Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giới Không Trộm Cắp - Nhìn Từ Quan Điểm Đạo Đức Phật Giáo

27 Tháng Mười Hai 201514:00(Xem: 8144)
Giới Không Trộm Cắp - Nhìn Từ Quan Điểm Đạo Đức Phật Giáo
Giới Không Trộm Cắp
Nhìn Từ Quan Điểm Đạo Đức Phật Giáo

Thích Phước Đạt

Giới Không Trộm Cắp -  Nhìn Từ Quan Điểm Đạo Đức Phật Giáo


Năm giớimười điều thiện được xem là cơ sở thiết lập đạo đức Phật giáo thì giới thứ hai “Không trộm cắp” là nhằm đảm bảo tính công bình và hướng tâm con người đi đến sự vô tham, vô sân, vô si.

Một cá thể, một gia đình, một xã hội nếu không thực thi, giữ gìn giới này thì đừng có bao giờ đề cập đến việc thiết lập giá trị đạo đức, cao hơn là giá trị hạnh phúc thật sự. Trong một xã hội hiện đại, với một nền kinh tế thị trường, sự duy trìgìn giữ giới này không chỉ là động lực phát huy nhân cách đạo đức, bảo đảm trật tự xã hội, trên hết là kích thích sự sáng tạo vô bờ bến của trí tuệ con người.

Phật nói có ba loại thần thông. Thứ nhất là biến hóa thần thông, tức là thi thố những quyền năng siêu nhiên như bay trên không như chim, lội dưới nước như cá, đi ngang qua vật cản như là đi giữa hư không v.v… Hai là túc mạng thông, tức là biết rõ các kiếp sống trước của mình và của người khác. Và ba là giáo hóa thần thông tức là bố thí pháp, tức là giáo hóa người khác từ ác trở thành thiện, từ mê chuyển sang ngộ v.v…

Giới thứ hai từ Pali là Adinnadana veramani, nghĩa là Phật tử không được lấy của không cho. Ở các nước Phật giáo Nam tông như Campuchia, Lào, Miến Điện, Thái Lan, Tích Lan v.v… Tăng sĩ sống bằng khất thực, chỉ nhận những thức ăn và các vật dụng khác được Phật tử tại gia thành tâm cúng dường. Còn Phật tử tại gia thì được khuyến khích nuôi sống mình và gia đình mình bằng nghề nghiệp thiện lành, chính đáng. Chánh mạng là một trong tám mục của Bát Chánh đạo. Chánh mạng là sống bằng nghề nghiệp chính đáng, lương thiện.

Có thể phân biệt hai loại trộm cắp. Một loại là trộm cắp trực tiếp, nghĩa là chiếm đoạt một hay những cái gì thuộc quyền sở hữu của người khác, mà người ấy không bằng lòng. Loại trộm cắp thứ hai là gián tiếp bằng lừa đảo hay gian lận. Nói tóm lại, đạo đức Phật giáo lên án mọi hành vi thủ lợi, không trung thực, không lương thiện. Đối với Phật tử, cái gì đã không cho thì không lấy, đồng thời khuyến cáo mọi người cần thực thi hạnh bố thí nữa. Đó là phương châm bất di dịch, trong mọi giao dịch giữa Phật tử với nhau cũng như giữa Phật tử với người ngoài.

Đối lập với nghiệp trộm cắp, lấy của không cho là hạnh bố thí (Pali: dana). Bố thí đứng đầu trong mười hạnh Ba-la-mật của Phật giáo Nam tông. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề rất quan trọng này ở một đoạn sau. Một hành vi được xem là trộm cắp, là lấy của không cho khi có những điều kiện sau đây: 1. Của cải, đồ đạc, vật dụng của người khác. 2. Người lấy biết rõ, đó là của cải, đồ đạc, vật dụng của người khác. 3. Có ý chiếm đoạt. 4. Dùng thủ đoạn để chiếm đoạt. 5. Hành vi cụ thể chiếm đoạt. Dùng phương tiện hay phương pháp chiếm đoạt là như thế nào, một khi đã có sự chiếm đoạt mà người đương sự, có của bị chiếm đoạt không bằng lòng, thì đó là trộm cắp, là lấy của không cho, và người chiếm đoạt nhất định sẽ chịu quả báo tương ứng.

Người lấy của không cho bị quả báo xấu như thế nào? Kẻ ăn trộm, kẻ lấy của không cho chịu các quả báo như: 1. Sau khi mệnh chung, phải đọa vào các cõi ác, như địa ngục, quỷ đói, súc sanh. 2. Nếu may mắn được làm người, thì chịu cảnh nghèo khổ. 3. Không thể nào tích lũy được tài sản. 4. Nếu mà tích lũy được, thì lại bị vua quan, kẻ cướp, hỏa tai, thủy tai đoạt lại sạch sành sanh. 5. Không có khả năng thọ hưởng năm dục và bị mọi người khinh rẻ.

Bố thí là thế nào và nên bố thí như thế nào? Đạo đức Phật giáo không những răn dạy Phật tử cũng như mọi người không được trộm cắp, không được lấy của không cho mà còn khuyến giáo mọi người luôn luôn nghĩ tới bố thíthực hành bố thí. Phật giáo có một quan niệm hết sức rộng rãi về hạnh bố thí. Có thể nói, người nào, bất cứ lúc nào, trong hoàn cảnh nào cũng có thể thực hành bố thí.

Người có của cho của. Đó là tài thí. Có nhiều cho nhiều, có ít cho ít. Cho nhiều hay ít là không quan trọng, điều quan trọng là ở tấm lòng từ, lòng bi của người cho, thành tâm muốn đem vui và cứu khổ cho người khác. Người không có của, như Tăng Ni xuất gia không có của riêng, thì bố thí pháp, gọi là pháp thí. Nghĩa là chỉ dạy cho người khác đạo lý làm người và đạo lý giải thoát. Phật luôn luôn dạy rằng trong tất cả các loại bố thí thì pháp thí là đệ nhất, là đáng quý hơn cả. Dạy người tìm an lạc trong nếp sống thiện lành, dạy người con đường thoát khỏi luân hồi sanh tử, Đức Phật xem đó như là một loại thần thông, tức là giáo hóa thần thông.

Phật nói có ba loại thần thông. Thứ nhất là biến hóa thần thông, tức là thi thố những quyền năng siêu nhiên như bay trên không như chim, lội dưới nước như cá, đi ngang qua vật cản như là đi giữa hư không v.v… Hai là túc mạng thông, tức là biết rõ các kiếp sống trước của mình và của người khác. Và ba là giáo hóa thần thông tức là bố thí pháp, tức là giáo hóa người khác từ ác trở thành thiện, từ mê chuyển sang ngộ v.v…

Trong ba loại thần thông đó, Phật đánh giá cao nhất, đáng thực hành nhất là giáo hóa thần thông. Mà giáo hóa chính là pháp thí. Muốn pháp thí thì mọi người, xuất gia cũng như tại gia đều phải học tập Phật pháp, thực hành Phật pháp trong cuộc sống hàng ngày của mình, tức là phải sống đạo đức theo năm giới và mười thiện, và với một nhiệt tình cùng hạnh kiên nhẫn rất lớn, thuyết phục mọi người xung quanh mình đều sống theo năm giới, mười thiện. Nếu tất cả chúng ta, ai ai cũng làm như thế, thì xã hội này sẽ hướng thiện, mỗi người đều sống an lạc, cả xã hội này cũng được an lạc, cõi người sẽ biến thành cõi Phật.

Và như trong kinh Phật thường nói, ở những đất nước mà mọi người đều biết sống đạo đức, sống thiện, thì thiên nhiên cũng ưu đãi, mưa gió thuận hòa, thiên tai vắng bóng, mùa màng xanh tốt, thực phẩm dồi dào, nhân dân sống no đủ và an lạc. Hiện nay, khoa học vẫn chưa khám phá ra được mối liên hệ qua lại, biện chứng giữa cuộc sống đạo đức của xã hội với sự vận hành của môi trường thiên nhiên.

Đức Phật với con mắt trí tuệ của ngài, biết rõ, thấy rõ mối quan hệ đó và Ngài khuyên chúng ta sống đạo đức, sống thiện để tận hưởng mọi ưu đãi của thiên nhiên.

Có những người không giàu có, cũng không có pháp để pháp thí nhưng họ có thế lựcsức mạnh, họ có thể thực hành cái mà trong kinh Phật gọi là vô úy thí, nghĩa là bố thí sự không sợ hãi, bảo vệ cho mọi chúng sanh, mọi người khỏi phải sợ hãi, lo âu. Nếu phân tích kỹ, chúng ta sẽ thấy, giữ giới sát cũng là bố thí sự không sợ hãi cho chúng sanh không còn lo gì bị giết hại. Giữ giới không trộm cắp cũng là bố thí cho chúng sanh không còn lo sợ bị mất cắp, bị lừa đảo, bị gian lận v.v…

Giữ giới tà dâm, tức là bố thí cho mọi người khỏi phải sợ hãi cảnh vợ chồng bất hòa, gia đình ly tán. Giữ giới không nói dối tức là bố thí cho mọi người khỏi phải sợ bị dối trá, bị lừa gạt. Bố thí pháp cũng là một hình thức vô úy thí, vì người nghe pháp, sẽ được an tâm không lo sợ phải tái sanh xuống các cõi dữ, cõi ác, ngược lại được hướng dẫn trên con đường đạo, tiến tới giác ngộgiải thoát, tiến tới Niết-bàn là cảnh giới hạnh phúc tối thượng. Chia sẻ niềm vui với mọi người, trong tâm hồn không mảy mayý niệm ghen ghét đố kỵ, đó là tùy hỷ thí. Đem lại niềm vui cho mọi người, đó là lòng từ. Chia sẻ niềm vui với người khác, đó là lòng hỷ, là tùy hỷ.

Như chúng ta biết, và như đã nói ở đoạn trên, hạnh bố thí đứng đầu mười hạnh trong Ba-la-mật của Phật giáo Nam tông, đứng đầu sáu hạnh Ba-la-mật của Phật giáo Bắc tông, cũng đứng đầu bốn nhiếp hạnh, chung cho cả Nam và Bắc tông (bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự), cho nên tất cả chúng ta cần hiểu thấu rõ nội dung của bố thí, và những điều kiện để cho mỗi hành vi bố thí của chúng ta đạt được hiệu quả cao nhất, nhiều nhất.

Mọi người đều biết trong kinh Kim Cang, một bộ kinh Đại thừa rất quan trọng, thuộc văn hệ phái Bát-nhã, một bộ kinh rất quen thuộc với giới Phật giáo Việt Nam, xuất gia cũng như tại gia. Phật dạy rằng, bố thí mà không vướng mắc vào tướng, thì bố thí đó đem lại cho người bố thí công đức không lường. Mà tướng ở đây Phật giải thích là sắc, thanh hương vị xúc pháp, tức là sáu trần.

Vì sao như vậy? Vì khi tâm chúng ta vướng mắc vào sáu trần thì lập tức bị sáu trần hạn chế và làm ô nhiễm, công việc bố thí của chúng ta sẽ không còn thanh tịnh nữa, và hiệu quả của nó sẽ bị hạn chế. Bố thí với tâm vô lượng, thì công đức của bố thí đó cũng là vô lượng. Trong nhiều kinh luận, hiệu quả của bố thí cũng được nói đến, cụ thể hơn và dễ hiểu hơn. Qua những kinh luận đó, chúng ta sẽ hiểu được ý nghĩa của “bố thí không trú tướng” trong kinh Kim Cang.

Kinh Ưu-bà-tắc-giới, quyển 5, viết: Có ba tình huống khi bố thí không đem lại nhiều công đức: 1. Ban đầu, phát tâm bố thí rất nhiều, sau lại giảm bớt đi. 2. Lựa chọn những cái gì xấu, hư hỏng để bố thí. 3. Bố thí rồi sanh lòng tiếc rẻ, hối hận. Cũng kinh Ưu-bà-tắc-giới, quyển 5, phân biệt có 8 điều kiện hạn chế công đức của bố thí: 1. Sau khi bố thí, phát hiện thấy người được bố thí có vài lỗi và khuyết điểm. 2. Bố thí xong tự ca ngợi công đức bố thí của mình. 3. Lúc đầu nói không có gì mà cho, sau mới bố thí. 4. Bố thí xong, đòi hỏi người được bố thí thỏa mãn một số yêu cầu của mình. 5. Khi bố thí tâm không bình đẳng. 6. Bố thí xong nói lời bất nhã. 7. Bố thí xong, đòi trả ơn. 8. Bố thí xong, tâm sinh nghi ngờ. Rất rõ ràng, bố thí theo kiểu như trên là bố thí với tâm hạn hẹp, tâm ô nhiễm, không phải là bố thí thanh tịnh.

Việc chính trong lễ cầu siêu, cầu an không phải là mời Tăng sĩ đến làm lễ, tụng kinh niệm Phật mà tự bản thân người ốm hay là người sắp qua đời phải tụng kinh niệm Phật, nếu không đủ sức thì người thân phải tự mình tụng kinh niệm Phật, đem của cải bố thí, cúng dường Tam bảo, giúp đỡ cho người nghèo rồi hồi hướng công đức cho người ốm và người sắp quá cố hay là người đã quá cố. Tăng Ni cũng có thể mời, nhưng là để hộ niệm mà thôi. Tuyệt đối không được mời khách ăn uống linh đình, giết hại sinh vật.

Kinh Tăng nhất A-hàm, quyển 37, viết: “Khi bố thí tài vật cần chú ý 8 điều sau đây: 1. Bố thí phải đúng thời cơ. 2. Dùng loại tài vật mới, tinh khiếtbố thí, không bố thí những tài vật dơ bẩn, hư hỏng. 3. Cầm tài vật với hai tay để biếu tặng, không được sai người đem cho. 4. Thường phát nguyện bố thí, không được có tâm ngạo mạn. 5. Bố thí để cứu độ chúng sanh, chứ không đòi được trả ơn. 6. Cầu cảnh giới Niết-bàn vô thượngbố thí, chứ không cầu phước báo loài trời và loài người. 7. Ưu tiên bố thí những bậc thật sự là ruộng phước (như Tam bảo, cha mẹ, sư trưởng, v.v...) sau đó bố thí cho những đối tượng kém cõi hơn. 8. Hồi hướng công đức bố thí cho chúng sanh, không giữ công đức ấy riêng cho mình hưởng thọ”.

Du-già sư địa luận, cuốn 38, viết: “Bồ-tát khi bố thí không tính đến quả báo, không vì lợi dưỡngdanh vọng thế gian, không vì để được trả ơn, không vì để được kính trọngcúng dường, vị ấy không bố thí với tâm hạn hẹp, dù cho tài vật bố thí có ít, tâm của vị ấy vẫn rộng rãi. Huống hồ khi vị ấy có nhiều của cải đem bố thí, sao lại không phát đại tâm ư?”. Cũng Du-già sư địa luận, cuốn 39, viết: “Có năm đặc trưng của hành động bố thí của người thiện: 1. Bố thí với niềm tin thanh tịnh. 2. Bố thí với thái độ cung kính. 3. Bố thí với hai tay, và tự mình biếu. 4. Bố thí đúng thời. 5. Bố thí mà không gây phiền não cho người khác”.

Điều tối kỵ nhất là sát sanh hàng loạt để mời khách và cúng tế. Kinh Tạp A-hàm, quyển 4, chép truyện có một trưởng giả tên là Trưởng Thân chuẩn bị giết hàng trăm con bò, dê, để lập tế đàn lớn cầu phước báo. Phật thấy và dạy rằng: “Sát sanh để bố thí không những không được phước báo mà còn mang tội cả một đời”. Và nói: “Nếu cúng dường ba loại lửa thì được phước báoan lạc. Một là căn bổn hỏa, tức là lửa căn bổn. Cha mẹ sanh ra chúng ta, chính là căn bổn của chúng ta. Hãy phụng dưỡng và cúng dường cha mẹ là lửa căn bổn thì sẽ được phước báo lớn. Hai là cư gia hỏa, tức là bố thí cho vợ, chồng, con cái, thân thuộc. Ba là phước điền hỏa, tức là bố thí cúng dường Tam bảo, cúng dường cho người xuất gia, thầy dạy là những người dạy chúng ta đoạn trừ tham, sân, si”. Trưởng giả không những nghe theo lời Phật dạy, thả hết bò, dê dự định giết thịt mà còn xin làm lễ quy y Tam bảo, mời Phật và Tăng chúng dự trai tăng v.v…

Có thể nói đạo Phật có một quan niệm hết sức rộng rãi về hạnh bố thí, giúp cho bất cứ người nào có lòng từ, lòng bi đều có thể tu hạnh bố thí, và bố thí đúng theo pháp của Phật và Bồ-tát nên được phước đức vô lượng.

Cho nên, việc chính trong lễ cầu siêu, cầu an không phải là mời Tăng sĩ đến làm lễ, tụng kinh niệm Phật mà tự bản thân người ốm hay là người sắp qua đời phải tụng kinh niệm Phật, nếu không đủ sức thì người thân phải tự mình tụng kinh niệm Phật, đem của cải bố thí, cúng dường Tam bảo, giúp đỡ cho người nghèo rồi hồi hướng công đức cho người ốm và người sắp quá cố hay là người đã quá cố. Tăng Ni cũng có thể mời, nhưng là để hộ niệm mà thôi. Tuyệt đối không được mời khách ăn uống linh đình, giết hại sinh vật.

Nói chung lại, cách cầu an và cầu siêu đúng theo Chánh pháp của Phật là bố thí rộng rãi, và hồi hướng công đức cho người ốm và người sắp qua đời hay là vừa qua đời. Mọi lễ lạt chỉ có ý nghĩa hỗ trợ mà thôi.

Kinh Độ vô cực, quyển 3, kể chuyện ngày xưa có ông vua tên là Hòa Hắc, nhân thái hậu bệnh nặng, vua nghe theo ngoại đạo, tổ chức tế đàn lớn, dự định giết một em bé nhi đồng và 100 súc vật để tế thần, cầu cho thái hậu khỏi trọng bệnh. Phật dùng thiên nhãn, thấy sự việc như thế bèn đến ngay tại hiện trường mà bảo rằng: “Muốn có lương thực thì phải siêng năng cày cấy, muốn được giàu có thì phải bố thí rộng rãi, muốn sống thọ lâu thì phải nuôi dưỡng lòng từ bi, muốn có trí tuệ thì phải siêng năng học tập, làm điều thiện mới được quả báo an lạc. Cách nhà ngươi sát sanh để cầu sống thọtrái với luật nhân quả. Sát sanh là làm trái với đức hiếu sanh của trời, không những không tăng thọ mà còn làm giảm bớt thọ mạng. Phật bèn nói kệ:

Nếu một người sống trăm tuổi
Thờ phụng các vị thần trong thiên hạ
Giết voi, ngựa để cúng tế lễ
Không bằng tu hạnh từ bi.

Phật lại phóng hào quang làm cho mọi người có mặt đều sanh lòng hoan hỷ. Nhà vua nghe Phật giảng pháp, chứng được Sơ quả thánh. Thái hậu nghe pháp, tâm thấy vui vẻ, bệnh cũng giảm bớt dần dần. Hơn hai trăm Bà-la-môn ngoại đạo có mặt, là những người khuyên vua lập tế đàn, cũng sinh lòng hổ thẹn, cầu xin Phật thu nạp làm đệ tử. Từ đó về sau, nhà vua thi hành nhân chánh, yêu dân như con, trời thì mưa thuận gió hòa, mùa màng năm nào cũng tươi tốt. Nhân dân từ bỏ điều ác, nhờ đó, thọ mạng trung bình của dân chúng cũng tăng lên…”.

Suy cho cùng, giá trị đạo đức của con người là biết sống thiện, tức là sống đạo đức bằng sự nỗ lực tinh cần làm ra của cải vật chất bằng chính “do sức mạnh cánh tay, do mồ hôi đổ ra đúng pháp, do thâu hoạch đúng pháp” như Đức Phật từng dạy. Có như vậy, chúng ta mới bảo đảm sự công bằng về sở hữu trí tuệsở hữu vật chất của mỗi cá thể, của một cộng đồng. Có công bằng thì mới bảo đảm sự hạnh phúc cho mọi người.


Thích Phước Đạt (NS Gíác Ngộ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9876)
Nghiệp quả: Quả chín (trên năm uẩn), * Quả tương đương với nhân,# Nghiệp quả qua hoàn cảnh
(Xem: 15140)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 7933)
Những truyền thống khác nhau của Tây Tạng đến từ Đức Phật - Kadam, Sakya, Kagyu, và Nyingma - tất cả theo sự trình bày của những ...
(Xem: 9591)
Chủ đề về tánh không bao hàm tất cả giáo huấn Phật Giáo bởi vì chính Đức Phật hít thở bằng tánh không (hiện hữu, trường tồn và sống trong tánh không)
(Xem: 9648)
Từ Bi, có nghĩa là tình thương yêu rộng lớn đối với muôn loài hữu tình chúng sanh (loài ngườisúc vật). Tình thương rộng lớn này được...
(Xem: 8136)
Pháp thân Phậttánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thânquang minhHóa thân là thân vật chất;
(Xem: 10303)
Thường nghe rằng, cửa ngõ vào Chánh đạo, sự phát tâm quan trọng nhất; việc gấp trên đường tu, không gì hơn lập nguyện.
(Xem: 8715)
Không có hiện tượng nào đang tồn tại mà không phải là kết quả của nhân duyên
(Xem: 9154)
Đức Phật có nói: "Như Lai đã đạt đến sự hiểu biết rõ ràng về điều nầy, nghiệp lực, xuyên qua trí huệ cao cả của chính Như Lai."
(Xem: 9029)
Sau khi Đức Phật giác ngộ, bài giảng đầu tiên của ngài tập trung vào Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế), đó chính là nền tảng của Đạo Phật.
(Xem: 8169)
Bốn dấu ấn của hiện hữu, Phạn ngữ gọi là caturlaksana, Pà li ngữ là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 8950)
Chúng ta cần phải quy y Tam bảo để cứu mình ra khỏi đường hiểm khổ đau, đến chỗ an vui giải thoát.
(Xem: 25784)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 9058)
Để phân biệt với người không Phật tử, có sự quy y hay phương hướng an toàn, và để phân biệt với con đường Tiểu thừa, có sự quy y của Đại Thừa.
(Xem: 14415)
"Lý thuyết Nhân tính qua kinh tạng Pàli" là đề tài luận án Tiến sĩ do Thượng tọa Thích Chơn Thiện thực hiện và đệ trình tại Đại học Delhi
(Xem: 8205)
Thưa đại đức! Khi thọ khổ phát sanh, bậc A-la-hán chỉ thọ có một khổ thọ ấy, còn phàm phu thì thọ luôn cả hai thọ khổ, có phải vậy chăng?
(Xem: 8583)
Con số 84.000 trong do ngài An Nan thuật lại trong Trưởng Lão Kệ của Tiểu Bộ chính là 84.000 Pháp tức “dhamma” trong tiếng Pāḷi.
(Xem: 11904)
Đạo Phật không mang đến cho ta tiền tài hay danh vọng mà chỉ cho ta tình yêu thương bất diệthạnh phúc đích thực miên viễn trong dòng khổ đau của nhân sinh
(Xem: 9059)
Theo truyền thống sinh hoạt tu học của chư Tăng Ni từ thời Đức Phật còn tại thế, cứ đến ngày kết thúc một mùa an cư thì Đức Thế Tôn cùng chư Tăng Ni đều...
(Xem: 10368)
Mối quan hệ sâu đậm với một vị thầy tâm linh có thể là sự nối kết thăng hoa và quan trọng nhất trong một đời người.
(Xem: 8363)
Thức( vijnana) là dòng trôi tương tục dao động sáng tạo với những biểu đồ phức tạp được chi phối bởi những hệ quy chiếu mang màu sắc chủ quan
(Xem: 8982)
Không ai có khả năng biết được, sự bắt đầu của thế giới luân hồi (trong các cuộc sống diễn tiến liên tục, ở trong vòng sinh tử).
(Xem: 9997)
Đức Phật Thích Ca đã thường nói về Năm Uẩn, cũng còn được gọi là Năm Tập Hợp, hoặc là Năm Đống Hàng Cao Như Ngọn Núi.
(Xem: 9442)
Dục là nguyên nhân của khổ đau, nguồn gốc của dục có từ vô thỉ, sự trói buộc của nó đối với chúng sanh trong luân hồivô lượng kiếp.
(Xem: 8193)
Từ ngữ Niết Bàn xuất phát từ nguồn có ý nghĩa là "Dập tắt ngọn lửa", để nói đến việc dập tắt đi những ngọn lửa tham lam, sân hận, và si mê (tham sân si).
(Xem: 9479)
Niết bàn được xem là mục đích cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thóat khỏi các kiết sử tùy miên...
(Xem: 8515)
Như tâm, Phật cũng vậy Như Phật, chúng sanh đồng Nên biết Phật cùng tâm Thể tánh đều vô tận
(Xem: 10948)
Hoa Sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiếtthánh thiện, sự duy trì và phát triển Phật pháp, trí tuệ dẫn đến Niết Bàn.
(Xem: 9082)
Con người sinh ra trong thế giớidần dần, ngoài những sự vật đã có trong thiên nhiên, sáng chế ra những sự vật để dùng trong cuộc sống.
(Xem: 10528)
Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy, chúng ta chỉ có cặp mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên một là tất cả, chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất cả đặc điểm của Phật giáo.
(Xem: 8291)
Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại.
(Xem: 10287)
Tất cả các pháp nhân duyên sanh Thể tánh chẳng có cũng chẳng không Ở nơi nhân duyênsanh khởi Trong đó đều trọn không chấp trước
(Xem: 10465)
Nhân sau cùng sinh quả dị thục, Nhân đầu tiên sinh quả tăng thượng, Nhân đồng loại, biến hành sinh quả đẳng lưu, Nhân câu hữu, tương ưng sinh quả sĩ dụng
(Xem: 9013)
Đức Phật thị hiện là một con người như mọi người, điều này khẳng định cho chúng ta biết ngài không phải là thần linh, thị hiện ở núi non kỳ dị.
(Xem: 8256)
Tâm Bồ Đề (skt:Bodhicitta) là tâm giác ngộ, tâm thấy được bản mặt thật của chư pháp, tâm tin nơi nhân quảPhật Tánh nơi chúng sanh cũng như luôn dụng công tu hành hướng về quả vị Phật.
(Xem: 16654)
Muốn hết Nghiệp thì Tu ! Thì, Trì Chú ! Đó là “Thực Phẩm ngon” của Người Tu Hành xưa cũ.
(Xem: 12311)
Phật Học Vấn Đáp - Duy Thức Học Phần thứ 8; Lý Bỉnh Nam giải đáp, Thích Đức Trí chuyển ngữ
(Xem: 12268)
Hãy nương tựa vào chính mình, tự xem mình là ngọn đuốc soi đường cho mình, là nơi an trú cho mình, mà không cần một nơi an trú nào khác cả...
(Xem: 8798)
Nguyên tác: Background for Understanding Bodhichitta, Tác giả:Alexander Berzin/ Riga, Latvia, July 2004; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10221)
Giáo thuyết tối thượng tịnh hóa tâm thức, Là việc vắng mặt sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 8542)
Điều cương quyết để thọ tám chi của Luật nghi này, là phải có tối thiểu một vị Tỷ-kheo làm giới sư truyền thọ, chứ không thể tự một mình phát nguyện thọ trì được.
(Xem: 9074)
Trong Đạo Phật thuật ngữ tự ngã có hai ý nghĩa phải được phân biệt nhẳm để tránh nhầm lẫn. Một ý nghĩa của tự ngã là ‘cá thể’ hay ‘chúng sinh’.
(Xem: 10378)
Có nguồn gốc từ Ấn-độ, là tín lý căn bản trong Ấn-độ giáo, Phật giáo cũng như Kỳ-na giáo, và cả đến đạo Sikh; được truyền vào Trung hoa rất sớm, dịch là nghiệp,
(Xem: 8748)
Cận trụ nguyên ngữ Sanskrit là là upavāsatha, Hán phiên âm là ô-ba-bà-sa, Ưu-ba-bà-tố-đà, Ưu-bà-sa, U-ba-bà-sa, Ô-bô-sa-tha v.v…
(Xem: 8219)
Nói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thểxúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề...
(Xem: 8750)
Nguyên tác: Introduction to Bodhicitta - Tác giả: Alexander Berzin/ Riga, Latvia, June 2003 - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8089)
Đẳng lưu nhân-quả, là một trong những tư lương quan trọng trên con đường trung đạo, trong lộ trình tu tập thông đạt chánh kiến về duyên khởi hay mười hai chi duyên.
(Xem: 7860)
Ly Hệ Quả Sanskrit gọi là Visamyogaphala. Visam là thoát ly, tách rời, đoạn trừ, ly khai. Yoga là tương ưng, liên hệ. Nên Ly hệ, visamyoga: dứt khỏi sự trói buộc.
(Xem: 9570)
Tôi đã tìm thấy chìa khóa của hạnh phúc, và tôi đã bị thuyết phục rằng, tôi đã vượt qua mọi nhà sư khác về sự cao quý. Nhưng mỗi khi tôi rời thiền đường, những cánh cửa lại thì-thầm, 'Tất cả là không.'
(Xem: 8731)
Từ nơi Thánh Trí tối thượng ba-la-mật, đức Thế Tôn tuyên thuyết Kinh Năng Đoạn Kim Cương, nên Kinh này dạy rất nhiều vấn đề cốt lõi của giáo Pháp.
(Xem: 10693)
Như lý tác ý (Yoniso manasikàra) hay còn gọi là như lý khởi tư duy là một thuật ngữ Phật học dùng để nói về cách nhìn sự vật hay hiện tượng một cách đúng đắn theo quan niệm của đạo Phật.
(Xem: 15143)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Śīla: học xứ, học giới,... nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể.
(Xem: 12822)
Nếu chúng ta thật sự quan tâm về tương lai chính chúng tahạnh phúc an lạc của chính đời sống của mình, chúng ta nên phát triển một thái độ tinh thần trong điều mà thực hành từ bi đóng một vai trò trung tâm.
(Xem: 8147)
Những giới khinh của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân thành bảy nhóm gây thiệt hại...
(Xem: 16744)
Chúng ta cũng có thể sử dụng cách dịch phổ thông hiện này là: Như Thị Ngã Văn 如是我聞: Tôi nghe như vậy, tôi nghe như thế v.v...
(Xem: 6282)
“Phật y trên năm hạng chủng tánhthành lập năm thừa: Chủng tánh Thanh văn thừa; Bích-chi-phật thừa; Như lai thừa; Bất định thừa; và vô tánh thừa.
(Xem: 9609)
46 đại nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà...
(Xem: 7052)
Bốn pháp căn bản thành tựu thần lực, bốn cơ sở để có sức mạnh tinh thần hay sức mạnh tâm linh....
(Xem: 7731)
Quán Thế Âm, ngữ nguyên Sanskrit là Avalokiteśvaras, āvalokiteśvaro, avalokiteshvara là danh từ số ít Phạn ngữ, Hán dịch là Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại.
(Xem: 7068)
Thành Duy Thức Luận trình bày hai quả chuyển y là Đại Niết-bàn và Đại Bồ Đề; Do đoạn trừ hết thảy các chướng mà thành tựu hai quả vị thù thắng này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant