Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý niệm tung hoành trong mê lộ của tâm

04 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 10594)
Ý niệm tung hoành trong mê lộ của tâm

melocuatam-hoduyNgày nay, giới khoa học đã dần khám phá được bí mật thời gian vốn giả. Lúc giảng hai chữ “nhất thời” trong các kinh, HT.Tịnh Không có lấy ví dụ: Tổ thứ tư của Tịnh tôngPháp Chiếu đại sư trong định từng thông dự pháp hội hơn một vạn người trên núi Ngũ Ðài do Bồ-tát Văn Thù thuyết giảng. Nhiều vị sư khác thời cận đại còn thông dự pháp hội ba ngàn năm trước của Phật Thích Ca. Chứng tỏ thời gian có hay không phụ thuộc vào cảnh giới tịnh hay nhiễm. Tại sao một ngày ở cõi trời thấp nhất bằng 50 năm ở trần gian, phước đức của ai càng lớn càng được lên các tầng trời cao hơn. Ở thế giới Cực lạcvô lượng thọ, vĩnh viễn không có già chết, tức không có thời gian. Không gian cũng không nốt vì người ở nước ấy chỉ cần khởi ý niệm đã có mặt tại một nơi xa hàng trăm ngàn vạn ức cõi. Nhục nhãn thì phải nhờ đến kính hiển vi để xem vi khuẩn, pháp nhãn của Phật thì thấy rõ hạt vi trần nhỏ gấp mấy chục lần so với hạt bụi ở đầu lông trâu. Một ý niệm thiện chúng ta khởi lên lập tức trùm khắp vũ trụ pháp giới. Ý niệm ác thì ngược lại, sẽ góp phần tàn hại ghê gớm đến sự tồn vong của hành tinh xanh. Thế mới biết, nếu không có sự gia trì của Phật và Bồ-tát, nhân thế chẳng thể tồn tại nổi một canh giờ. Cũng vậy, nếu một nửa lượng người trên thế gian cùng đồng thanh tương ứng nhất niệm “A Di Đà Phật” chẳng những đẩy lùi thiên tai đại họa, còn giúp trái đất tăng vọt tuổi thọ mà chẳng mấy người đủ bản lĩnh dám tin.

Nghiệp thức (hình thành từ thân, khẩu, ý) mà chúng ta tạo tác hàng ngày sẽ làm nên cảnh giới trong tương lai. Kẻ gây nghiệp quá nặng, sống như một ông vua hả hê trên nỗi đau của con dân song đêm đêm triền miên ác mộng, ấy là dấu hiệu của địa ngục. Kẻ sát nhân sẽ bị ác mộng bủa vây, cùng cực khổ sở; mơ mà vẫn máu chảy đầu rơi, vẫn đầm đìa mồ hôi, kêu gào vùng vẫy. Lại với kẻ giết mổ súc vật, u mê mãi cuối đời. Hãy tưởng tượng, cái vảy con cá bị gỡ khỏi thân chẳng khác người ta nhổ móng tay mình. Nỗi thống khổ, niềm đau vô hạn của những con vật sẽ hiện lên trong “mê hồn” của chính họ và họ sẽ nhận lấy nơi địa ngục. Cảnh giới kinh hoàng này chính là “duy tâm sở hiện” chứ thần Phật nào đặt ra. Kinh miêu tả người tự tử với bất cứ lý do nào, sau khi chết cứ một tuần cảnh tượng vật vã kia lại tái diễn. Phật dạy: “Tất cả các pháp từ tâm tưởng sanh” - đây là sự thật không thể lùi một tơ tóc nào. Nghiệp thức sinh ra ác mộng. Ác mộng nối nhau thành chuỗi trường đoạn thọ hình vô tận không một phút tỉnh thức, thì chính đó là thật. Ngược lại, chúng ta đang sống sờ sờ đây mà lại là mơ. Những người đoạn dứt kiến tư phiền não, tâm lặng phắc mọi ý niệm, thể nhập vào cảnh giới Phật sẽ thấm thía giấc mộng lớn hồng trần.

Kinh Kim cang, Phật dạy: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”. Lão Tử thấu triệt điều này mới than: “Ta có một mối lo là có thân này”. Biết thân này vốn không phải là ta, thân này sẽ che mất ta mà đâu dễ thoát được. Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh, hóa nghiệp. Đời nay thật nhiều người trách Phật, rằng Ngài vô biên pháp lực, từ bi trải rộng muôn nơi sao thế thái nhân tình lâm ly quá đỗi! Vậy họ đã thực hành Ngũ giớiThập thiện chưa? Phật dạy bố thí, khởi tâm động niệm đều lợi người; Phật dạy đừng sát sanh, đừng tà dâm dối trá, đừng siểm nịnh xan tham, đừng tật đố, đừng cống cao ngã mạn, đừng ác khẩu lưỡng thiệt; Phật dạy hãy yêu thương tất cả mọi người và mọi loài, bởi hiếm ai đời này và hiếm con vật nào trong quá khứ lại không là anh em bà con thân hữu của mình. Chúng ta làm được bao phần trăm lời Phật? Khoa học vốn nặng tính duy vật và… bảo thủ, đến nay ngoài những công trình vĩ đại khiến Phật pháp thêm chói sáng thì chưa hề chứng minh được điều ngược lại. Một giây con người phát ra hàng tỷ ý niệm cực vi, thì còn gì trong tam thiên đại thiên này là ngoại vi của tâm. Mấy tỷ người phát xuất trùng trùng ý niệm bất thiện thì sao không tạo nên đại nạn cho được. Thời nay Phật gọi là ác trược (Thập ácNgũ trược), há chẳng phải lời tiên đoán vĩ đại? Dĩ nhiên, người tu luôn hiểu: kiếp này người ta tạo ác nghiệp song nhiều kiếp lâu xa về trước mình còn mê muội hắc ám hơn nhiều. Thật sự là như vậy. Không bị mắc kẹt trong chấp trước, hơn ai hết, chúng ta hãy nghĩ tốt về người xấu, “A Di Đà Phật” về người xấu để góp sức làm sạch thời không trầm trọng nhiễm ô hiện thời.

Theo “nhẩm tính” của Phật Di Lặc, một giây người phàm phát xuất ra 1.280 triệu ý niệm vi tế (trong lúc khoa học ước khoảng hơn một ngàn). Ấy chính là vọng tưởng điên đảo. Muốn định lại tâm, cách hữu hiệu nhất thường là niệm Phật. Chuyên tu mà nhất là lúc ngồi niệm Phật hoặc vừa lạy Phật vừa nhiếp niệm, câu “Nam-mô A Di Đà Phật” phải sắc bén như lưỡi gươm, phơ sạch tất thảy niệm ác lẫn thiện. Thế mới có câu “Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ”. Nhiều người không hiểu lý này cứ vô tư “bình loạn” chẳng hay lãnh tội báng pháp nghiệp nặng khôn cùng. Không cứ lúc nào, hễ buồn vui tốt xấu ập đến, điều tiên quyếtniệm Phật, nhắc nhở tâm luôn tỉnh giác bình an. Niệm Phật theo vòng, mỗi vòng từ năm đến mười câu nối nhau tai nghe thấu tâm nhận rõ, ấy là “Thậm thâm thượng diệu Thiền”, vọng niệm sẽ dần bị đẩy lùi, bị vùi dập và... tận diệt. Lúc xuống núi, thõng tay vào chợ, lục căn tiếp xúc với sắc thanh hương vị..., tâm không còn mống khởi nghĩa là sống trong cảnh giới thuần tịnh tột cùng pháp giới. Bậc Chánh đẳng Chánh giác chưa cần nói một lời tự thân và thần thái đã toát ra từ trường giáo hóa, đến sát nhân vừa gặp cũng buông dao. Nhiều vị lên núi tịnh tâm, vào nhầm hang hổ nhưng chúng đã nhường lại mà kiếm chỗ khác nương náu. Còn lượng từ bi nhỏ hẹp, tâm bấn loạn gặp thú dữ khắc thành miếng mồi ngon tươi sống. Ta chuyên ăn thịt gì, thân thể sẽ nhiễm mùi và khí huyết của loài đó. Người ghiền thịt cầy thì đến đâu chó cũng tranh nhau sủa tới bến. Nếu khoa học chứng minh được rằng loài vật không hề đau đớn, không hề có lòng oán hận nên không hề quý tiếc mạng sống thì việc người ăn vật hoàn toàn không tạo ra ác nghiệp. Người chết với tâm si mê, sân khuể, ích kỷ hẹp hòi dễ chuyển thành kiếp vật. Khoác thân vật, “linh hồn” ấy sẽ mang nỗi oán hận với người giết nó. Khi người hết phước, ốm yếu què quặt chính là lúc nghiệp báo hiện tiền. Kinh Lăng nghiêm: Người chết thành dê, dê chết thành người; đời đời xoay vần ăn nuốt lẫn nhau. Thế nên trong Hán ngữ, chữ nhục (thịt) mới có bộ khẩu với hai chữ nhân, ý chỉ người ăn người (HT.Tuyên Hóa, Khai thị về ăn chay, Vạn Phật Thành ngày 30-5-1982). Thật thâm thúy tận cùng trời đất.

Có người hỏi: “Nếu ai cũng không giết mổ thì lấy thịt đâu mà ăn, và như vậy thú rừng tràn cả vào thành phố, con người bị diệt vong sao?”. Câu hỏi chưa vào nội dung đã lầm to. “Nếu ai cũng…”. Thử hỏi nhân loại với hàng tỷ người, chỉ trong năm phút thôi liệu có suy nghĩ và hành động đúng như một bậc chân tu hay không. Năm phút với nửa nhân loại không đạt đến từ bi hỷ xả ngang bậc chân tu thì làm gì có “nếu ai cũng”. Đây là câu hỏi thông dụng đối với những người muốn phớt lờ Phật pháp, muốn bác bỏ lý thuyết của Phật và thâm hơn là hủy báng Tam bảo. Nhưng rõ ràng đó là mù quáng. Tào Tháo gây ác nghiệp, đến hơn ngàn năm sau một người dân mổ heo thấy trong gan heo khắc hai chữ “Tào Tháo”. Vậy ra nhân vật “nổi tiếng” này đã khoác thân súc sanh vô số lần. Khoa học đang có trong tay “phép” thôi miên. Chiếc máy vi diệu này không ngờ khiến một người nhớ lại được 84 kiếp quá khứ, như một cuốn phim sống động. Bậc đắc quả A-la-hán thấy được năm trăm kiếp trước, đến quả vị Bồ-tát thì lội ngược về hàng vạn đại kiếp. Để thấy không gì mất đi trong vũ trụ này.

“Học Phật là sự thọ hưởng tối cao của đời người”. Tiên sinh, triết học gia Phương Đông Mỹ (một trong những bậc thầy của HT. Tịnh Không) đã thay Phật nói như vậy. Hành theo đúng lời Phật chẳng những xoay chuyển được vận mạng tại cõi trần mà còn có cơ hội tiếp nhập cõi Thánh. Phật tuyệt nhiên không nói lời hư dối. Trần gian là biển khổ mênh mông, người không chịu bám vào chiếc phao Phật pháp, tất nhiên, càng bơi càng kiệt sức.

Hồ Dụy
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15057)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 7917)
Những truyền thống khác nhau của Tây Tạng đến từ Đức Phật - Kadam, Sakya, Kagyu, và Nyingma - tất cả theo sự trình bày của những ...
(Xem: 9562)
Chủ đề về tánh không bao hàm tất cả giáo huấn Phật Giáo bởi vì chính Đức Phật hít thở bằng tánh không (hiện hữu, trường tồn và sống trong tánh không)
(Xem: 9599)
Từ Bi, có nghĩa là tình thương yêu rộng lớn đối với muôn loài hữu tình chúng sanh (loài ngườisúc vật). Tình thương rộng lớn này được...
(Xem: 8116)
Pháp thân Phậttánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thânquang minhHóa thân là thân vật chất;
(Xem: 10278)
Thường nghe rằng, cửa ngõ vào Chánh đạo, sự phát tâm quan trọng nhất; việc gấp trên đường tu, không gì hơn lập nguyện.
(Xem: 8692)
Không có hiện tượng nào đang tồn tại mà không phải là kết quả của nhân duyên
(Xem: 9138)
Đức Phật có nói: "Như Lai đã đạt đến sự hiểu biết rõ ràng về điều nầy, nghiệp lực, xuyên qua trí huệ cao cả của chính Như Lai."
(Xem: 8987)
Sau khi Đức Phật giác ngộ, bài giảng đầu tiên của ngài tập trung vào Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế), đó chính là nền tảng của Đạo Phật.
(Xem: 8151)
Bốn dấu ấn của hiện hữu, Phạn ngữ gọi là caturlaksana, Pà li ngữ là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 8919)
Chúng ta cần phải quy y Tam bảo để cứu mình ra khỏi đường hiểm khổ đau, đến chỗ an vui giải thoát.
(Xem: 25695)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 9023)
Để phân biệt với người không Phật tử, có sự quy y hay phương hướng an toàn, và để phân biệt với con đường Tiểu thừa, có sự quy y của Đại Thừa.
(Xem: 14374)
"Lý thuyết Nhân tính qua kinh tạng Pàli" là đề tài luận án Tiến sĩ do Thượng tọa Thích Chơn Thiện thực hiện và đệ trình tại Đại học Delhi
(Xem: 8164)
Thưa đại đức! Khi thọ khổ phát sanh, bậc A-la-hán chỉ thọ có một khổ thọ ấy, còn phàm phu thì thọ luôn cả hai thọ khổ, có phải vậy chăng?
(Xem: 8559)
Con số 84.000 trong do ngài An Nan thuật lại trong Trưởng Lão Kệ của Tiểu Bộ chính là 84.000 Pháp tức “dhamma” trong tiếng Pāḷi.
(Xem: 11856)
Đạo Phật không mang đến cho ta tiền tài hay danh vọng mà chỉ cho ta tình yêu thương bất diệthạnh phúc đích thực miên viễn trong dòng khổ đau của nhân sinh
(Xem: 9028)
Theo truyền thống sinh hoạt tu học của chư Tăng Ni từ thời Đức Phật còn tại thế, cứ đến ngày kết thúc một mùa an cư thì Đức Thế Tôn cùng chư Tăng Ni đều...
(Xem: 10329)
Mối quan hệ sâu đậm với một vị thầy tâm linh có thể là sự nối kết thăng hoa và quan trọng nhất trong một đời người.
(Xem: 8326)
Thức( vijnana) là dòng trôi tương tục dao động sáng tạo với những biểu đồ phức tạp được chi phối bởi những hệ quy chiếu mang màu sắc chủ quan
(Xem: 8940)
Không ai có khả năng biết được, sự bắt đầu của thế giới luân hồi (trong các cuộc sống diễn tiến liên tục, ở trong vòng sinh tử).
(Xem: 9947)
Đức Phật Thích Ca đã thường nói về Năm Uẩn, cũng còn được gọi là Năm Tập Hợp, hoặc là Năm Đống Hàng Cao Như Ngọn Núi.
(Xem: 9426)
Dục là nguyên nhân của khổ đau, nguồn gốc của dục có từ vô thỉ, sự trói buộc của nó đối với chúng sanh trong luân hồivô lượng kiếp.
(Xem: 8159)
Từ ngữ Niết Bàn xuất phát từ nguồn có ý nghĩa là "Dập tắt ngọn lửa", để nói đến việc dập tắt đi những ngọn lửa tham lam, sân hận, và si mê (tham sân si).
(Xem: 9452)
Niết bàn được xem là mục đích cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thóat khỏi các kiết sử tùy miên...
(Xem: 8489)
Như tâm, Phật cũng vậy Như Phật, chúng sanh đồng Nên biết Phật cùng tâm Thể tánh đều vô tận
(Xem: 10912)
Hoa Sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiếtthánh thiện, sự duy trì và phát triển Phật pháp, trí tuệ dẫn đến Niết Bàn.
(Xem: 9063)
Con người sinh ra trong thế giớidần dần, ngoài những sự vật đã có trong thiên nhiên, sáng chế ra những sự vật để dùng trong cuộc sống.
(Xem: 10488)
Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy, chúng ta chỉ có cặp mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên một là tất cả, chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất cả đặc điểm của Phật giáo.
(Xem: 8263)
Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại.
(Xem: 10246)
Tất cả các pháp nhân duyên sanh Thể tánh chẳng có cũng chẳng không Ở nơi nhân duyênsanh khởi Trong đó đều trọn không chấp trước
(Xem: 10419)
Nhân sau cùng sinh quả dị thục, Nhân đầu tiên sinh quả tăng thượng, Nhân đồng loại, biến hành sinh quả đẳng lưu, Nhân câu hữu, tương ưng sinh quả sĩ dụng
(Xem: 8978)
Đức Phật thị hiện là một con người như mọi người, điều này khẳng định cho chúng ta biết ngài không phải là thần linh, thị hiện ở núi non kỳ dị.
(Xem: 8219)
Tâm Bồ Đề (skt:Bodhicitta) là tâm giác ngộ, tâm thấy được bản mặt thật của chư pháp, tâm tin nơi nhân quảPhật Tánh nơi chúng sanh cũng như luôn dụng công tu hành hướng về quả vị Phật.
(Xem: 16600)
Muốn hết Nghiệp thì Tu ! Thì, Trì Chú ! Đó là “Thực Phẩm ngon” của Người Tu Hành xưa cũ.
(Xem: 12261)
Phật Học Vấn Đáp - Duy Thức Học Phần thứ 8; Lý Bỉnh Nam giải đáp, Thích Đức Trí chuyển ngữ
(Xem: 12213)
Hãy nương tựa vào chính mình, tự xem mình là ngọn đuốc soi đường cho mình, là nơi an trú cho mình, mà không cần một nơi an trú nào khác cả...
(Xem: 8764)
Nguyên tác: Background for Understanding Bodhichitta, Tác giả:Alexander Berzin/ Riga, Latvia, July 2004; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10171)
Giáo thuyết tối thượng tịnh hóa tâm thức, Là việc vắng mặt sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 8501)
Điều cương quyết để thọ tám chi của Luật nghi này, là phải có tối thiểu một vị Tỷ-kheo làm giới sư truyền thọ, chứ không thể tự một mình phát nguyện thọ trì được.
(Xem: 9038)
Trong Đạo Phật thuật ngữ tự ngã có hai ý nghĩa phải được phân biệt nhẳm để tránh nhầm lẫn. Một ý nghĩa của tự ngã là ‘cá thể’ hay ‘chúng sinh’.
(Xem: 10322)
Có nguồn gốc từ Ấn-độ, là tín lý căn bản trong Ấn-độ giáo, Phật giáo cũng như Kỳ-na giáo, và cả đến đạo Sikh; được truyền vào Trung hoa rất sớm, dịch là nghiệp,
(Xem: 8702)
Cận trụ nguyên ngữ Sanskrit là là upavāsatha, Hán phiên âm là ô-ba-bà-sa, Ưu-ba-bà-tố-đà, Ưu-bà-sa, U-ba-bà-sa, Ô-bô-sa-tha v.v…
(Xem: 8176)
Nói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thểxúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề...
(Xem: 8721)
Nguyên tác: Introduction to Bodhicitta - Tác giả: Alexander Berzin/ Riga, Latvia, June 2003 - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8056)
Đẳng lưu nhân-quả, là một trong những tư lương quan trọng trên con đường trung đạo, trong lộ trình tu tập thông đạt chánh kiến về duyên khởi hay mười hai chi duyên.
(Xem: 7845)
Ly Hệ Quả Sanskrit gọi là Visamyogaphala. Visam là thoát ly, tách rời, đoạn trừ, ly khai. Yoga là tương ưng, liên hệ. Nên Ly hệ, visamyoga: dứt khỏi sự trói buộc.
(Xem: 9535)
Tôi đã tìm thấy chìa khóa của hạnh phúc, và tôi đã bị thuyết phục rằng, tôi đã vượt qua mọi nhà sư khác về sự cao quý. Nhưng mỗi khi tôi rời thiền đường, những cánh cửa lại thì-thầm, 'Tất cả là không.'
(Xem: 8696)
Từ nơi Thánh Trí tối thượng ba-la-mật, đức Thế Tôn tuyên thuyết Kinh Năng Đoạn Kim Cương, nên Kinh này dạy rất nhiều vấn đề cốt lõi của giáo Pháp.
(Xem: 10650)
Như lý tác ý (Yoniso manasikàra) hay còn gọi là như lý khởi tư duy là một thuật ngữ Phật học dùng để nói về cách nhìn sự vật hay hiện tượng một cách đúng đắn theo quan niệm của đạo Phật.
(Xem: 15060)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Śīla: học xứ, học giới,... nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể.
(Xem: 12748)
Nếu chúng ta thật sự quan tâm về tương lai chính chúng tahạnh phúc an lạc của chính đời sống của mình, chúng ta nên phát triển một thái độ tinh thần trong điều mà thực hành từ bi đóng một vai trò trung tâm.
(Xem: 8077)
Những giới khinh của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân thành bảy nhóm gây thiệt hại...
(Xem: 16656)
Chúng ta cũng có thể sử dụng cách dịch phổ thông hiện này là: Như Thị Ngã Văn 如是我聞: Tôi nghe như vậy, tôi nghe như thế v.v...
(Xem: 6226)
“Phật y trên năm hạng chủng tánhthành lập năm thừa: Chủng tánh Thanh văn thừa; Bích-chi-phật thừa; Như lai thừa; Bất định thừa; và vô tánh thừa.
(Xem: 9515)
46 đại nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà...
(Xem: 6998)
Bốn pháp căn bản thành tựu thần lực, bốn cơ sở để có sức mạnh tinh thần hay sức mạnh tâm linh....
(Xem: 7682)
Quán Thế Âm, ngữ nguyên Sanskrit là Avalokiteśvaras, āvalokiteśvaro, avalokiteshvara là danh từ số ít Phạn ngữ, Hán dịch là Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại.
(Xem: 6994)
Thành Duy Thức Luận trình bày hai quả chuyển y là Đại Niết-bàn và Đại Bồ Đề; Do đoạn trừ hết thảy các chướng mà thành tựu hai quả vị thù thắng này.
(Xem: 7664)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant