Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Giáo Tại Anh Quốc

26 Tháng Sáu 201409:59(Xem: 10078)
Phật Giáo Tại Anh Quốc


Phật Giáo Tại Anh Quốc

 

Theo thống kê năm 2001, Phật giáo có 151.816 tín đồ tại Anh quốc. Đây là chưa kể những người có tín ngưỡng Phật giáo song song với các đức tin khác như Công giáo, Do-thái giáo, Đạo giáo, vv... và những người không thừa nhận mình là Phật giáo vì những lý do khác. Nhưng dầu sao, phải nói là dân Anh đang chú ý tới Phật giáo nhiều hơn.

 

Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương. Riêng ở Anh, một trong những học giả và dịch giả tài ba phải kể là Tiến sĩ Rhys Davids (1843-1922), con của một nhà giáo phẩm nổi tiếng của Anh giáo, đã nghiên cứu và dịch toàn bộ kinh điển Pali sang tiếng Anh, và sau đó đã tự nhận mình là người theo Phật giáo. Năm 1879, ngài Edwin Arnold tạo nên tập thơ hùng tráng tựa là "The Light of Asia" (Ánh sáng của Đông Phương) diễn tả lại cuộc đời của đức Phật. Tác phẩm nầy đã trở thành công trình Phật học cổ điển, và hiện nay vẫn còn được in để phổ biến khắp nơi.

 

Các tác phẩm Phật giáo hiếm hoi trong những năm đầu tiên ấy, tuy nhiên đã gây cảm hứng sâu đậm và làm cho một số người Tây phương bắt đầu nghiên cứuthực hành Phật giáo trong đời sống. Điển hình là ngài Allan Bennet, sang Tích-lan học Phật năm 1898, và trở về nước với pháp hiệu là Ananda Metteyya, vị sư người Anh đầu tiên được thọ giới Tì-kheo theo truyền thống của Phật giáo Nguyên thủy.

 

Năm 1907, một số người tụ họpthành lập Hiệp hội Phật giáo Anh quốc và Ái-nhĩ-lan. Sau đó, ngài Christmas Humphreys thành lập hội Phật học Luân-đôn, năm 1924. Đây là cơ sở thành công đầu tiên, để cho tất cả các trường phái và truyền thống Phật giáo có thể phát triển tại Anh quốc, trong vòng suốt 50 năm sau đó.

 

Thập niên 60 đã làm nổi bật các tôn giáo của Đông phương, kể cá Phật giáo. Trung quốc xâm chiếm Tây-tạng năm 1950, đã làm cho nhiều ngàn người Tây-tạng phải lưu vong, và đức Đạt-lai Lạt-ma phải đào thoát năm 1959. Một số vị lạt-ma đã đến các nước Tây phương, tạo thành nhiều nhóm Phật giáo. Tại Anh quốc hiện nay, hầu như tất cả các truyền thống Phật giáo đều có mặt.

 

Phật giáo ở Anh quốc có gì khác biệt với Phật giáo Đông phương?

 

Hình như chỉ có khác biệt về mặt văn hóa. Các chùa và tự viện Phật giáo ở Anh đều rập khuông theo kiểu Đông phương. Nếu bạn đến chùa Wat Buddhapadipa ở Wimbledon, chẳng hạn, bạn sẽ thấy nó chẳng khác gì một ngôi chùa Phật ở Thái-lan. Có điều khác biệt là chư Tăng Ni ở Anh không thể mặc y vàng và ôm bát đi khất thực ở ngoài chợ - bởi vì họ sẽ gặp phản ứng bất ngờ của khách qua đường, và sẽ không có ai bỏ thức ăn vào bát cho họ, như ở các xứ Đông phương. Ở xứ Anh, thực phẩm được tín đồ đem tới chùa, hay nấu nướng tại chỗ định sẵn. Tuy nhiên, về giáo lý thì nói chung họ vẫn còn trung thành với truyền thống của mình, trừ những khác biệt về văn hóa.

 

Vấn đề cải đạo tại Anh quốc

 

Có một số người tự nhận là họ đã cải đạo, nghĩa là đã lìa bỏ tín ngưỡng có sẵn của mình, và chuyển sang Phật giáo. Tuy nhiên, phần đông không cảm thấy như thế. Lý doPhật giáo không đòi hỏi sự độc quyền, nên nhiều người cảm thấy họ có thể hòa hợp dễ dàng Phật giáo với tín ngưỡng sẵn có. Chẳng hạn như những người Tây phương theo Thiên chúa Do-thái giáo vẫn giữ nguyên tín ngưỡng của họ, nhưng thực tập thêm thiền định của Phật giáo. Hay là những người Ấn giáo, Thiên chúa giáo, vv...chỉ thực hành Phật giáo như là một đường hướng tâm linh mới mẻ, mà không nghĩ là mình phải cải đạo.

 

Các ngày hội Phật giáo ở Anh quốc

 

Trong các ngày lễ hội Phật giáo hằng năm ở Anh quốc, ở các chùa và tự viện có không khí chuẩn bị rộn rịp và phấn khởi. Đồ ăn được nấu nướng tại chùa hay mang đến chùa, và lễ vật cho chưTăng gồm có tiền bạc, y áo, gia dụngthực phẩm cho kho nhà bếp. Phụ nữ mang lễ vật đến chùa trong lễ Phật đản, lễ Tự tứ (mãn Hạ) ở Manchester, vv...Những lễ hội thiêng liêng nầy, ngoài việc tụng kinh và thuyết pháp, còn là những dịp tốt để Phật tử chung vui - giống như trong những tôn giáo khác.

 

Tuy nhiên, những ngày lễ hội nầy không được Phật tử Tây phương luôn luôn đánh giá cao. Chẳng phải là họ không tham dự để chung vui, nhưng thường có cách biệt về văn hóa. Dầu sao, đây cũng là cơ hội để mọi người cúng dườngủng hộ chư Tăng Ni trong cuộc sống.

 

Các trung tâm Phật giáo ở Anh quốc

 

Phật giáo đã phát triển và biến thái trên thế giới, trải qua hơn 25 thế kỷ, trong nhiều nền văn hóa khác nhau. Vì thế, phương cách thực hành Phật giáo tại nhiều nơi, rất khác nhau. Riêng tại Anh quốc, trong mấy trăm năm qua, ta thấy có đủ loại hình thức chùa và tự viện được thành lập - phần lớn phát xuất từ Tích-lan, Trung quốc, Nhật Bản, các nước Đông Nam Á, và Tây-tạng. (Các mô hình được trưng bày ở) Butterlamp House trong Trung Tâm Samyeling (Dumfriesshire).

 

Một số chùa nầy được thành lập nhằm mục đích phục vụ các công đồng di dân, mặc dầu cũng mở cửa cho tất cả mọi người. Tăng Ni trong chùa, ngoài việc tụng niệm riêng - còn thực hành việc thuyết pháp,cầu nguyện và các nghi lễ khác cho Phật tử tại gia.

 

Có một số chùa dung hợp truyền thốngthực hành Phật giáo với đường hướng văn hóa Tây phương. Như những Phật tử Anh quốc, sau khi thọ giới ở Thái hay Nhật Bản chẳng hạn, trở về nước để thành lập các tu viện tại Anh, hay ở xứ khác. Những cơ sở nầy cũng tự nhận là truyền thống chánh thức của nhánh Phật giáo nào đó. Tuy nhiên, phương cách thực hành được cải biến theo văn hóa của họ. Thí dụ như là việc tụng kinh bằng tiếng Anh, phụ nữ được đối xử bình đẳng hơn, vv...

 

Tuy nhiên, có một số nhóm Phật tử Anh đặt trọng tâm trên vấn đề thực hành thiền định, và lơ là với phần còn lại của giáo lývăn hóa Phật giáo. Chẳng hạn họ không tụng niệm, lễ lạy hay tôn kính tượng Phật.Họ cũng không cho việc học tập kinh điển là quan trọng, mà chỉ nhấn mạnh việc thực hành thiền địnhchánh niệm trong đời sống hằng ngày.

 

Tương phản với nhóm nầy, cũng có một số tổ chức quyết định tiếp tục làm cơ sở phát triển cho tất cả mọi truyền thống Phật giáo trên thế giới. Họ không có ý định canh tân hay cải biến điều gì, nhưng vẫn mở rộng cho sự phát triển căn bản, điều nầy có thể dẫn tới một hình thức Phật giáo riêng của Anh quốc.

 

Hiện nay ở Anh, vẫn chưa có một nhóm hay hiệp hội nào có thể đại diện chung cho Phật giáo Anh quốc,mặc dầu đã có những nỗ lực trong chiều hướng nầy.

 

Vài cơ sở Phật giáo tiêu biểu ở Anh quốc

 

1) Tu viện Amaravati, Hertfordshire. Đây là một trong nhóm tu viện thành lập năm 1979 bởi ngài Ajahn Sumedho, một Tì-kheo Phật giáo Nguyên thủy sanh tại Mỹ, thuộc truyền thống Thái-lan Lâm phái (Forest tradition). Tu viện Amaravati gồm cả Tăng và Ni, có nơi tu học cho Phật tử tại gia, và một thư viện - mở cửa cho khách thăm viếng nghe phápthực tập.

 

2) Hiệp hội Phật giáo Luân-đôn. Một trong những tổ chức Phật giáo đầu tiên ở Anh quốc, do ngài Christmas Humphreys, QC thành lập năm 1924. Họ tổ chức thuyết pháp và mở lớp dạy Phật học cho mọi môn phái Phật giáo, và có một thư viện

 

3) Trung tâm Phật giáo Jamyang, Luân-đôn. Thuộc phái Geluggpa của Tây-tạng, do ngài Geshe Tashi Tsering điều khiển. Họ tổ chức các khóa Phật họcthực hành cho mọi trình độ.

 

4) Trung tâm Tây-tạng Kagyu Samye Ling, Dumfriesshire. Thành lập năm 1967 do hai sư Trụ Trì tị nạn,nay do tiến sĩ Akong Tulku Rinpoche và Lama Yeshe Losal điều khiển. Đây là một tu viện và cũng là một trung tâm tổ chức các khóa dạy Phật học và những đề mục khác.

 

5) Tu viện Throssel Hole, Northumberland. Thuộc nhánh Thiền Tào-Động Nhật Bản, thành tập năm 1972 do Sư Cô người Anh tên Jiyu-Kennett, nay do Sư Daishin Morgan điều khiển, mở cửa cho Phật tử tại gia.

 

6) Chùa Wat Buddhapadipa, Wimbledon, Luân-đôn. Đây là ngôi chùa thành lập đầu tiên ở Anh quốc, nhằm mục đích truyền bá Phật giáo đến Âu Châu, về cả lý thuyếtthực hành.

 

(Trích tài liệu từ Wikipedia, Phuớc Thiệt dịch sang Việt ngữ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 173)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 203)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 225)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 291)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 206)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 255)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 348)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 311)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 304)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 383)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 615)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 476)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 484)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 582)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 754)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 839)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 858)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 845)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 737)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 711)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 814)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 833)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 942)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 718)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 617)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 714)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 826)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 718)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 708)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 825)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 852)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 827)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 864)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 902)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 887)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1087)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 953)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1675)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1066)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1211)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 956)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1215)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1116)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1124)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1280)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1561)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2036)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1096)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1354)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1098)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 947)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1065)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1100)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1536)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1287)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1293)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1027)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant