Trong suốt khoảng thời gian mười lăm thế kỷ khi Phật giáo có mặt ở Ấn Độ, đã xuất hiện những quan điểm khác nhau về...
(Xem: 368)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phật là phật tính. Và cũng do phật tính mà Đức Phật đã ban cho những lời giảng.
(Xem: 403)
Đức Phật (khoảng năm 450 trước Công nguyên) là người có giáo lý tạo thành nền tảng của truyền thống Phật giáo.
(Xem: 482)
Chỗ ở của người tu thường là nơi thanh vắng, núi rừng. Thời Đức Phật còn tại thế cũng thường ở trong những khu rừng.
(Xem: 435)
Trên con đường tiến hóa của mình, loài người tiến theo hướng càng ngày càng thiện lành hơn.
(Xem: 529)
Đầu đà tăng còn gọi là khổ hạnh tăng. Hán dịch chữ Tăng, không chỉ riêng tăng nhân Phật giáo mà nhằm chỉ vị tăng của các tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
(Xem: 700)
Truyền Đăng sinh năm 1554, họ Diệp, hiệu Vô Tận, biệt hiệu Hữu Môn.
(Xem: 725)
Tính nối kết là một đặc trưng của kinh Pháp Hoa. Ở đây chỉ trích ra một ít câu để làm rõ.
(Xem: 710)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(Xem: 963)
Lama Zopa Rinpoche giải thích phương pháp thiền về tính không trong cuộc sống hàng ngày.
(Xem: 1242)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(Xem: 968)
Trong bài này sẽ nghiên cứu về chương thứ nhất, phẩm Tựa, của kinh Pháp Hoa để nhìn thấy phần nào tính vũ trụ của kinh
(Xem: 1191)
Khi một thiền giả theo đuổi con đường giới, vị ấy nên khởi sự thực hành khổ hạnhđể kiện toàn các đức đặc biệt ít muốn, biết đủ
(Xem: 1288)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ...
(Xem: 1331)
Hai thời công phu còn gọi là triêu mộ khóa tụng (朝暮课诵) hoặc nhị khóa, tảo vãn khóa, đều áp dụng cho hàng xuất giatại gia mỗi ngày.
(Xem: 1539)
Người trí tạo thiên đường cho chính mình, kẻ ngu tạo địa ngục cho chính mình ngay đây và sau này.
(Xem: 1377)
Chúng ta kinh nghiệm thế giới vật chất bằng sáu giác quan của mình: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
(Xem: 1132)
Ta đã già rồi ư? Sự vô thường của thời gian quả thật không gì chống lại được.
(Xem: 1342)
Kinh Hoa Nghiêm còn gọi kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, là một kinh điển trọng yếu của Đại thừa. Bản kinh mô tả cảnh giới trang nghiêm huyền diệu
(Xem: 1281)
Từ bây giờ, là người mới xuất gia, nhiệm vụ của các con là sửa đổi và phát triển bản thân.
(Xem: 1500)
Việt Namquốc gia ở vùng Đông Nam Á cho nên chúng ta may mắn được hấp thụhai trường phái Phật giáo lớn nhất của thế giới,
(Xem: 1371)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 1668)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 1343)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ
(Xem: 1411)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tốsâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã)
(Xem: 1600)
Đế Nhàn, gọi đầy đủ là Cổ Hư Đế Nhàn, là tổ sư đời thứ 43 Thiên Thai tông, một bậc cao Tăng cận đại, phạm hạnhcao khiết, giỏi giảng kinh thuyết pháp, độ chúng rất đông.
(Xem: 1261)
Giải thoát thì không có trước có sau, không có thừa! Và không có để lại bất kỳ cái gì.
(Xem: 1434)
Bản kinh chúng ta đang có là bản kinh 262 trong Tạp A Hàm Hán Tạng. Trong Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya) của tạng Pāli có một kinh tương đương, đó là kinh Chiên Đà.
(Xem: 1357)
Thực tại được kinh Hoa Nghiêm gọi là pháp thân Phật, được diễn tả nhiều trong các bài kệ của phẩm đầu tiên Thế Chủ Diệu Nghiêm.
(Xem: 1526)
Gần 26 thế kỷ về trước, sau khi kinh qua nhiều pháp môn tu tập nhưng không thành công, Đức Phật đã quyết định thử nghiệm chân lý bằng cách tự thanh tịnh lấy tâm mình.
(Xem: 1124)
Tín là niềm tin. Niềm tin vào Tam Bảotin tưởng vào Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 1582)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian đem lại an vui cho tất cả chúng sanh. Đạo Phật là đạo của giác ngộgiải thoát.
(Xem: 1122)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(Xem: 1175)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(Xem: 1051)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(Xem: 1621)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(Xem: 1390)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(Xem: 1646)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(Xem: 1747)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(Xem: 1901)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(Xem: 2156)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(Xem: 1893)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(Xem: 1786)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 1381)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(Xem: 1398)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(Xem: 1269)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(Xem: 1276)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(Xem: 2273)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
(Xem: 1876)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 1828)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 1770)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(Xem: 1715)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(Xem: 1679)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 2104)
Từ vô ngã bùng nổ thành ngã, và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna.
(Xem: 2428)
Trong nhận thức của quốc vương Koravya, cũng như nhận thức của nhiều người, một người từ bỏ cuộc sống...
(Xem: 2191)
Trong bài này sẽ nói về năm pháp: danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như, từ Kinh Nhập Lăng Già (Đại chánh tân tu Đại tạng kinh,
(Xem: 1880)
Hổm nay chúng ta đã tìm hiểu bài Đại kinh Rừng Sừng Bò, sáu vị thánh nhân trình bày hình ảnh lý tưởng của vị tỳ kheo trí tuệđức hạnh,
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant