BÁT CHÁNH ĐẠO
Con Đường Đến Hạnh Phúc
Tác Giả: Thiền Sư Bhante Henepola Gunaratana
Việt Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh
Lời Kết
Lời Hứa Khả Của Đức Phật
Sự phân chia con
đường đạo của Đức Phật ra tám bước không có nghĩa là ta phải bước từng bậc.
Không cần phải làm chủ được bước này trước khi tiến đến bước khác. Đạo lộ đó
giống như một vòng xoắn ốc. Khi đã bắt đầu bước trên đường, là bạn đã có một số
hiểu biết về tất cả tám bước. Khi bạn tiếp tục thực hành, các bước này ngày
càng trở nên rõ ràng hơn trong tâm bạn, và bạn có thể tiến lên giai đoạn kế
tiếp.
Tuy nhiên, có một
số phương cách có thể giúp ta nghĩ về đạo lộ đó như là một tổng thể. Rõ ràng là
tham, sân, và si, là ba pháp bất thiện độc hại nhất và là nguồn gốc của tất cả
mọi khổ đau. Đối nghịch với chúng là ba ngành quan trọng nhất của đạo lộ: Chánh
Kiến về giáo lý của Đức Phật; Chánh Tinh Tấn để chế ngự tham, sân, si; và sự
thực hành Chánh Niệm như là phương tiện để chế ngự các pháp bất thiện này. Ba
ngành này –Chánh Kiến, Chánh tinh tấn và Chánh niệm- hỗ trợ lẫn nhau, vận hành
cùng nhau để giúp ta tiến bước trên đạo lộ.
Muốn thấu hiểu
được giáo lý của Đức Phật, hành giả cần có nhiều nỗ lực. Chắc chắn sẽ dễ dàng
hơn nếu ta không phải cố gắng, không cần thay đổi, cứ sống dễ dãi và tiếp tục
suy nghĩ, hành động theo như các thói quen mà ta đã huân tập. Tuy nhiên Đức
Phật đã dạy rằng một khi chúng sanh không nhận biết chân lý, họ sẽ nghĩ rằng họ
không có vấn đề gì hoặc vấn đề của họ không thể giải quyết được.
Tuy nhiên, nếu bạn
có nỗ lực, bạn sẽ hiểu nhiều hơn. Chánh niệm có thể hỗ trợ bạn. Thật ra, nếu
không có chánh niệm, bạn sẽ không bao giờ hiểu gì hết! Bạn có thể nỗ lực; bạn
có thể tranh đấu; nhưng nếu không có chánh niệm, bạn sẽ không bao giờ tiến bộ
trong sự hiểu biết của mình. Với chánh niệm, bạn có thể nhận biết chân lý về
khổ, nguồn gốc của nó, sự tận diệt của nó và con đường dẫn đến sự tận diệt đó.
Hơn thế nữa khi thực hành chánh niệm, bạn sẽ nỗ lực để giải thoát tâm khỏi
tham, sân, và si. Do đó thực hành chánh niệm đòi hỏi phải có nỗ lực, và sự kết
hợp của chánh niệm và nỗ lực giải thoát tâm khỏi tà kiến.
Các chi ngành khác
trong Bát Chánh Đạo cũng dựa trên ba yếu tố này. Chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng và chánh định chỉ có thể được vun trồng với sự hỗ trợ
của chánh kiến, chánh tinh tấn và chánh niệm. Không có chánh kiến, bạn sẽ
không thể hiểu tại sao việc tu tập để chuyển hóa cuộc đời bạn là quan trọng.
Không có chánh tinh tấn, bạn sẽ không thể nào tiến đến mục đích chuyển đổi tích
cực. Và chánh niệm là công cụ hoàn hảo bậc nhất của ý thức và chú tâm để giúp
bạn chế ngự tâm bất thiện, và phấn đấu đến giải thoát.
Một cái nhìn khác
về cách mà tám bước của Bát Chánh Đạo vận hành với nhau như thế nào là chia
chúng thành ba nhóm: giới, định, và tuệ. Mỗi nhóm thúc đẩy bạn tiến đến việc
thực hành nhóm kế tiếp tới và tiến đến sự thông suốt hơn về Bát Chánh Đạo như
là một tổng thể. Làm thế nào để được như thế?
Nhóm đầu tiên bắt
đầu với một số hiểu biết nào đó. Thí dụ, ta hiểu rằng tham khiến ta thất vọng
như thế nào, vì thế ta bắt đầu thực tập xả. Ta cũng hiểu sân hận mang đến đau
khổ cho ta và người khác như thế nào, vì thế ta quyết định thực hành thương yêu
và bi mẫn. Ba tư duy này - xả, tình thương, và lòng bi mẫn- là chánh tư duy.
Muốn vun trồng những tư duy tích cực này, ta phải có trí tuệ. Trí tuệ này
phát xuất từ chánh kiến. Do đó, chánh kiến và chánh tư duy kết hợp với
nhau như là một khía cạnh trí tuệ của Bát Chánh Đạo.
Nhóm thứ hai phát
sinh từ nhóm thứ nhất. Khi quán sát cuộc đời mình với con mắt trí tuệ, ta sẽ
thấy hạnh phúc và an bình biết bao khi ta biết suy nghĩ và hành động
thiện. Trí tuệ cũng giúp ta hiểu rằng những đau khổ mà ta phải hứng chịu
là do tham ái, bám víu mà ra, và rằng khi ta hủy diệt được những nguyên nhân
này thì khổ sẽ chấm dứt. Sự hiểu biết này thúc đẩy ta sửa đổi hành động của
mình. Vì ta thấy rằng nói dối, nói lời ác độc, nói lời thô tục và nói xấu
đem lại đau khổ, ta tránh các loại ác ngữ và quyết định chỉ nói những lời lễ
phép và đầy ý nghĩa. Vì ta thấy rằng đau đớn và thương tâm là do các hành động
giết, trộm cắp, sử dụng các chất gây mê, và tà dâm, ta tránh những hành
động tiêu cực này. Thay vào đó, ta tôn trọng sự sống của những chúng sinh khác
và cố gắng để cứu họ; ta tôn trọng tài sản của người khác; ta tránh sử dụng
những chất gây mê và không quan hệ tình dục bừa bãi. Vì ta hiểu có những khổ
đau, tai họa gây ra do các phương tiện kiếm sống không lành mạnh, ta cố gắng
kiếm sống một cách lương thiện để hỗ trợ cho sự tu tập tâm linh của mình. Những
sự thay đổi bên ngoài do ảnh hưởng của chánh ngữ, chánh nghiệp, và chánh mạng
được nhóm lại với nhau như là một khía cạnh đạo đức (giới) của đạo
lộ.
Nhóm thứ ba dựa
trên sự hiểu biết rằng nếu chỉ có những sự thay đổi bên ngoài thôi, ta sẽ không
thể chấm dứt được khổ. Ta cũng biết rằng hành động bắt đầu bằng ý nghĩ và
những ý nghĩ bất thiện tự chúng sẽ đem đến cho ta rất nhiều khổ đau. Do đó ta
cố gắng để rèn luyện, kỷ luật tâm. Khi bắt đầu quán sát tâm mình, ta thấy
rằng dầu ta có ý hướng thiện, nhưng các bất thiện pháp như tham, sân, si, và
nghi vẫn khởi lên trong tâm thức ta. Ta cũng nhìn thấy xa hơn nữa rằng
phương cách duy nhất để chống lại các cạm bẫy của tâm là áp dụng sự tinh tấn
miên mật và thành khẩn để tránh các thói quen suy nghĩ tiêu cực, để chế ngự
chúng khi chúng phát khởi, và để gieo trồng, duy trì các thiện pháp. Hơn
thế nữa, ta thấy rằng chánh niệm rất cần thiết cho sự chuyển hóa tích cực, ở
ngoại tại cũng như nội tâm. Nếu không có định, ta khó phát triển được tâm
chánh niệm, vì chính định giúp ta nhìn thấy sự việc như chúng thật sự là. Ba
yếu tố này –chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định– kết hợp lại với nhau như
là khía cạnh định Bát Chánh Đạo.
Vì thế, hết lần
này tới lần khác, chúng ta luôn thực hành tám bước của con đường đạo này. Với mỗi lần thực hành, lòng tham, sân, và si của ta lại giảm bớt. Với mỗi
lần thực hành, sự hiểu biết của ta về sự thật của khổ, nguyên do của khổ và
cách để tận diệt khổ sẽ thâm sâu hơn. Không cần biết lúc bắt đầu, trình độ hiểu
biết của bạn ra sao, kết quả của con đường đạo vẫn không khác -chấm dứt khổ
đau, và cuối cùng, là mức độ cao nhất của hạnh phúc và bình an.
Nhiều người không
tin có giác ngộ. Trên các diễn đàn trong internet (chat room) thảo luận về Phật
pháp, tôi nhận thấy có một số người dùng lời lẽ mạ lỵ -những lời thô tục, giận
dữ- để nói về giác ngộ. Có thể họ đã hiểu sai về giác ngộ. Giác ngộ không
gì hơn là sự đoạn diệt niềm đau cháy bỏng do tham, sân, si tạo nên. Giác
Ngộ dập tắt đi một lần và mãi mãi ngọn lửa của sinh, già, bệnh, chết, buồn,
khổ, đớn đau, và thất vọng.
Có thể người ta
chế diễu sự giác ngộ vì sợ rằng khi họ dập tắt ngọn lửa đó, họ sẽ không còn gì
để sống tiếp trong bóng tối lạnh lẽo của thất vọng. Có thể họ đã lẫn lộn ngọn
lửa nội tâm đau đớn với ngọn lửa đã khơi dậy nền văn minh, hay với ngọn lửa của
điện lực. Nhưng khi ngọn lửa khổ đau của ảo tưởng được dập tắt, những gì hiện
ra sau đó không phải là không khí lạnh lẽo của một đêm đông đen tối. Đó không
phải là một trạng thái u ám, thiếu sinh khí. Không như thế chút nào. Khi ngọn
lửa của tham, sân, si, sinh, già, bệnh, chết, đau đớn, khóc than, phiền não . .
. đã được dập tắt, kết quả là sự an bình trọn vẹn, thanh tịnh trọn vẹn, và hạnh
phúc không thể diễn tả, trong khi tâm và các giác quan, cùng lúc, một trăm phần
trăm trong sáng, thanh cao, đầy sinh lực. Giác ngộ là ánh sáng của nội tâm, sự
chiếu sáng, sự ấm áp của nội tâm.
Khi đã đặt xuống
gánh nặng của tất cả mọi phiền não trong tâm –tham, sân, si– thân và tâm sẽ cảm
thấy thật khỏe khoắn. Chúng ta không quen với cảm giác nhẹ nhàng này. Chúng ta
đã quen có một cái đầu đông cứng, một trái tim trĩu nặng, một thân thể phục
phịch. Viễn ảnh có được một trái tim thanh thoát như thế khiến chúng ta e dè.
Chúng ta sợ rằng sự nhẹ nhàng thanh thoát đó sẽ khiến đầu ta lơ lửng. Sự
nặng nề, sự đau khổ đã quá quen thuộc đến nỗi chúng ta sợ rằng mình sẽ cảm thấy
mất phương hướng nếu ta buông bỏ chúng.
Điều này đã xảy ra
cho một người bạn của tôi. Do công việc anh ta phải chuyển nhiệm sở và
dọn đến một căn hộ cạnh một ga xe lửa ồn ào. Lúc đầu, anh không thể ngủ được vì
sự ồn ào nơi nhà ga. Một vài năm sau anh lại phải dọn nhà lần nữa. Căn hộ
mới của anh rất yên tĩnh. Lần nữa, trong nhiều đêm, anh ta không thể ngủ. Anh
đã trở nên quá quen thuộc với tiếng động, với sự ồn ào mà anh thực sự cần để
thư giãn và đi vào giấc ngủ! Tương tự, chúng ta cũng đã quá quen thuộc với tâm
phiền não, khổ đau đến nỗi chúng ta sợ sự thay đổi.
Điều này cũng
khiến tôi nhớ đến câu chuyện về một người mà tôi đã đọc được trong báo khi tôi
sống ở Washington D.C. Người này phải chịu án chung thân vì tội giết
người. Nhờ chấp hành kỷ luật nghiêm túc, sau mười năm, anh ta được ân
xá. Một phóng viên phỏng vấn anh. “Chắc ông rất hạnh phúc khi biết mình
được ân xá?”
“Không. Đừng nói với tôi về việc ân xá,” người đàn ông trả lời một cách bực bội. Anh
nói rằng anh đã cảm thấy rất thoải mái với cuộc sống trong tù. Anh
ta tận hưởng những quyền lợi như được coi ti vi, và cuộc sống trong tù không có
những sự bất an như bên ngoài. Nhưng, tôi tự hỏi, có phải anh đã thực sự trở
nên quá quen thuộc với sự bạo động trong tù, sự hà khắc, sự tàn nhẫn của những
người cai tù? Có phải anh đã quên niềm vui được sống bên ngoài bức tường tù
tội, cảm giác của không khí mát mẻ, không gian rộng mở thông thoáng, những món
ăn ngon, sự tự do được gặp gỡ những người tự do khác, có phải anh đã trở nên
quá bám víu vào những điều kiện bên trong tù đến nỗi được tự do có vẻ xa lạ và
không hấp dẫn?
Những người chế
diễu, mạ lỵ giác ngộ hẳn cũng giống như người đàn ông trong tù kia. Họ bám víu
vào những gì họ đang có. Họ không muốn xa rời sự quen thuộc dễ chịu của
khổ đau. Nhưng họ không biết họ thiếu sót, mất mát điều gì.
Giác ngộ không
phải là một điều gì đó ta muốn là có được. Đó là một trạng thái mà bạn có được khi
tất cả mọi ham muốn đã không còn. Như Đức Phật đã dạy,
Nếu nước ở
khắp nơi,
ta cần gì đào
giếng?
Nếu đã bứng
sạch rễ tham,
ta còn tìm kiếm
gì?
(Ud
VII.9 [Do Ireland dịch])
Khi biết mình còn thiếu thốn điều gì đó, ta sẽ luôn đi tìm. Trái lại, khi
đã có tất cả mọi thứ mình mong muốn, ta sẽ thôi không tìm kiếm. Vì đã đạt
được hạnh phúc tuyệt đối, sự hòa hợp hoàn toàn, bạn cảm thấy bằng lòng để cho
mọi người khác cũng được sống trong hạnh phúc và hòa hợp.
Ở cuối bài kinh
Đại Niệm Xứ (Maha Satipatthana Sutta), Đức Phật đã đảm bảo rằng bất cứ ai thực
hành thiền chánh niệm theo lời chỉ dạy của Đức Phật thì người đó chắc chắn sẽ
đạt được giác ngộ ngay trong kiếp sống này. Nếu không được hoàn toàn giác ngộ
vì còn một số kiết sử vi tế cản trở, thì người đó ít nhất cũng trở thành một vị
Bất lai (non-returner), đạt được tam thiền. (D 22)
Đức Phật không hàm
ý rằng vị hành giả chỉ thực hành một phần giới hạn của đạo lộ mà có thể đạt
được Giác Ngộ. Muốn được giác ngộ bạn phải phát triển toàn vẹn mọi khía
cạnh của giới, định, và tuệ. Hơn thế nữa, trong lời hứa khả đáng ngạc nhiên
này, Đức Phật không chủ ý nói rằng một sự tu tập dễ dãi, không thường
xuyên -lúc có lúc không– là đủ. Trái lại, Ngài có ý dạy rằng để đạt
được giác ngộ, ta phải tu tập một cách tinh tấn, kiên trì và tự nguyện. Để đạt được định, sự nỗ lực của bạn phải được hỗ trợ bằng giới đức hoàn toàn
trong sáng. Thiền chứng của bạn phải thiện và nhất tâm. Tâm định mãnh liệt này
phải được vun trồng bởi tâm chánh niệm cũng mãnh liệt không kém. Rồi thì trí
tuệ giải thoát sẽ xuất hiện với sự hỗ trợ của giới luật thanh tịnh và chánh
định.
Tuy nhiên, một số
người vẫn còn nghĩ rằng những lời của Đức Phật là những lời hứa không thực tế.
Tôi không biết họ dựa vào đâu để nghi ngờ nó. Họ có giống như người ghét xuống
nước lại nghi ngờ rằng làm gì có ai lội nhanh như các vận động viên
Olympic? Hay giống như người chưa bao giờ chạy một bước lại nghi ngờ rằng
làm sao có ai chạy được hai mươi sáu dặm marathon? Dĩ nhiên lời hứa khả của Đức
Phật có vẻ không thực tế đối với những kẻ chưa từng ngồi trên gối thiền hay cố
gắng quán sát hơi thở mình trong một phút! Và lời hứa đó cũng không chắc chắn
đối với những ai đã ngồi thiền nhiều năm nhưng chẳng bao giờ thực hành cả tám
bước của Bát Chánh Đạo bao gồm giới, định, và tuệ.
Thực hành thiền
quán đòi hỏi những giới luật khắt khe. Bạn chấp nhận các giới luật này không
phải để gây ấn tượng đối với ai, mà là để giải thoát tâm khỏi những đau khổ gây
ra bởi chính những sự bất thiện của bạn. Nếu bạn đến với đạo lộ như một thú
tiêu khiển, hay một sự sưu tầm, thì bạn sẽ không bao giờ thành công. Tám ngành
của Bát Chánh Đạo không phải là những điều mà bạn chỉ nghiên cứu, tìm hiểu, rồi
chỉ đem ra thực hành khi cần. Đúng là bạn chỉ thực hành Bát Chánh Đạo khi
cần –nhưng bạn cần đến chúng mỗi giây phút trong cuộc đời bạn!
Tuy nhiên, sự
chánh niệm của bạn về tám bước trên con đường của Phật, không cần phải hoàn
thiện trước khi bạn có thể bắt đầu thực tập. Nếu sự chánh niệm của bạn về Bát
Chánh Đạo có thể bị suy giảm, đừng lo lắng. Chỉ cần chánh niệm về sự không
chánh niệm đó ngay khi bạn có thể. Sự thành công trên bước đường tu tập của bạn
tùy thuộc vào việc bạn có giữ được ý chí mạnh mẽ để luôn chánh niệm, chứ không
phải là việc bạn thực sự có khả năng làm được như thế hay không. Khi bạn tiếp
tục nhắc nhở bản thân phải chánh niệm, thì sự xao lãng càng ngày càng ít hơn,
cho tới một ngày, sự chánh niệm về con đường đạo trở nên tự động. Nếu bạn có
được sự nỗ lực như thế, bạn sẽ tiến bộ rất nhanh. Lúc đó bạn sẽ là loại đệ tử
mà Đức Phật đã nghĩ đến trong tâm khi Ngài lập lời hứa khả này.
HÃY ĐẾN ĐỂ THẤY
Quyển sách này chỉ
đưa ra những lời hướng dẫn căn bản để giúp bạn đi theo con đường đạo. Khi đã
tiến bộ trong việc thực hành, nếu bạn thỉnh thỏang xem lại, bạn có thể thấy là
nó vẫn còn hữu ích cho bất kỳ trình độ hiểu biết nào. Nhưng quyển sách này
không thể giải thích tất cả những điều bạn muốn biết về Phật pháp, về sự tu
tập, về kinh nghiệm của bạn và về những gì bạn sẽ đạt được. Mỗi cá nhân sẽ có
căn bản giáo dục, ý thức, sự hiểu biết về Pháp, và những trình độ tiến bộ tâm
linh khác nhau. Hơn thế nữa, ngày mai các câu hỏi của bạn sẽ rất khác với những
câu hỏi của ngày hôm nay.
Ngay chính Đức
Phật cũng không thể trong một bài kinh có thể nói hết về mọi khía cạnh cho mọi
người. Đó là lý do tại sao Ngài đã có hàng ngàn bài pháp. Quyển sách này chỉ là
một bảng tóm tắt của những điều này và một vài giải thích về những điểm quan
trọng nhất của chúng. Những gì còn lại bạn sẽ phải thêm vào qua sự thực tập của
mình. Giây phút hiện tại là thầy của bạn. Hãy biến nó thành một phòng thí
nghiệm cho chính cá nhân bạn. Hãy chú tâm. Hãy quán sát. Chỉ có bạn mới có thể
mang lại trí tuệ cho bản thân. Bạn thực hiện được điều đó bằng cách theo đuổi
các thiện pháp.
Những thính giả có
lòng nghi hoặc đã có lần hỏi Đức Phật rằng tại sao họ cần phải tin Ngài, khi họ
đã nghe quá nhiều những vị đạo sĩ khác, ai cũng tự nhận mình nắm được chân lý.
Đức Phật trả lời rằng họ không nên tin bất cứ điều gì chỉ vì một ai đó, ở đâu
đó, đã nói rằng đó là chân lý. Những nguồn tin được nghe qua, được báo cáo,
những niềm tin lưu truyền qua nhiều thế hệ, kinh sách được coi là thánh điển,
lời của một vị thầy được kính tin, và giáo huấn từ một ai đó mà bạn nghĩ là rất
thông thái -tất cả đều không có sự bảo đảm của chân lý. Đức Phật đã dạy rằng
tất cả những điều này không nên được chấp nhận chỉ dựa trên lòng tin.
Đức Phật cũng dạy
rằng ta không thể chỉ dùng lý trí để khám phá ra chân lý. Ngài thuyết rằng
không nên tin một điều gì đó chỉ vì nó có vẻ logic, hoặc dường như mang ta đến
gần với mục đích của mình hơn, hoặc thích hợp với chí hướng của ta hay có vẻ
đúng sau khi ta đã suy nghĩ về nó. Tại sao? Vì Pháp vẫn còn một khía cạnh
mà không có gì, ngay cả sự suy luận quán chiếu, có thể nắm bắt được: sự trải
nghiệm của bản thân ta.
Đức Phật đưa ra
một quy luật tổng quát đối với những gì chúng ta nên chấp nhận. Quy luật này
không dựa trên bất cứ loại lòng tin hay lý luận nào. Đúng hơn, Đức Phật dạy,
khi quán chiếu một hành động, hãy tự hỏi, dựa vào kinh nghiệm bản thân, rằng
một hành động như thế có tổn hại cho ai không, kể cả bản thân ta. Nếu nó tổn
hại, bất thiện, thì hành động đó không nên làm. Nếu nó hữu ích cho mọi người,
kể cả bản thân ta, và nếu người trí cũng chấp nhận thì nó là thiện. và hành
động đó nên làm. (A I (Ba) VII.65)
Sau đó Đức Phật
dạy thêm rằng ta cần phải quán sát lại sau mỗi hành động đã thực hiện. Ta
nên tự hỏi, “Hành động đó thực sự xảy ra như thế nào? Nó có thiện xảo không?”
Nếu không, và ta “phải nhận lãnh hậu quả với nước mắt,” thì hành động đó cần
phải được tránh trong tương lai. Trái lại, nếu hành động đó thiện xảo, và ta
“gặt được kết quả với niềm vui trong mắt,” thì hành động đó cần phải được làm
lặp lại. (Dh 67-68) Nếu ta chú tâm đủ và thành thật với bản thân về những
gì ta biết là đúng, thì –không cần phải tin vào bất cứ điều gì người khác nói-
ta có thể chọn lựa hành động để phát triển tâm thanh tịnh và trí tuệ, và điều
đó mang đến nhiều hạnh phúc cho ta. Chỉ có ta là người giữ chìa khóa đi
vào cửa giải thoát của mình. Chìa khóa đó là lòng quyết tâm để quán chiếu nội
tâm và quyết định hành động nào là thiện, mang đến cho ta những kết quả tốt
đẹp.
Bạn có muốn được
thấy Pháp không? Hãy quán chiếu những trải nghiệm của mình. Hãy sử dụng
kinh nghiệm bản thân như là một tấm gương phản chiếu Pháp. Tất cả bản tánh của
mọi chúng sanh cũng phản chiếu qua đó. Trong cuộc sống hằng ngày và trong từng
giây phút hiện hữu, ta có thể thấy tất cả những gì ta cần thấy ở bất cứ nơi
đâu: nhân quả, vô thường được biểu hiện qua dòng chuyển đổi không dừng ở mọi
mức độ, đau khổ có mặt ở bất cứ nơi nào có tham ái, chấp ngã, và sự thật rằng
dầu ta có cố gắng để tìm kiếm tự ngã một cách khổ sở như thế nào, ta cũng không
thể tìm thấy gì.
Bạn có muốn biết
về kinh nghiệm của mình không? Hãy quán tưởng Pháp. Qua đó bạn sẽ thấy tất cả
các thành phần và mẫu mực chung, không của riêng ai để tạo ra “con người bạn.”
Ở đó bạn cũng thấy rằng những gì bạn đã trải qua, trên căn bản, cũng giống như
những gì mà mọi chúng sanh khác đã trải qua. Pháp có mặt ở khắp mọi nơi.
Thí dụ, ngay cả khi quán sát một con bọ đang vẫy vùng trong tô nước, có thể
cũng bừng lên trong tâm trí bạn về thực tại của sự sợ chết mà bạn cũng như tất
cả mọi chúng sanh khác đều cảm thấy. Vạn pháp đều hiển lộ trong tất cả mọi mặt
của cuộc sống, trong từng giây phút, từng ngày. Nó có mặt ngay đó để ta nhận
dạng, không cần có một niềm tin mù quáng hay một lý thuyết luận giải nào. Từ
việc quán sát rốt ráo này, ta có được tự tin trong việc tu tập và tiến bước
trên con đường đạo.
Nếu ta không trở
nên quen thuộc, thành thạo với đạo lộ và nhận ra được chân Pháp từ chính kinh
nghiệm bản thân, thì tri thức ta thu thập được từ quyển sách này sẽ chỉ là lý
thuyết suông. Nếu tôi chỉ về hướng sao Bắc Đẫu, bạn có thể trố mắt nhìn tôi và
tự hỏi, “Tại sao ông ta chỉ về hướng đó? Lý ra ông phải chỉ về hướng kia mà?”
Làm sao ta có thể giải thích một ngôi sao với người chẳng bao giờ ngước mắt
nhìn lên trời vào ban đêm? Cho đến khi bạn có thể ngửa đầu để nhìn các ngôi sao
và theo dõi các phương hướng để quán sát bầu trời, hay cho đến khi bạn có thể
chỉ ra sao Bắc Đẫu, thì nghi hoặc vẫn còn trong tâm bạn. Tâm nghi hoặc sẽ dẫn
đến đủ loại câu hỏi. Nhưng khi bạn đã nhìn ra được sao Bắc Đẫu và tự quán sát
cách mà mọi thứ khác vận hành quanh nó, thì bạn không còn nghi ngờ gì nữa cả.
Tương tự, trước
khi đến đích của con đường, bạn sẽ còn nhiều câu hỏi về đạo lộ, về giáo lý, về
sự thực hành của bạn, và về lý do tại sao tôi đã nói một số điều như thế trong
quyển sách này. Làm sao có thể dùng từ ngữ để diễn giải được Niết bàn là như
thế nào, khi Niết bàn không phải là điều có thể thử nghiệm được? Kinh
nghiệm ta có được qua các giác quan, mà khi dùng bất cứ tên gọi nào để diễn tả
những trạng thái không thể trải nghiệm được, cũng đều sai lạc, vì chúng dựa vào
kinh nghiệm giác quan. Chúng ta đành phải bước theo các bước của Bát
Chánh Đạo đến tận cùng, để tự mình được thấy.
Bạn đã từng thử
chỉ cho con mèo thấy một vật gì từ xa chưa? Bạn càng cố đưa tay chỉ, con
mèo càng muốn gậm ngón tay bạn, và không bao giờ muốn nhìn xa hơn ngón tay
chỉ. Nếu bạn đọc xong quyển sách này và nói, “Chỉ có vậy thôi sao? Còn chân lý tuyệt đối thì ở đâu? Quyển sách này không giúp được gì cho
tôi”, thì bạn cũng đã làm giống như chú mèo rồi. Hãy nhìn xa hơn những gì
đã được nói trong sách. Hãy hành động theo lời Đức Phật dạy để tìm ra một
cách để hiểu khác. Hãy tự mình bước trên đạo lộ. Đạo lộ này trải
dài xuyên suốt mọi kinh nghiệm sống của bạn khi bạn gieo trồng sự thiện xảo
ngày càng nhiều hơn trong ý nghĩ, lời nói và hành động.
Khi bạn đã bước
những bước vững chãi, khéo léo trên đạo lộ để thanh tịnh hóa tâm, cuối cùng bạn
sẽ nắm bắt được chân lý về tính vô thường của vạn pháp, về khổ do tâm bám víu
vào các pháp vô thường, và về sự thiếu vắng một tự ngã trong tất cả những gì vô
thường và khổ. Bạn sẽ thấy tham ái sâu kết mọi khổ đau như thế nào. Lúc đó bạn sẽ tự mình thấy, và tất cả mọi nghi hoặc đều chấm dứt.
Nếu bạn không tin
vào những mục đích lớn hơn được nói đến trong sách, cũng chẳng sao; quyển sách
vẫn có thể ích lợi cho bạn. Hãy sử dụng quyển sách này để nó có thể giúp
bạn tự vấn về những trải nghiệm trong đời mình. Bất cứ điều gì xảy ra cho
bạn cũng đem lại một bài học. Đức Phật thường dạy, “Hãy đến để
thấy!” Qua đó, Ngài muốn khuyên ta hãy tự quán sát thân và tâm để tìm ra
chân lý, đó là Pháp. Bạn sẽ không thể tìm được ở bất cứ nơi nào khác.
Hiệu Đính & Tài Liệu
Tham Khảo
A Anguttara
Nikaya, Gradual Sayings, Kinh Tăng Chi Bộ, Chương 7, Số 65.
Việt
Dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu, NXB Tôn Giáo
D Dighta
Nikaya The Long Discourses of the Buddha, Trường Bộ Kinh
Thí dụ D 22 ý
chỉ Kinh số 22)
Việt Dịch: Hòa
Thượng Thích Minh Châu, NXB Tôn Giáo
Dh
Dhammapada, hay Word of the Doctrine, Kinh Pháp Cú
(Thí dụ: Dh 5 ám chỉ Kệ số 5)
Việt Dịch: Hòa
Thượng Thích Minh Châu, NXB Tôn Giáo
DhA Dhammapada Atthakatha, hay Dhammapada Commentary, Chú Giải Pháp Cú (Thí dụ: DhA 124 ý chỉ phần 124 của Chú Giải, giải thích Kệ số 124)
J Jataka,
hay Jataka Story, Chuyện Tiền Thân Đức Phật.
( Thí dụ: J 26
ý chỉ chuyện số 26)
M Majjhima
Nikaya, hay The Middle Length Discourses of the Buddha,
Kinh Trung Bộ ( Thí dụ: M 80 ý chỉ Kinh số
80)
Việt
Dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu, NXB Tôn Giáo
MA Majjhima Nikaya Atthakatha, hay Commentary to the Middle Length Discourses Buddha, Chú Giải Tăng Chi Bộ Kinh (Thí dụ: MA i 225 ý chỉ Bộ 1, trang 225 Bản Kinh Pali.)
Mhsv
Mahavamsa, hay the Great Chronicle of
(Thí dụ:
Mhvs V ý chỉ Chương 5.)
Miln Milindapanho, hay The Questions of King Milinda, Kinh Na Tiên Vấn Đáp.
(Thí dụ: Miln
33 [V], ý chỉ trang số 33; Chương 5 được thêm vào để giúp tìm ra
câu kệ.)
S Samyutta Nikaya, hay The Connected Discourses of the Buddha (Tương Ưng Bộ Kinh). Việt Dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu, NXB Tôn Giáo
Sn Sutta Nipata, hay the Group of Discourses II. ( Thí dụ: Sn 657 ý chỉ câu số 657)
Thag Theragatha, hay Poems of Early Buddhist Monks, (Các Bài Kệ Của Các Trưởng Lão Tăng). (Thí dụ: Thag 303 ý chỉ câu số 303)
Thig Thergatha, hay Poems of Early Buddha Nuns, (Các Bài Kệ Của Các Trưởng Lão Ni). (Thí dụ: Thig 213 ý chỉ câu số 213)
Ud Udana, hay Verses of Uplift. (Thí dụ: Ud VI.2 ý chỉ Chương 6, chuyện số 2.)
V Vinaya,
hay Book of the Discipline (Luật Tạng).
(Thí dụ: V ii
292 ý chỉ Bộ số 2, trang 292, bản kinh tiếng Pali)
Vsm
Visuddhimagga, hay The Path of Purification, Thanh Tịnh Đạo.
(Thí dụ Vsm I
[55] ý chỉ chương 1, đoạn số 55.)
(1) Mindfulness In Plain English (Chánh Niệm - Thực Tập Thiền Quán, dịch giả Nguyễn Duy Nhiên).
(2) Kinh Pháp Cú, Ni Trưởng Thích Nữ Huỳnh Liên chuyển dịch. (Lưu hành nội bộ)
(3) Con Đường Thiền Chỉ và Thiền Quán (Path Of Serenity & Insight, Thiền Sư Henepola Gunaratana), Tỳ Kheo Pháp Thông dịch, NXB Văn Hóa Sài Gòn 2002