Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 1: Hướng dẫn về sự chết và lâm chung

25 Tháng Hai 201520:16(Xem: 7546)
Phần 1: Hướng dẫn về sự chết và lâm chung
QUÁN CHIẾU VỀ SỰ TIẾP CẬN PHẬT GIÁO THỰC TIỂN 

Reflections on the Realistic Approach of Buddhism:
Talks to Former Dharamsala Residents from the West
His Holiness the Fourteenth Dalai Lama 
Dharamsala, India, November 2 – 3, 2010 
Ghi lại:  Sean Jones và Michael Richards 
Hiệu đính: Luke Roberts và Alexander Berzin
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển



PHẦN 1: HƯỚNG DẪN VỀ SỰ CHẾT VÀ LÂM CHUNG


Hướng Đến Một Đời Sống Đầy Đủ Ý Nghĩa
Trước nhất tôi xin chào mừng tất cả. Nhiều người trong quý vị là những người bạn rất, rất cũ, những người bạn lâu năm, và những người bạn không thay đổi. Cho nên điều ấy rất tốt.

Ba mươi, bốn mươi năm đã qua từ khi quý sinh sống và học tập ở chốn này. Thân thể chúng ta đã thay đổi. Nói một cách tổng quát, ngay của phép mầu hay thiền tập cũng không thể làm cho nó dừng lại. Chúng tavô thường, luôn luôn thay đổi, thay đổi từ thời khắc này sang thời khắc khác và đấy là một bộ phận của tự nhiên. Thời gian luôn luôn chuyển dịch; không năng lực nào có thể làm nó dừng lại. Vì thế câu hỏi thật sự là chúng tasử dụng thời gian một cách thích đáng hay không. Chúng tasử dụng thời gian để tạo nên nhiều rắc rối hơn cho người khác hay không, là điều mà một cách căn bản cũng làm chính ta cảm thấy khổ sở sâu xa bên trong? Tôi nghĩ rằng đấy là một cách sử dụng thời gian một cách sai lầm.

Một cách tốt hơncố gắng để xây dựng tâm thức chúng ta mỗi ngày với một động cơ thích đáng và rồi thì giữ gìn nó cho suốt cả ngày còn lại với loại động cơ ấy. Và nó có nghĩa là, nếu có thể, phục vụ người khác; và nếu không, thì tối thiểu kềm chế trong việc làm tổn hại người khác. Trong sự quan tâm ấy, thì không có sự khác biệt giữa những tôn giáo khác nhau. Bất cứ ở vị trí nào, quý vị có thể có môt động cơ tích cực. Nếu thời gian của chúng ta được sử dụng trong cách ấy hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, hàng năm - hàng thập niên, không chỉ trong năm năm - thế thì đời sống của chúng ta trở nên đầy đủ ý nghĩa. Tối thiểu, chúng ta đang làm nên một loại sống hiến đối với thể trạng hạnh phúc tinh thần của cá nhân chúng ta. Chẳng chóng thì chầy ngày cuối cùng của chúng ta sẽ đến, và ngày ấy chúng ta sẽ không cảm thấy hối tiếc gì cả; chúng ta biết là chúng ta đã sử dụng thời gian của chúng ta một cách hữu ích.

Tôi nghĩ nhiều người trong quý vị đã sử dụng thời gian trong một cách thích đáng, đầy đủ ý nghĩa. Điều ấy là quan trọng.

Có Một Thái Độ Thực Tiển Đối Với Sự Chết

Tuy nhiên, đời sống hiện tại của chúng ta, là không mãi mãi. Nhưng nghĩ: "Chết là kẻ thù" thì hoàn toàn sai. Chết là một bộ phận trong sự sống của chúng ta. Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, thân thể này trong một ý nghĩa nào đó là một kẻ thù. Nhằm để phát triển lòng tham muốn chân thành thành cho moksha - giải thoát - thế thì chúng ta thật sự cần một loại thái độ: rằng chính sự sinh này, thân thể này, chính bản chất của nó là khổ đau và vì thế chúng ta muốn chấm dứt điều ấy. Nhưng thái độ này có thể tạo ra nhiều rắc rối. Nếu quý vị xem chết như kẻ thù, thế thì thân thể này cũng là kẻ thù, và toàn bộ đời sốngkẻ thù. Như vậy là đi hơi quá xa.

Dĩ nhiên, chết có nghĩa là không còn tồn tại nữa, tối thiểu là đối với thân thể này. Chúng ta phải tách rời khỏi mọi thứ mà chúng ta phát triển một loại nối kết gần gũi trong kiếp sống này. Thú vật cũng không thích chết, cho nên một cách tự nhiên chúng là giống với con người. Nhưng chúng ta là một bộ phận của tự nhiên, và vì thế chết là một bộ phần trong đời sống của chúng ta. Một cách hợp lý, sự sống có một sự bắt đầu và kết thúc - có sự sinh và chết. Vì thế không có gì bất thường. Nhưng tôi nghĩ những sự tiếp cận và quan điểm không thực tiển của chúng ta về sự chết làm cho chúng ta lo lắng và băn khoăn bội phần.

Cho nên như những hành giả Phật Giáo, thật vô cùng hữu ích để nhắc nhở chính chúng ta hằng ngày nhớ về sự chết và vô thường. Có hai cấp độ của vô thường: một cấp độ thô [rằng mọi hiện tượng sinh ra sẽ đi đến hoại diệt] và một cấp độ vi tế [rằng tất cả mọi hiện tượng bị ảnh hưởng của nhân và duyên thì thay đổi từ thời khắc này sang thời khắc khác]. Thật ra, cấp độ vi tế của vô thườnggiáo huấn thật sự của Phật Giáo; nhưng một cách tổng quát, cấp độ thô của vô thường cũng là một bộ phận quan trọng của thực hành bởi vì nó làm giảm thiểu một số cảm xúc tàn phá căn cứ trên cảm nhận rằng chúng ta sẽ tồn tại mãi mãi.

Hãy nhìn những vị vua vĩ đại - ở phương Tây cũng thế - với những lâu đài và pháo đài to lớn. Những vị hoàng đế xem họ như bất tử. Nhưng bây giờ khi chúng ta nhìn những kiến trúc ấy, thật là ngớ ngẫn. Hãy nhìn Vạn Lý Trường Thành của Trung Hoa. Nó được tạo nên bởi vô vàn khổ đau của những người xây dựng nên nó. Nhưng những công trình này được hình thành với cảm giác: "Quyền lực và đế quốc của ta sẽ tồn tại mãi mãi" và "Hoàng đế của ta sẽ tồn tại mãi mãi." Như Bức tường Bá Linh - một lãnh tụ Cộng Sản Đông Đức nào đó đã nói rằng nó sẽ tồn tại hàng nghìn năm. Những cảm nhận như vậy đến từ sự chấp thủ vào chính họ và đảng phái hay niềm tin của họ và từ suy nghĩ rằng họ sẽ tồn tại mãi mãi.

Bây giờ sự thậtchúng ta cần một lòng tham muốn tích cực như một bộ phận của động của chúng ta - không có sự tham muốn thì sẽ không có chuyển động. Nhưng lòng tham muốn cộng với si mê là nguy hiểm. Thí dụ, có một loại cảm nhận về sự thường hằng và nó thường tạo nên loại quan điểm "Tôi sẽ tồn tại mãi mãi." Điều ấy là không thực tại. Đấy là si mê. Và khi quý vị phối hợp nó với tham dục - muốn điều gì đó hơn nữa,v.v… - nó thậm chí nó thêm nhiều rắc rối và khó khăn. Nhưng tham muốn với tuệ trí là rất tích cực, và vì thế chúng ta cần nó.

Chúng ta cũng thấy [nhắc nhở về vô thường] trong sự thực hành mật tông, với những cái sọ người và những thứ loại này, và trong một số mạn đà la chúng ta quán tưởng những nghĩa trang [vùng của sự chết chóc]. Những thứ này là các biểu tượng để nhắc nhở chúng ta về vô thường. Một ngày nọ, xe của tôi đi ngang qua một nghĩa địa, và thật mới mẻ trong tâm thức tôi khi tôi để cập sau đó trong một bài diễn thuyết công cộng. "Tôi vừa đi ngang một nghĩa địa. Đấy là nơi chốn sau cùng của chúng ta. Chúng ta phải đến đấy." Chúa Giê-su trên thánh giá chỉ cho môn đồ của ngài rằng cuối cùng sự chết sẽ đến. Và Đức Phật cũng nói tương tự. Allah, thì tôi không biết - Allah không có hình sắc - nhưng dĩ nhiên Mô-ha-mét cũng chứng tỏ điều đó.

Cho nên chúng ta cần thực tế rằng sự chết sẽ đến không chóng thì chầy. Nếu quý vị phát triên môt loại thái độ đúng ngay từ lúc đầu rằng sự chết sẽ đến; rồi thì khi sự chết thật sự đến, chúng ta sẽ ít băn khoăn hơn. Vì thế đối với một hành giả Phật tử, thật quan trọng để tự nhắc nhở mình về điều này trên căn bản hàng ngày.

Phải Làm Gì Khi Sự Chết Đến

Khi ngày cuối cùng của ta đến chúng ta cần chấp nhận nó và không nên thấy nó như điều gì đó kỳ lạ. Không có cách nào khác. Vào lúc ấy, những người có niềm tin tôn giáo trong tôn giáo hữu thần nên nghĩ, "Đời sống này được Thượng đế tạo nên, vì thế sự kết thúc phải tùy thuộc vào dự tính của Thượng đế. Mặc dù tôi không thích sự chết, Thượng đế đã tạo nó, và vì thế phải có một ý nghĩa nào với nó." Những người thật sự tin tưởng trong một Thượng đế tạo hóa nên nghĩ theo những dòng này.

Những người nào theo những truyền thống Ấn Độ giáotin tưởng vào tái sanh nên nghĩ về kiếp sống tương lai và thực hiện một nổ lực nào đó để tạo những nguyên nhân đúng đắn cho một kiếp sống tương lai tốt đẹp, thay vì lo lắng, lo lắnglo lắng. Thì dụ, vào lúc lâm chung, quý vị có thể hồi hướng tất cả đạo đức của quý vị để cho kiếp sống tới sẽ là một kiếp sống tốt đẹp. Và rồi thì [cho dù niềm tin của quý vị là gì ] vào lúc sắp chết, thể trạng tinh thần phải tĩnh lặng. Giận dữ, nhiều sợ hãi - những thứ này là không tốt.

Nếu có thể những hành già Phật tử nên sử dụng thời gian của họ bây giờ để nhìn về phía trước đến những kiếp sống tới. Những sự thực hành tâm bồ đề và những sự thực hành mật tông nào đó là rất tốt cho điều này. Theo giáo huấn mật tông, vào lúc lâm chung có tám sự chấm dứt của các yếu tố - những cấp độ thô của yếu tố thân thể tan rả và rồi thì những cấp độ vi tế hơn cũng tan ra. Những hành giả mật tông cần bao gồm điều này trong thiền quán hàng ngày. Mỗi ngày, tôi quán chiếu về sự chết - trong những sự thực hành mạn đà la khác nhau - tối thiểu 5 lần, nhưng tôi vẫn sống! Sáng nay tôi đã đi qua 3 sự chết.

Có nhiều phương pháp để tạo nên một sự bảo đảm cho một kiếp sống tương lai tốt đẹp, giống như thế. Và đối với những người không tín ngưỡng, như tôi đã đề cập trước đó, thật quan trọng để thực tế rõ ràng về sự kiện vô thường.

Giúp Những Người Sắp Chết Như Thế Nào

Với những người thật sự sắp chết, thật là tốt lành nếu những người chung quan có một kiến thức nào đó [về vấn đề giúp đở như thế nào]. Như tôi đã đề cập trước đây, với những người sắp chết tin tưởng vào Thượng đế tạo hóa, quý vị có thể nhắc nhở họ về Thượng ddeess. Một niềm tin nhất quán vào Thượng đế tối thiểu cũng có một lợi lạc nào đó, với quan điểm Phật Giáo cũng vậy. Với những người nào không có tín ngưỡng, không tôn giáo, thế thì như tôi đã đề cập, hãy thực tế, và thật quan trọng để giữ tâm tư của họ tĩnh lặng.

Có những người thân khóc lóc bên cạnh người lâm chung có thể làm thương tổn đến việc giữ gìn tâm tư tĩnh lặng - quá nhiều dính mắc. và cũng do bởi quá nhiều dính mắc với người thân của họ, có thể có việc làm lớn mạnh giận hờn và thấy sự chết như một kẻ thù. Vì thế thật quan trọng để giữ thể trạng tinh thần của họ tĩnh lặng. Điều ấy là quan trọng.

Trong nhiều trường hợp [tôi dược yêu cầu đến một nhà từ thiện của Phật Giáo]. Như ở Úc Đại Lợi, có một ni viện, nơi mà các nữ tu hoàn toàn cống hiến đời sống cho việc chăm sóc những người sắp chêt và với những người với những căn bệnh trầm kha. Đây là một cách rất tốt trong việc đưa vảo sự thực tập hàng ngày của chúng ts về bi mẫn vào trong hành động. Điều ấy rất quan trọng.

Ẩn Tâm Lộ - Tuesday, December 16, 2014



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 173)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 204)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 225)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 292)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 206)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 255)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 357)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 319)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 304)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 384)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 615)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 477)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 484)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 582)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 754)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 840)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 859)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 846)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 737)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 712)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 815)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 835)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 942)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 718)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 618)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 715)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 828)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 718)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 709)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 825)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 852)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 827)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 864)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 902)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 888)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1087)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 953)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1676)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1067)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1211)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 956)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1215)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1118)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1124)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1281)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1562)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2037)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1097)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1354)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1098)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 947)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1066)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1101)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1536)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1288)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1294)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1027)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant