Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Buông Xả Mới Có Chánh Niệm

13 Tháng Hai 201507:32(Xem: 13837)
Buông Xả Mới Có Chánh Niệm
BUÔNG XẢ MỚI CÓ CHÁNH NIỆM

Nguyễn Duy Nhiên



Buông Xả Mới Có Chánh NiệmNgày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề. Như mỗi khi có một cơn giận hay buồn lo nào, chúng ta thường được nhắc nhở hãy dùng chánh niệm để tiếp xúc với cơn giận ấy. Và rồi với năng lượng của chánh niệm, những khó khăn ấy sẽ được chuyển hóa.

Nhưng theo ông Andrew Olendzki điều đó có thể sẽ dẫn đến một sự hiểu lầm về chánh niệm. Vì chánh niệm không phải chỉ đơn giản là một sự chú ý đơn thuần, mere attention, về đối tượng của nó. Ông viết “Khi ta giận ta có thể biết rõ là mình đang giận. Nhưng cái biết ấy sẽ không hề mang lại một sự chuyển hóa nào… Bạn có thể chú ý đến cơn giận của mình cả ngày, và cho phép nó có mặt ‘mà không phê phán’, trong khi nó vẫn cứ thiêu đốt sâu vào con tim mình.”

Chánh niệm là một tâm hành, mental formation, và theo ông thì muốn chánh niệm có được công năng chuyển hóa ta phải hiểu rõ về sự vận hành của nó. Xin chia sẻ với bạn bài viết dưới đây của ông Andrew Olendzki, giới thiệu về một phương pháp sử dụng chánh niệm thế nào cho có hiệu quả để chuyển hóa khổ đau.

Hai quan niệm về chánh niệm

Một trong những vấn đề của chánh niệm, mà vẫn còn nhiều sự bàn cãi, là chúng ta có thể nào có chánh niệm về những trạng thái bất thiện lành (unwholesome states), như là sân hận và thù ghét hay chăng?

Một quan niệm thì cho rằng ta có thể có chánh niệm về bất cứ một việc gì. Và nhờ vậy mà khi ta có chánh niệm về một trạng thái bất thiện lành nào đó, ta có thể có mặt với trạng thái ấy mà không phê phán, không đè nén và cũng không bị nó sai xử.

Và có một quan niệm khác lại cho rằng, vì chánh niệm là một trạng thái thiện lành, và sân hận là một trạng thái bất thiện, mà tâm ta thì không thể nào kinh nghiệm hai trạng thái trái nghịch nhau trong cùng một giây phút tâm được (in the same mind-moment). Thế cho nên, khi ta có chánh niệm về một cơn giận, thật ra là tâm ta đang chuyển đổi thật nhanh giữa hai trạng thái ấy mà thôi – giây phút của chánh niệm và giây phút của sân hận.

Không thể có hai tâm hành cùng một lúc

Theo tôi thì quan niệm thứ hai đúng hơn. Và tôi cũng muốn làm sáng tỏ thêm quan điểm này, cũng như muốn chia sẻ với bạn một phương cách rất hiệu quả, có thể giúp chúng ta chuyển hóa được những trạng thái bất thiện, và hướng tâm mình đến sự chấm dứt khổ đau. Thật ra thì dù ta có quan điểm nào về cơ cấu của phương cách giải thoát đi nữa, cuối cùng rồi thì nó cũng không quan trọng lắm. Điều thiết yếu là làm sao ta có khả năng ứng dụng được chúng vào với kinh nghiệm của chính mình, để mang lại một sự chuyển hóa.

Khi nhìn sâu sắc ta sẽ thấy rất rõ điều này, là một người không thể nào giữ hai việc trong tâm trong cùng một lúc được. Nếu như ta có cảm nhận như mình làm được việc ấy, thật ra ta đang sử dụng một tư tưởng toàn diện rộng lớn (peripheral thought). Ta chỉ đang tạm giữ những dữ kiện ấy trong ký ức ngắn hạn hoặc ở bên dưới phần ý thức của mình mà thôi. Vì khi nhìn sâu hơn vào kinh nghiệm ấy ta sẽ thấy rằng, nếu muốn biết được một việc gì cho thật rõ, ta phải thu hồi lại sự chú ý của mình trên những sự việc khác. Cũng như đức Phật có dạy trong bài kinh Song Tầm, Dvedhavitakka Sutta, “Này các Thầy, một vị Tỳ kheo suy tư quán sát nhiều về sự sân hận, vị ấy từ bỏ ý nghĩ về vô sân, và tâm vị ấy có khuynh hướng thiên về sự sân hận” “If one frequently thinks and ponders upon thoughts of ill will, one has abandoned the thought of non–ill will and one’s mind inclines to thoughts of ill will.

Chánh niệm không chỉ là sự chú ý đơn thuần

Và một điều nữa cũng rất rõ ràng, chánh niệm là một trạng thái rất thiện lành. Nó là một tâm hành, sankhara, một thái độ hay phản ứngý thức về một đối tượng tâm thức nào đó. Chánh niệm là một thái độ trong sáng tĩnh lặng, nó có mặt với đối tượng mà không hề có một sự ưa thích hay ghét bỏ nào. Sân và hận cũng là những tâm hành, giống như những trạng thái bất thiện khác, nhưng chúng là những phản ứngtính cách ghét bỏ và ác cảm. Chúng hoàn toàn khác biệt lại với chánh niệm.

Vì vậy mà một người không thể nào kinh nghiệm sự ghét bỏ và tĩnh lặng trong cùng một lúc được, chúng là hai trạng thái tâm thức khác nhau rất xa. Nhưng dù vậy, ta vẫn có thể thay đổi tới lui thật nhanh giữa hai trạng thái này, mà đó là cũng là một tiến trình vận hành rất quen thuộc của tâm.

Ví dụ, khi ta nói là mình đang có chánh niệm về cái giận, thật ra là ta chỉ có ý thức về cái giận, hoặc là ta đang chú ý đến trạng thái giận của mình mà thôi. Ngày nay, sự thành công của chánh niệm áp dụng vào trong lãnh vực tâm lý trị liệu, và qua những khám phá mới của khoa học, cũng gây nên một sự mất mát là người ta thường nhầm lẫn chánh niệm chỉ là một sự chú ý đơn thuần mà thôi. Và theo môn tâm lý học Phật giáo ngày nay thì ta lại còn có thể đem tâm chú ý đến những trạng thái bất thiện của một kinh nghiệm, và ngay cả làm việc ấy một cách có chủ ý và theo một phương pháp cụ thể nữa.

Phương cách mà tôi muốn chia sẻ

Nhưng thật ra sự chú ý chỉ có thể trở nên chánh niệm khi nào nó vắng mặt những trạng thái bất thiện. Khi ta giận ta có thể biết rõ là mình đang giận. Nhưng cái biết ấy sẽ không hề mang lại một sự chuyển hóa nào. Chúng ta chỉ có chánh niệm về cơn giận khi nào nó đã trở thành bóng dáng, tiếng vang của chính nó trong giây phút tâm kế tiếp. Và khi đó cơn giận ấy mới có thể được quan sát như là một đối tượng của tâm, với một thái độ chú ý và không dính mắc – nói một cách khác, bằng chánh niệm.

Và đây là phương cách mà tôi muốn chia sẻ: Khi có một sự giận dữ nổi lên, ta không thể nào chuyển hóa được nó bằng cách “có chánh niệm về cơn giận của mình.” Năng lượng của cơn giận quá mạnh, và xung lực cảm xúc của nó cũng rất mãnh liệt, tâm ta không đủ trong sáng trong giây phút ấy để cho phép một chánh niệm thật sự khởi lên.

Nhưng dù vậy ta vẫn có thể chú ý đến sự biểu hiện của cơn giận ấy trong thân ta – cơ thể của mình cảm thấy như thế nào khi ta nổi giận? Và khi ta nhìn sâu và khám phá những dấu hiệu này nơi thân một cách chi tiết và sâu sắc hơn, một thái độ thận trọng quan sát sẽ dần dà được phát triển. Ví dụ, bạn có thể thử ghi nhận cái sắc thái, sự co thắt của những bắp thịt ở quai hàm trên mặt đang thay đổi một cách vi tế, từ giây phút này sang giây phút kế.

Chánh niệm trên đối tượng của tâm

Với phương pháp này, ta có thể buông xả được cái ý nghĩ và ký ức về những gì đã làm kích động nên cơn giận ấy, và kinh nghiệm được những giây phút chánh niệm trên cơ thể mình. Và khi ta thiết lập được một số năng lực của thiện lành, ta có thể từ từ chuyển sự chú ý của mình sang để quán sát cảm xúc của ngay chính cơn giận ấy.

Bây giờ, cơn giận không còn là một cảm xúc bừng cháy và thiêu đốt bất cứ những gì nó kinh nghiệm nữa, mà đã trở thành một tư tưởng hay ký ức về cảm xúc ấy. Cơn giận lúc này đã trở thành một đối tượng của tâm, không còn là một tâm hành, và nó có thể được quán chiếu bằng sự tĩnh lặng và với chánh niệm. Cơn giận không còn trói buộc và sai xử tâm mình nữa, mà chỉ còn là một đối tượng của sự chú ý, nằm ngoài xa mà thôi.

buông xả mới có chánh niệm

Và chỉ trong tình trạng ấy, chánh niệm mới có được năng lượng chuyển hóa. Bạn có thể chú ý đến cơn giận của mình cả ngày, và cho phép nó có mặt “mà không phê phán”, trong khi nó vẫn cứ thiêu đốt sâu vào con tim mình. Nhưng chỉ khi nào ta có thể buông bỏ được cơn giận ấy, dù chỉ trong một giây phút ngắn, thì chánh niệm mới có điều kiện để có mặt. Và đến khi nào chánh niệm có cơ hội thấm nhập sâu xa vào thói quen, tập quán và cá tính của mình, thửa đất tâm của ta sẽ dần dà bớt nuôi dưỡng những hạt giống của sân hận, và trở nên mầu mỡ cho sự phát triển của những cây trái tuệ giác.

Và rồi ta sẽ thấy rằng, mỗi lúc một rõ rệt hơn, cái giận cũng chỉ là một trạng thái biến đổi và nó không thuộc về của ai, nó được khích động do bởi một cái tôi nhỏ nhen và đầy sợ hãi, rồi làm phát sinh lên khổ đau. Với một cái thấy ấy, những trạng thái bất thiện lành sẽ bớt khởi lên hơn và cũng trở nên bớt mãnh liệt hơn.

Sự chú ý cần phải được phát triển để trở thành chánh niệm, nếu như chánh niệm muốn được phát triển để thành tuệ giác.

Nguyễn Duy Nhiên
(http://nguyenduynhien.blogspot.com/)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10204)
“Theravāda Tantra”, hay “esoteric practices of Theravāda ” là những thuật ngữ mà các học giả phương tây sử dụng để gọi các pháp hành mang tính bí truyền của...
(Xem: 9862)
Nghiệp quả: Quả chín (trên năm uẩn), * Quả tương đương với nhân,# Nghiệp quả qua hoàn cảnh
(Xem: 15105)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 7926)
Những truyền thống khác nhau của Tây Tạng đến từ Đức Phật - Kadam, Sakya, Kagyu, và Nyingma - tất cả theo sự trình bày của những ...
(Xem: 9582)
Chủ đề về tánh không bao hàm tất cả giáo huấn Phật Giáo bởi vì chính Đức Phật hít thở bằng tánh không (hiện hữu, trường tồn và sống trong tánh không)
(Xem: 9619)
Từ Bi, có nghĩa là tình thương yêu rộng lớn đối với muôn loài hữu tình chúng sanh (loài ngườisúc vật). Tình thương rộng lớn này được...
(Xem: 8126)
Pháp thân Phậttánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thânquang minhHóa thân là thân vật chất;
(Xem: 10291)
Thường nghe rằng, cửa ngõ vào Chánh đạo, sự phát tâm quan trọng nhất; việc gấp trên đường tu, không gì hơn lập nguyện.
(Xem: 8703)
Không có hiện tượng nào đang tồn tại mà không phải là kết quả của nhân duyên
(Xem: 9148)
Đức Phật có nói: "Như Lai đã đạt đến sự hiểu biết rõ ràng về điều nầy, nghiệp lực, xuyên qua trí huệ cao cả của chính Như Lai."
(Xem: 9020)
Sau khi Đức Phật giác ngộ, bài giảng đầu tiên của ngài tập trung vào Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế), đó chính là nền tảng của Đạo Phật.
(Xem: 8164)
Bốn dấu ấn của hiện hữu, Phạn ngữ gọi là caturlaksana, Pà li ngữ là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 8933)
Chúng ta cần phải quy y Tam bảo để cứu mình ra khỏi đường hiểm khổ đau, đến chỗ an vui giải thoát.
(Xem: 25735)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 9047)
Để phân biệt với người không Phật tử, có sự quy y hay phương hướng an toàn, và để phân biệt với con đường Tiểu thừa, có sự quy y của Đại Thừa.
(Xem: 14403)
"Lý thuyết Nhân tính qua kinh tạng Pàli" là đề tài luận án Tiến sĩ do Thượng tọa Thích Chơn Thiện thực hiện và đệ trình tại Đại học Delhi
(Xem: 8197)
Thưa đại đức! Khi thọ khổ phát sanh, bậc A-la-hán chỉ thọ có một khổ thọ ấy, còn phàm phu thì thọ luôn cả hai thọ khổ, có phải vậy chăng?
(Xem: 8568)
Con số 84.000 trong do ngài An Nan thuật lại trong Trưởng Lão Kệ của Tiểu Bộ chính là 84.000 Pháp tức “dhamma” trong tiếng Pāḷi.
(Xem: 11890)
Đạo Phật không mang đến cho ta tiền tài hay danh vọng mà chỉ cho ta tình yêu thương bất diệthạnh phúc đích thực miên viễn trong dòng khổ đau của nhân sinh
(Xem: 9038)
Theo truyền thống sinh hoạt tu học của chư Tăng Ni từ thời Đức Phật còn tại thế, cứ đến ngày kết thúc một mùa an cư thì Đức Thế Tôn cùng chư Tăng Ni đều...
(Xem: 10355)
Mối quan hệ sâu đậm với một vị thầy tâm linh có thể là sự nối kết thăng hoa và quan trọng nhất trong một đời người.
(Xem: 8341)
Thức( vijnana) là dòng trôi tương tục dao động sáng tạo với những biểu đồ phức tạp được chi phối bởi những hệ quy chiếu mang màu sắc chủ quan
(Xem: 8959)
Không ai có khả năng biết được, sự bắt đầu của thế giới luân hồi (trong các cuộc sống diễn tiến liên tục, ở trong vòng sinh tử).
(Xem: 9976)
Đức Phật Thích Ca đã thường nói về Năm Uẩn, cũng còn được gọi là Năm Tập Hợp, hoặc là Năm Đống Hàng Cao Như Ngọn Núi.
(Xem: 9436)
Dục là nguyên nhân của khổ đau, nguồn gốc của dục có từ vô thỉ, sự trói buộc của nó đối với chúng sanh trong luân hồivô lượng kiếp.
(Xem: 8177)
Từ ngữ Niết Bàn xuất phát từ nguồn có ý nghĩa là "Dập tắt ngọn lửa", để nói đến việc dập tắt đi những ngọn lửa tham lam, sân hận, và si mê (tham sân si).
(Xem: 9469)
Niết bàn được xem là mục đích cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thóat khỏi các kiết sử tùy miên...
(Xem: 8498)
Như tâm, Phật cũng vậy Như Phật, chúng sanh đồng Nên biết Phật cùng tâm Thể tánh đều vô tận
(Xem: 10936)
Hoa Sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiếtthánh thiện, sự duy trì và phát triển Phật pháp, trí tuệ dẫn đến Niết Bàn.
(Xem: 9075)
Con người sinh ra trong thế giớidần dần, ngoài những sự vật đã có trong thiên nhiên, sáng chế ra những sự vật để dùng trong cuộc sống.
(Xem: 10510)
Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy, chúng ta chỉ có cặp mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên một là tất cả, chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất cả đặc điểm của Phật giáo.
(Xem: 8280)
Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại.
(Xem: 10267)
Tất cả các pháp nhân duyên sanh Thể tánh chẳng có cũng chẳng không Ở nơi nhân duyênsanh khởi Trong đó đều trọn không chấp trước
(Xem: 10444)
Nhân sau cùng sinh quả dị thục, Nhân đầu tiên sinh quả tăng thượng, Nhân đồng loại, biến hành sinh quả đẳng lưu, Nhân câu hữu, tương ưng sinh quả sĩ dụng
(Xem: 8993)
Đức Phật thị hiện là một con người như mọi người, điều này khẳng định cho chúng ta biết ngài không phải là thần linh, thị hiện ở núi non kỳ dị.
(Xem: 8241)
Tâm Bồ Đề (skt:Bodhicitta) là tâm giác ngộ, tâm thấy được bản mặt thật của chư pháp, tâm tin nơi nhân quảPhật Tánh nơi chúng sanh cũng như luôn dụng công tu hành hướng về quả vị Phật.
(Xem: 16615)
Muốn hết Nghiệp thì Tu ! Thì, Trì Chú ! Đó là “Thực Phẩm ngon” của Người Tu Hành xưa cũ.
(Xem: 12274)
Phật Học Vấn Đáp - Duy Thức Học Phần thứ 8; Lý Bỉnh Nam giải đáp, Thích Đức Trí chuyển ngữ
(Xem: 12235)
Hãy nương tựa vào chính mình, tự xem mình là ngọn đuốc soi đường cho mình, là nơi an trú cho mình, mà không cần một nơi an trú nào khác cả...
(Xem: 8773)
Nguyên tác: Background for Understanding Bodhichitta, Tác giả:Alexander Berzin/ Riga, Latvia, July 2004; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10198)
Giáo thuyết tối thượng tịnh hóa tâm thức, Là việc vắng mặt sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 8518)
Điều cương quyết để thọ tám chi của Luật nghi này, là phải có tối thiểu một vị Tỷ-kheo làm giới sư truyền thọ, chứ không thể tự một mình phát nguyện thọ trì được.
(Xem: 9050)
Trong Đạo Phật thuật ngữ tự ngã có hai ý nghĩa phải được phân biệt nhẳm để tránh nhầm lẫn. Một ý nghĩa của tự ngã là ‘cá thể’ hay ‘chúng sinh’.
(Xem: 10336)
Có nguồn gốc từ Ấn-độ, là tín lý căn bản trong Ấn-độ giáo, Phật giáo cũng như Kỳ-na giáo, và cả đến đạo Sikh; được truyền vào Trung hoa rất sớm, dịch là nghiệp,
(Xem: 8727)
Cận trụ nguyên ngữ Sanskrit là là upavāsatha, Hán phiên âm là ô-ba-bà-sa, Ưu-ba-bà-tố-đà, Ưu-bà-sa, U-ba-bà-sa, Ô-bô-sa-tha v.v…
(Xem: 8205)
Nói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thểxúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề...
(Xem: 8738)
Nguyên tác: Introduction to Bodhicitta - Tác giả: Alexander Berzin/ Riga, Latvia, June 2003 - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8081)
Đẳng lưu nhân-quả, là một trong những tư lương quan trọng trên con đường trung đạo, trong lộ trình tu tập thông đạt chánh kiến về duyên khởi hay mười hai chi duyên.
(Xem: 7853)
Ly Hệ Quả Sanskrit gọi là Visamyogaphala. Visam là thoát ly, tách rời, đoạn trừ, ly khai. Yoga là tương ưng, liên hệ. Nên Ly hệ, visamyoga: dứt khỏi sự trói buộc.
(Xem: 9547)
Tôi đã tìm thấy chìa khóa của hạnh phúc, và tôi đã bị thuyết phục rằng, tôi đã vượt qua mọi nhà sư khác về sự cao quý. Nhưng mỗi khi tôi rời thiền đường, những cánh cửa lại thì-thầm, 'Tất cả là không.'
(Xem: 8714)
Từ nơi Thánh Trí tối thượng ba-la-mật, đức Thế Tôn tuyên thuyết Kinh Năng Đoạn Kim Cương, nên Kinh này dạy rất nhiều vấn đề cốt lõi của giáo Pháp.
(Xem: 10667)
Như lý tác ý (Yoniso manasikàra) hay còn gọi là như lý khởi tư duy là một thuật ngữ Phật học dùng để nói về cách nhìn sự vật hay hiện tượng một cách đúng đắn theo quan niệm của đạo Phật.
(Xem: 15092)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Śīla: học xứ, học giới,... nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể.
(Xem: 12782)
Nếu chúng ta thật sự quan tâm về tương lai chính chúng tahạnh phúc an lạc của chính đời sống của mình, chúng ta nên phát triển một thái độ tinh thần trong điều mà thực hành từ bi đóng một vai trò trung tâm.
(Xem: 8100)
Những giới khinh của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân thành bảy nhóm gây thiệt hại...
(Xem: 16689)
Chúng ta cũng có thể sử dụng cách dịch phổ thông hiện này là: Như Thị Ngã Văn 如是我聞: Tôi nghe như vậy, tôi nghe như thế v.v...
(Xem: 6242)
“Phật y trên năm hạng chủng tánhthành lập năm thừa: Chủng tánh Thanh văn thừa; Bích-chi-phật thừa; Như lai thừa; Bất định thừa; và vô tánh thừa.
(Xem: 9551)
46 đại nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà...
(Xem: 7012)
Bốn pháp căn bản thành tựu thần lực, bốn cơ sở để có sức mạnh tinh thần hay sức mạnh tâm linh....
(Xem: 7697)
Quán Thế Âm, ngữ nguyên Sanskrit là Avalokiteśvaras, āvalokiteśvaro, avalokiteshvara là danh từ số ít Phạn ngữ, Hán dịch là Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant