Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chánh Kiến và Nghiệp

09 Tháng Mười 201200:00(Xem: 14993)
Chánh Kiến và Nghiệp

CHÁNH KIẾN VÀ NGHIỆP

Tác giả: Ledi Sayadaw và nhiều c giả khác

Dịch giả: Pháp Thông

chanhkienvanghiep-ledisayadaw

MỤC LỤC

Lời Giới Thiệu

Lời Người Dịch

Tiểu Sử Các Tác Giả

CHƯƠNG I: Nghiệp dưới cái nhìn của người Phật tử

NGHIỆP (Kamma) - Francis Story

NGHIỆP VÀ LÝ NHÂN QUẢ - Francis Story

- Các phương thức duyên hệ

- Lý nhân quả

- Nghiệp hoạt động như thế nào?

- Tái sinh

- Chú niệm trong đời sống và lúc chết

HÀNH ĐỘNG VÀ PHẢN ỨNG - Leonard A.Bullen

NGHIỆP VÀ TỰ DO Ý CHÍ - Francis Story

SUY NGHĨ VỀ NGHIỆP, QUẢ CỦA NGHIỆP - Nyanaponika Thera

NGHIỆP LÀ GÌ? - K.Sri Dhammananda

- Những quan niệm sai lầm về nghiệp

- Kinh nghiệm riêng của chúng ta

- Những yếu tố khác hỗ trợ cho nghiệp

- Liệu nghiệp có thể thay đổi được không?

- Năng lực công bằng

- Tái sinh

- Tái sinh có thể xảy ra đồng thời với sự chết không?

- Sat-na tử

CHƯƠNG II: Chánh kiến tường giải - Ledi Sayadaw

PHẦN I

I. Ba loại tà kiến

II. Phản bác tiền định kiến

III. Phản bác tạo hóa kiến

IV. Phản bác vô nhân kiến

V. Giải thích về ba tà kiến

VI. Giải thích về phản bác tiền định kiến

VII. Giải thích từ Kammassakà (nghiệp sở hữu)

VIII. Ba lĩnh vực chính

IX. Giải thích về "Kammassakà"

X. Bác thuyết tạo hóa (Issaranimmà)

XI. Phản bác vô nhân kiến

XII. Giải thích thêm về Kammassakà-Vàda

XIII. Giải thích về thân kiến (Attà-ditthi)

XIV. Những lợi ích của việc đoạn diệt thân kiến

PHẦN II: Cái tôi hay tự ngã làm con người xấu xa như thế nào?

- Attā và Anattā

- Asārakaṭṭhena - Anattā: năm uẩn bị chấp lầm là tự ngã

- Asāmikaṭṭhena - Anattā: vô ngã do không có chủ thể

- Avasavattanaṭṭhena - Anattā: vô ngã do không theo ý muốn 

- Giải thích vắn tắt về ngã sở (Anattaniya)

- Ảo tưởng về ngã sở do điên đảo (Vipāllasa)

- Bậc thánh và thánh vức (Ariya Bhūmi)

- Năm loại chánh kiến (Sammā-diṭṭhi)

- Để có danh sắc phân tích trí (Nāma-rūpa-pariggaha-ñāṇa)

- Để có nhân duyên phân biệt trí (Paccaya-pariggaha-ñāṇa)

- Làm thế nào để đắc minh sát tuệ

- HỎI VÀ ĐÁP VỀ NGHIỆP - Ledi Sayadaw

CHƯƠNG III: Quy luật vận hành của nghiệp

NGHIỆP VẬN HÀNH NHƯ THẾ NÀO - Sayadaw U Sīlānanda

- Phân loại nghiệp

- Phản tỉnh về nghiệp

- Phần hỏi và đáp

- Tìm hiểu quy luật vận hành của nghiệp

CHƯƠNG IV: Nghiệp phân tích theo vi diệu pháp - Dr. Mehm Tin Mon

I. Nghiệp bốn loại phân theo phận sự

II. Nghiệp bốn loại phân theo ưu tiên cho quả

III. Nghiệp bốn loại phân theo thời gian cho quả

IV. Nghiệp bốn loại phân theo nơi quả nghiệp xảy ra

CHƯƠNG V: Nghiệp và quả

MỘT SỐ GIẢI THÍCH VỀ NGHIỆP - Ashi Janakabhivamsa

CHƯƠNG VI: Mười phước nghiệp sự (Puññkiriyā - Vattthus)

1. Bố thí (Dāna)

2. Giữ giới (Sīla)

3. Tu thiền (Bhāvanā)

4. Cung kính (Apacāyana)

5. Phục vụ (Veyyāvacca)

6. Hồi hướng công đức (chia phước) (Pattidāna)

7. Tùy hỷ công đức (Pattānumodana)

8. Thính pháp (Dhammasavana)

9. Thuyết pháp (Dhammadesanā)

10. Tri kiến chân chánh (Diṭṭhijukamma)

CHƯƠNG VII: Các tiến trình tâm cận tử

Bốn nguyên nhân của sự chết

Những trường hợp chết phi thời

Tầm quan trọng của phút giây cuối cùng

Ba loại đối tượng

Nghiệp xuất hiện như đối tượng như thế nào?

Nghiệp tướng xuất hiện như thế nào?

Thú tướng xuất hiện như thế nào?

Sự biểu lộ trên khuôn mặt

Sự biểu hiện qua lời thì thào

Các loại thú tướng khác

Giúp cho cảnh tốt xuất hiện

Tâm tái sinh xuất hiện như thế nào?

Hai tà kiến

Chánh kiến

Kết luận

CHƯƠNG VIII: Tái sinh

Tính chất của tái sinh, kiết sinh (Patisandhi)

Bốn loại kiết sinh

Ba điều kiện cần thiết cho kiết sinh

Một vài trường hợp kỳ lạ

Kalala - chất lỏng trong suốt

Sự hỗ trợ của tinh dịch và noãn châu

Bốn loại người

Tám loại thánh nhân

Nghiệp là cha mẹ đích thực của chúng ta

Kết luận

HỎI - ĐÁP VỀ NGHIỆP - QUẢ CỦA NGHIỆP - Nina Van Gorrkom

CHÁNH KIẾNNGHIỆP

Kính dâng:

Hòa Thượng Hộ Tông
Cùng Các Bậc Tiền Bối Phật Giáo Nguyên Thủy

Lời Giới Thiệu

Nghiệp là một đạo lý vô cùng quan trọng và hết sức tế nhị trong Giáo Pháp Đức Phật, đến nỗi Ngài cảnh báo rằng đó là vấn đề bất khả tư nghì, không nên suy nghĩ quá xa về sự vận hành của nó. Bởi vì chính những suy luận chủ quan đã gây biết bao hiểu lầm về định luật độc đáo mà Đức Phật đã giác ngộ và khai thị này. Tuy nhiên, trên mặt lý, nếu không nêu rõ một số nét khái quát và cương yếu thì lại càng gây hiểu lầm nhiều hơn, nên trong Giáo Điển Phật Giáo Nguyên Thuỷ Đức Phật đã giảng giải đạo lý về nghiệp một cách rõ ràng minh bạch đủ để chúng ta học hỏi, chiêm nghiệm mặt sự của chân lý này.

Có điều định luật (niyama) chi phối sự vận hành của vũ trụđời sống con người như luật về sinh học (bija), thời tiết (utu), lý hoá (dhamma), tâm thức (citta), và nghiệp lực (kamma), riêng đối với loài hữu tình, trong đó có con người, thì định luật về nghiệp là quan trọng hơn cả, nói lên tính đạo đức, tính khoa học, tinh thần trách nhiệm, ý chí tự do và nhiều phương tiện nhân bản khác.

Chính vì không thông suốt định luật nhân quả nghiệp báo này mà con người tự gây cho mình và xã hội biết bao đau thương khổ lụy, rồi lại đổ cho trời đất, tha nhân hoặc gán cho những điều kiện khách quan bên ngoài. Nhưng khi người nào đã thấu rõ định luật này từ sự quan sát, chiêm nghiệm đời sống một cách sâu sắc thì không những có thể tự vượt qua khổ đau, tự hoàn thiện chính mình mà còn đem lại nhiều lợi lạc cho cộng đồng xã hội.

Không chỉ những người theo Đạo Phật mà những người nghiên cứu Phật học khách quan nhất cũng cần phải nắm vững đạo lý về nghiệp, một phần cốt lõi của nguyên lý Bốn Sự Thật Vi Diệu (Ariya Sacca), thì mới không nhầm lẫn tôn chỉ uyên nguyên của con đường Giác Ngộ Giải Thoát.

Tập sách Chánh Kiến và Nghiệp được viết bởi những tác giảuy tín trong văn nghiệp Phật học uyên thâm của họ, dựa trên Tam Tạng Kinh Điển Pāḷi nguyên thủy cổ xưa nhất của Văn Học Phật Giáo, là tài liệu phong phúđáng tin cậy cho những ai muốn nghiên cứu sâu xa về đạo lý quan trọng này.

Tôi xin trân trọng giới thiệu đến quí vị bản dịch của Sư Pháp Thông, một dịch giả đã cống hiến cho người đọc nhiều kinh sách có giá trị.

Tổ Đình Bửu Long, Mùa An cư 2550.
Phó Ban Thiền Học Phật Giáo Nguyên Thủy
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam
Tỳ Khưu Viên Minh

Lời Người Dịch

Con đường tu tập, dù khởi đi từ đâu - bố thí, trì giới hay tu thiền – thì sự hiểu biết về nghiệp và quả của nghiệp cũng là điều quan trọng. Không có sự hiểu biết này, chắc chắn chúng ta không thể có tinh thần trách nhiệm cá nhân, tinh thần tự lực, tự tin, tự chế, sự nhẫn nại và sức mạnh cần thiết, để thực hiện một sự tu tập đúng nghĩa.

Thậm chí, có khi chúng ta còn rơi vào tà kiến là đằng khác!

Chánh kiến đầu tiên trong năm loại chánh kiến đưa đến giải thoát là “Chánh kiến về nghiệp” (Kammassakatā sammādiṭṭhi ). Theo Ngài Ledi Sayadaw: “Người có trí tuệ phát sinh từ chánh kiến về nghiệp này - Sẽ thoát khỏi các loại tà kiến. Vì họ tin chắc rằng, sự thanh tịnh hay không thanh tịnh tùy thuộc nơi họ, không ai có thể làm cho họ thanh tịnh hay ô nhiễm được”. Tuy nhiên, có được chánh kiến ấy không phải là dễ. Nghiệp vận hành trong dòng chảy mênh mông của không gianthời gian, dù công bằng nhưng bất định, vì bản chất của nó cũng vô thường và chịu tác động của quy luật duyên sanh như các pháp hữu vi khác.

Nếu chỉ nhìn vào những hiện tượng bất công của xã hội - người tham lam, tàn ác thì được giàu sang khoẻ mạnh, trong khi người hiền lương thật thà lại phải chịu cảnh nghèo khốn, tai ương... thì có lẽ niềm tin của chúng ta nơi nghiệp và quả của nghiệp cũng sẽ lung lay ngay. Nhưng, nếu chúng ta cố gắng hiểu nó trong tương quan nhân quả ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai và nhất là chúng taniềm tin nơi những lời của Đức Phật dạy, thì chắc chắn chúng ta không lấy làm lạ về điều đó. Hơn nữa, chính vì nghiệp không phải là thuyết định mệnh và vì khả năng có thể thay đổi của nghiệp quả, nên cơ hội tu tập giải thoát mới thành khả dĩ. Tất nhiên, còn biết bao lúng túng và khó hiểu nữa chúng ta có thể đặt ra về nghiệp, cần có sự giải thích thỏa đáng. Và đó cũng là mục đích của chúng tôi khi biên dịch tập sách này.

Cũng xin nói rõ ở đây rằng “Chánh kiến và nghiệp” không phải là một cuốn sách được biên soạn theo đúng nghĩa là một cuốn sách, nghĩa là có bố cục và trình bày lô-gic hẳn hoi. Mà đây chỉ là một số cố gắng sưu tầm và trích dịch những bài giảng hoặc tiểu luận có liên quan đến nghiệp của các bậc Đại Sư đáng tin cậy trong lãnh vực Phật Học. Cho nên, người đọc có khi gặp phải những vấn đề hai hay ba tác giả cùng đề cập tới hoặc những vấn đềtác giả này xem trọng, trong khi những tác giả khác lại không nói đến hoặc nói một cách chung chung. Trong những trường hợp như vậy người đọc phải hiểu rằng những phần chính mà ai cũng đề cập là y cứ vào giải thích trong kinh điển, còn lại là sự kiến giải riêng của mỗi vị - Riêng phần phân tích nghiệp theo Vi Diệu Pháp, sở dĩ chúng tôi cho vào đây là vì trên nguyên lý cùng tột, nghiệp chính là Tâm, như Đức Phật tuyên bố: “Tư Tâm Sở (Cetāna) là nghiệp, do có chú ý làm, người ta mới thực hiện các hành động bằng thân và khẩu”. Mọi cố gắng giải thích về nghiệp mà bỏ qua tâm (động lực chính trong việc tạo nghiệp) sẽ là một điều thiếu sót và không thuyết phục. Dĩ nhiên, dù có luận bàn bao nhiêu cũng không sao thỏa mãn hết được những điều chúng ta muốn biết về nghiệp và quả của nghiệp. Vì nếu không như thế Đức Phật đã không tuyên bố “Quả của nghiệp là điều bất khả tư nghì!”

Cuối cùng, như các dịch phẩm trước, cuốn sách này được hoàn thành là nhờ sự đóng góp của nhiều người.Qua đây, chúng tôi chân thành cảm niệm công đức của:

- Upāsika Như Pháp, Nguyên Đài, Hạnh Hoa và bé Nam trong việc đánh vi tính bản thảo, nhất là Upāsika Như Pháp đã tận tình sửa chữa và trình bày cho cuốn sách.

- Gia đình Hoàng Sơn và Kim Loan đã thiết kế bìa, sửa chữa lần cuối cùng, xin giấy phép và liên hệ in ấn để xuất bản cuốn sách này.

- Chư Phật Tử gần xa, đã đóng góp tịnh tài giúp chúng tôi thực hiện việc phổ biến kinh sách được rộng rãi hơn.

Nguyện cầu Hồng Ân Tam Bảo luôn gia hộ cho quý Phật tử được An vui và Tấn Hóa trên bước đường Tu Tập Giải Thoát.

Cầu mong cho tất cả chúng sinh được An Vui - Hạnh Phúc.

Thiền Viện Viên Không
Đầu mùa An cư 2550 (2006 DL )
Tỳ Khưu Pháp Thông

Tiểu Sử Các Tác Giả Trong Cuốn Sách Này

Mahāthera Ledi Sayadaw (1846-1923), Miến Điện. Aggamahāpandita, D.Litt.

Đại Trưởng lão Thiền sư Ledi Sayadaw, bậc Đại Hiền trí (Aggamahāpandita) của Miến Điện, là hình ảnh nổi bật của thời đại này. Ngài đã viết bằng tiếng Pāli cũng như tiếng Miến Điện hơn 70 đầu sách loại Dīpāni (một loại sách giảng giải chi tiết về các pháp). Sự nghiệp to lớn của Ngài đã góp phần vào việc hoằng dương chánh pháp, nhất là giới thiệu Phật giáo Nguyên thủy sang các nước Tây Phương. Ngài còn là bậc thiền sư khả kính. Dòng thiền của Ngài hiện nay còn nhiều vị rất nổi tiếng, thiền sư S.N Goenka là một trong số đó.

Ashin Janakabhivamsa (1900-1977), Miến Điện. Aggāmahāpandita.

Đại Trưởng lão Janakabhivamsa, bậc Đại Hiền trí của Miến Điện, một bậc thầy nghiêm minh giới luật có hơn 500 đệ tử Tỳ-khưu cũng như Sadi noi theo tấm gương của Ngài.

Ngài là cố vấn quan trọng trong Đại hội kết tập kinh điển lần thứ 6 tại Miến Điện. Số sách Ngài viết lên đến 74 cuốn, trong đó 11 cuốn về văn phạm Pāli, 14 cuốn về Luật (Vinaya), 14 cuốn về Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), 8 cuốn về Kinh tạng (Suttanta Pitaka) và 24 cuốn về các đề tài khác liên quan đến mọi phương diện của Giáo Pháp. Lối viết của Ngài rất bình dịthực tế, giúp ích rất nhiều cho hàng Phật tử, cả tăng lẫn tục. Phần trích dẫn về nghiệp trong cuốn sách này nằm trong cuốn “Abhidhamma in daily life” (Vi diệu pháp trong cuộc sống hàng ngày) đã minh chứng cho điều đó.

Sayadaw U Sīlānanda (...-2005), Miến Điện.

Thọ giới Tỳ khưu từ năm 1947, Ngài vừa là một Pháp sư nổi tiếng (Dhammācariya), vừa là một Thiền sư tài đức. Trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ 6 tại Miến Điện, Ngài là người biên soạn Từ điển Tam Tạng Pāli-Miến và là một trong những người biên tập giai đoạn cuối cùng của kinh tạng Pāli, Chú giải và Phụ chú giải.

Kể từ khi đến Hoa Kỳ năm 1979 (theo sự chỉ định của Thiền sư Mahāsī Sayādaw) Ngài đã dạy thiền Vipassanā, Vi diệu pháp và các phương diện khác của Phật giáo Nguyên thủy, đồng thời Ngài còn hướng dẫn nhiều khóa thiền ở khắp nước Mỹ, Nhật Bản, Châu Âu và Châu Á. Ngài được mọi người yêu mến và kính trọng như một vị thầy thiện xảo, nhẫn nại và đầy lòng bi mẫn.

Trưởng lão K. Sri Dhammananda (1919-…), Tích Lan.

Cuộc đời Ngài gắn liền với việc học và hoằng dương chánh pháp. Chỉ tính từ khi sang Maylaysia năm 1952 để hoằng pháp đến nay, số sách Ngài viết cũng đã gần 60 cuốn. Phần lớn những sách Ngài viết đáp ứng được nhu cầu học Phật thực tiễn trong thời đại ngày nay.

Trưởng lão Nyanaponika Thera

Ngài sinh năm 1901 tại Đức và trở thành một nhà sư Phật giáo cư trú ở Sri Lanka (Tích Lan) từ năm 1936. Ngài là một trong những người sáng lập ra BPS (The Buddhist Publication Society - Hội xuất bản Phật giáo) và là chủ tịch đầu tiên của Hội cho đến năm 1988. Ngài là tác giả của nhiều tác phẩm Phật học bằng tiếng Anh và tiếng Đức.

Dr. Mehm Tin Mon (1934), Miến Điện.

Tiến sỹ Hóa học, Giảng sư, Giáo sư đại học Mawlamyine, Miến Điện, Cố vấn Bộ Tôn giáo Miến Điện, đã viết trên 30 tác phẩm về giáo dục cũng như về Phật pháp. Ông là người mà theo lời tiên đoán của Bhaddanta Nārada Māhāthera (Aggamahāpandita), người nổi tiếng là bậc thầy của bộ Patthāna, sẽ hoàn thành công việc cao quý là giới thiệu Vi diệu pháp (Abhidhamma) bằng tiếng Anh đến thế giới.

Leonard A.Bullen

Là một trong những người tiên phong của phong trào Phật giáo ở Úc (Australia). Tại đây ông đã tích cực truyền bá Phật pháp cho đến lúc mất vào năm 1984, ở tuổi 76. Ông nổi tiếng với tác phẩm “A Technique of Living” (Nghệ thuật sống).

Francis Story (1910-1971)

Là một Phật tử Anh sinh sống ở Châu Á hơn 20 năm, thấm nhuần sâu sắc triết lý của đạo Phật về cuộc đời. Những tác phẩm về Phật giáo của ông đã được BPS xuất bản ba tập.

Nina Van Goorkom

Là một Phật tử Hà Lan, gặp đạo Phật lần đầu tiên tại Thái Lan. Bà là một học viên xuất sắc về bộ môn Vi diệu pháp (Abhidhamma), và là tác giả của cuốn Buddhism in Daily Life (Đạo Phật trong cuộc sống hàng ngày) và Abhdhamma in Daily Life (Vi diệu pháp trong đời sống hàng ngày). Cả hai được xuất bản ở Bangkok, Thái Lan.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10218)
“Theravāda Tantra”, hay “esoteric practices of Theravāda ” là những thuật ngữ mà các học giả phương tây sử dụng để gọi các pháp hành mang tính bí truyền của...
(Xem: 9875)
Nghiệp quả: Quả chín (trên năm uẩn), * Quả tương đương với nhân,# Nghiệp quả qua hoàn cảnh
(Xem: 15128)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 7933)
Những truyền thống khác nhau của Tây Tạng đến từ Đức Phật - Kadam, Sakya, Kagyu, và Nyingma - tất cả theo sự trình bày của những ...
(Xem: 9591)
Chủ đề về tánh không bao hàm tất cả giáo huấn Phật Giáo bởi vì chính Đức Phật hít thở bằng tánh không (hiện hữu, trường tồn và sống trong tánh không)
(Xem: 9643)
Từ Bi, có nghĩa là tình thương yêu rộng lớn đối với muôn loài hữu tình chúng sanh (loài ngườisúc vật). Tình thương rộng lớn này được...
(Xem: 8136)
Pháp thân Phậttánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thânquang minhHóa thân là thân vật chất;
(Xem: 10297)
Thường nghe rằng, cửa ngõ vào Chánh đạo, sự phát tâm quan trọng nhất; việc gấp trên đường tu, không gì hơn lập nguyện.
(Xem: 8713)
Không có hiện tượng nào đang tồn tại mà không phải là kết quả của nhân duyên
(Xem: 9153)
Đức Phật có nói: "Như Lai đã đạt đến sự hiểu biết rõ ràng về điều nầy, nghiệp lực, xuyên qua trí huệ cao cả của chính Như Lai."
(Xem: 9023)
Sau khi Đức Phật giác ngộ, bài giảng đầu tiên của ngài tập trung vào Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế), đó chính là nền tảng của Đạo Phật.
(Xem: 8169)
Bốn dấu ấn của hiện hữu, Phạn ngữ gọi là caturlaksana, Pà li ngữ là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 8947)
Chúng ta cần phải quy y Tam bảo để cứu mình ra khỏi đường hiểm khổ đau, đến chỗ an vui giải thoát.
(Xem: 25769)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 9055)
Để phân biệt với người không Phật tử, có sự quy y hay phương hướng an toàn, và để phân biệt với con đường Tiểu thừa, có sự quy y của Đại Thừa.
(Xem: 14411)
"Lý thuyết Nhân tính qua kinh tạng Pàli" là đề tài luận án Tiến sĩ do Thượng tọa Thích Chơn Thiện thực hiện và đệ trình tại Đại học Delhi
(Xem: 8201)
Thưa đại đức! Khi thọ khổ phát sanh, bậc A-la-hán chỉ thọ có một khổ thọ ấy, còn phàm phu thì thọ luôn cả hai thọ khổ, có phải vậy chăng?
(Xem: 8582)
Con số 84.000 trong do ngài An Nan thuật lại trong Trưởng Lão Kệ của Tiểu Bộ chính là 84.000 Pháp tức “dhamma” trong tiếng Pāḷi.
(Xem: 11903)
Đạo Phật không mang đến cho ta tiền tài hay danh vọng mà chỉ cho ta tình yêu thương bất diệthạnh phúc đích thực miên viễn trong dòng khổ đau của nhân sinh
(Xem: 9055)
Theo truyền thống sinh hoạt tu học của chư Tăng Ni từ thời Đức Phật còn tại thế, cứ đến ngày kết thúc một mùa an cư thì Đức Thế Tôn cùng chư Tăng Ni đều...
(Xem: 10367)
Mối quan hệ sâu đậm với một vị thầy tâm linh có thể là sự nối kết thăng hoa và quan trọng nhất trong một đời người.
(Xem: 8360)
Thức( vijnana) là dòng trôi tương tục dao động sáng tạo với những biểu đồ phức tạp được chi phối bởi những hệ quy chiếu mang màu sắc chủ quan
(Xem: 8976)
Không ai có khả năng biết được, sự bắt đầu của thế giới luân hồi (trong các cuộc sống diễn tiến liên tục, ở trong vòng sinh tử).
(Xem: 9992)
Đức Phật Thích Ca đã thường nói về Năm Uẩn, cũng còn được gọi là Năm Tập Hợp, hoặc là Năm Đống Hàng Cao Như Ngọn Núi.
(Xem: 9440)
Dục là nguyên nhân của khổ đau, nguồn gốc của dục có từ vô thỉ, sự trói buộc của nó đối với chúng sanh trong luân hồivô lượng kiếp.
(Xem: 8190)
Từ ngữ Niết Bàn xuất phát từ nguồn có ý nghĩa là "Dập tắt ngọn lửa", để nói đến việc dập tắt đi những ngọn lửa tham lam, sân hận, và si mê (tham sân si).
(Xem: 9474)
Niết bàn được xem là mục đích cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thóat khỏi các kiết sử tùy miên...
(Xem: 8514)
Như tâm, Phật cũng vậy Như Phật, chúng sanh đồng Nên biết Phật cùng tâm Thể tánh đều vô tận
(Xem: 10946)
Hoa Sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiếtthánh thiện, sự duy trì và phát triển Phật pháp, trí tuệ dẫn đến Niết Bàn.
(Xem: 9080)
Con người sinh ra trong thế giớidần dần, ngoài những sự vật đã có trong thiên nhiên, sáng chế ra những sự vật để dùng trong cuộc sống.
(Xem: 10524)
Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy, chúng ta chỉ có cặp mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên một là tất cả, chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất cả đặc điểm của Phật giáo.
(Xem: 8289)
Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại.
(Xem: 10284)
Tất cả các pháp nhân duyên sanh Thể tánh chẳng có cũng chẳng không Ở nơi nhân duyênsanh khởi Trong đó đều trọn không chấp trước
(Xem: 10461)
Nhân sau cùng sinh quả dị thục, Nhân đầu tiên sinh quả tăng thượng, Nhân đồng loại, biến hành sinh quả đẳng lưu, Nhân câu hữu, tương ưng sinh quả sĩ dụng
(Xem: 9006)
Đức Phật thị hiện là một con người như mọi người, điều này khẳng định cho chúng ta biết ngài không phải là thần linh, thị hiện ở núi non kỳ dị.
(Xem: 8254)
Tâm Bồ Đề (skt:Bodhicitta) là tâm giác ngộ, tâm thấy được bản mặt thật của chư pháp, tâm tin nơi nhân quảPhật Tánh nơi chúng sanh cũng như luôn dụng công tu hành hướng về quả vị Phật.
(Xem: 16649)
Muốn hết Nghiệp thì Tu ! Thì, Trì Chú ! Đó là “Thực Phẩm ngon” của Người Tu Hành xưa cũ.
(Xem: 12308)
Phật Học Vấn Đáp - Duy Thức Học Phần thứ 8; Lý Bỉnh Nam giải đáp, Thích Đức Trí chuyển ngữ
(Xem: 12265)
Hãy nương tựa vào chính mình, tự xem mình là ngọn đuốc soi đường cho mình, là nơi an trú cho mình, mà không cần một nơi an trú nào khác cả...
(Xem: 8797)
Nguyên tác: Background for Understanding Bodhichitta, Tác giả:Alexander Berzin/ Riga, Latvia, July 2004; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10220)
Giáo thuyết tối thượng tịnh hóa tâm thức, Là việc vắng mặt sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 8541)
Điều cương quyết để thọ tám chi của Luật nghi này, là phải có tối thiểu một vị Tỷ-kheo làm giới sư truyền thọ, chứ không thể tự một mình phát nguyện thọ trì được.
(Xem: 9072)
Trong Đạo Phật thuật ngữ tự ngã có hai ý nghĩa phải được phân biệt nhẳm để tránh nhầm lẫn. Một ý nghĩa của tự ngã là ‘cá thể’ hay ‘chúng sinh’.
(Xem: 10375)
Có nguồn gốc từ Ấn-độ, là tín lý căn bản trong Ấn-độ giáo, Phật giáo cũng như Kỳ-na giáo, và cả đến đạo Sikh; được truyền vào Trung hoa rất sớm, dịch là nghiệp,
(Xem: 8744)
Cận trụ nguyên ngữ Sanskrit là là upavāsatha, Hán phiên âm là ô-ba-bà-sa, Ưu-ba-bà-tố-đà, Ưu-bà-sa, U-ba-bà-sa, Ô-bô-sa-tha v.v…
(Xem: 8217)
Nói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thểxúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề...
(Xem: 8748)
Nguyên tác: Introduction to Bodhicitta - Tác giả: Alexander Berzin/ Riga, Latvia, June 2003 - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8085)
Đẳng lưu nhân-quả, là một trong những tư lương quan trọng trên con đường trung đạo, trong lộ trình tu tập thông đạt chánh kiến về duyên khởi hay mười hai chi duyên.
(Xem: 7857)
Ly Hệ Quả Sanskrit gọi là Visamyogaphala. Visam là thoát ly, tách rời, đoạn trừ, ly khai. Yoga là tương ưng, liên hệ. Nên Ly hệ, visamyoga: dứt khỏi sự trói buộc.
(Xem: 9567)
Tôi đã tìm thấy chìa khóa của hạnh phúc, và tôi đã bị thuyết phục rằng, tôi đã vượt qua mọi nhà sư khác về sự cao quý. Nhưng mỗi khi tôi rời thiền đường, những cánh cửa lại thì-thầm, 'Tất cả là không.'
(Xem: 8728)
Từ nơi Thánh Trí tối thượng ba-la-mật, đức Thế Tôn tuyên thuyết Kinh Năng Đoạn Kim Cương, nên Kinh này dạy rất nhiều vấn đề cốt lõi của giáo Pháp.
(Xem: 10689)
Như lý tác ý (Yoniso manasikàra) hay còn gọi là như lý khởi tư duy là một thuật ngữ Phật học dùng để nói về cách nhìn sự vật hay hiện tượng một cách đúng đắn theo quan niệm của đạo Phật.
(Xem: 15140)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Śīla: học xứ, học giới,... nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể.
(Xem: 12819)
Nếu chúng ta thật sự quan tâm về tương lai chính chúng tahạnh phúc an lạc của chính đời sống của mình, chúng ta nên phát triển một thái độ tinh thần trong điều mà thực hành từ bi đóng một vai trò trung tâm.
(Xem: 8143)
Những giới khinh của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân thành bảy nhóm gây thiệt hại...
(Xem: 16742)
Chúng ta cũng có thể sử dụng cách dịch phổ thông hiện này là: Như Thị Ngã Văn 如是我聞: Tôi nghe như vậy, tôi nghe như thế v.v...
(Xem: 6278)
“Phật y trên năm hạng chủng tánhthành lập năm thừa: Chủng tánh Thanh văn thừa; Bích-chi-phật thừa; Như lai thừa; Bất định thừa; và vô tánh thừa.
(Xem: 9603)
46 đại nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà...
(Xem: 7044)
Bốn pháp căn bản thành tựu thần lực, bốn cơ sở để có sức mạnh tinh thần hay sức mạnh tâm linh....
(Xem: 7728)
Quán Thế Âm, ngữ nguyên Sanskrit là Avalokiteśvaras, āvalokiteśvaro, avalokiteshvara là danh từ số ít Phạn ngữ, Hán dịch là Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant