Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hồi Đầu Thị Ngạn

29 Tháng Tư 201619:26(Xem: 8435)
Hồi Đầu Thị Ngạn

HỒI ĐẦU THỊ NGẠN

Thích Thông Phương

Hồi Đầu Thị Ngạn

I. ĐỊNH NGHĨA
Hồi đầu là quay đầu trở lại hay xoay đầu trở lại. Thị ngạn: chính ngay đó là bờ mé. Đây là một câu người học Phật thường nghe nói, song ý nghĩa ngầm chứa trong đó không dễ gì hiểu hết một cách hời hợt được. Nói quay đầu lại, nhưng quay lại đâu? Rồi chính đó là bờ mé, nhưng là bờ mé gì? Chỗ này thì không thể nói suông, giải thích suông mà được, mà là một sự thể nghiệm chân thật ngay chính mình mới rõ suốt. Để rõ điểm này, xin dẫn chuyện Ngài Văn Thù - Tư Nghiệp.

Sư trước kia sống bằng nghề đồ tể. Một hôm, nhân lúc sửa soạn giết một con heo, bỗng nhiên Sư triệt ngộ bản tánh chính mình, và làm bài kệ:

Tạc nhật Dạ-xoa tâm,
Kim triêu Bồ-tát diện.
Bồ-tát dữ Dạ-xoa,
Bất cách nhất điều tuyến.

Dịch:

Hôm qua lòng Dạ-xoa,
Sáng nay mặt Bồ-tát.
Bồ-tát và Dạ-xoa,
Chẳng cách một kẽ tóc.

Sau đó, Sư đến gặp Thiền sư Đạo ở viện Văn Thù, Đạo hỏi:
- Trong lúc giết heo, ông thấy cái gì mà cạo đầu đi tham bái hỏi thiền?
Sư không nói một lời, đứng im làm thế đang mài dao.

(Tục Truyền Đăng, quyển 31)

Như vậy, làm Dạ-xoa, từ đâu mà làm? Từ "TÂM" thôi chớ gì? Nhưng là tâm ngu si, tâm hung ác. Làm Bồ-tát từ đâu mà làm? Cũng chính từ "TÂM" thôi, ngoài tâm lấy gì làm Bồ-tát? Nhưng là tâm từ bi, giác ngộ. Nếu ngoài tâm, lấy gì gọi là ngu si, hung ác? Lấy gì gọi là từ bi, giác ngộ? Cho nên, Dạ-xoa hay Bồ-tát cũng ngay tâm mình thôi, chỉ cần tỉnh ngộ trở lại là xong, không phải tìm Bồ-tát ở đâu xa. Xem Ngài Tư Nghiệp, xưa kia cũng mài dao mà mê, giờ đây cũng mài dao mà giác. Song trong chỗ này làm sao diễn tả cho người hiểu? Cho nên chỉ im lặng làm thế mài dao, dành cho người tự chứng biết thôi. "Quay đầu lại chính đó là bờ mé", thật có nhiều ý nghĩa nói không thể hết, không thể định nghĩa theo ngôn ngữ, danh từ thông thường mà cho là đã đủ, cần phải có một sự thức tỉnh sâu xa tận nguồn tâmmới không hổ thẹn.

II. ĐÁNH THỨC TÂM CHẠY TÌM BÊN NGOÀI
Nói "quay đầu là bờ mé", là để đánh thức trở lại những tâm đang chạy tìm kiếm lang thang bên ngoài. Chính bệnh hướng ngoại là bệnh chung của con người. Nhưng không có gì lạ, bởi gốc do mê mất "bản tâm" từ lâu, không còn nhớ biết mình là gì, nên cứ chạy đuổi theo ngoại trần, luôn luôn tìm kiếm những cái từ bên ngoài. Dù nói học đạo, vẫn cứ muốn tìm học ở đâu đâu, nếu bảo học đạo mà "không chỗ học", có chịu chăng?
Chúng ta nhìn kỹ lại, ngày nay khoa học đã tiến bộ đến mức thật là siêu, nhưng vẫn là luôn tìm kiếm bên ngoài. Do đó càng tìm, càng thấy còn nhiều điều chưa biết, chưa hiểu! Bởi sức người có hạn, vũ trụ thì bao la, tìm bao giờ cho trọn? Tìm chưa gì thì đã hết một đời người rồi! Câu hỏi vẫn còn luôn để sẵn đó.
Trong đạo, nhất là thiền thì luôn luôn đánh thức chúng ta phải tự soi trở lại gốc, biết GỐC thì rõ ngọn không phải lo ngại gì. Song gốc là gì? Chính là "khéo nhận BẢN TÂM". Bởi dù có cảnh mà không có tâm, thì cảnh đó có cũng như không, chỉ là cảnh chết, không thành vấn đề. Cũng như ngay đây, người sống mà không có tâm, thì sống cũng như chết thôi. Có điều, đã là BẢN TÂM CHÍNH MÌNH, lại phải đi tìm ở đâu? Quả thật càng tìm, càng xa! Như bài kệ Vua Trần Thái Tông nói về núi thứ nhất:

Chỉ sai hữu niệm vong vô niệm,
Khước bối vô sanh thọ hữu sanh.
Tỷ trước chư hương thiệt tham vị,
Nhãn manh chúng sắc, nhĩ văn thinh.
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách,
Nhật viễn gia hương vạn lý trình.

Tạm dịch:

Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm,
Liền trái không sanh nhận có sanh.
Mũi đắm các hương, lưỡi tham vị,
Mắt mờ chúng sắc, tai đuổi thinh,
Lang thang làm khách phong trần mãi,
Ngày cách quê hương muôn dặm trình.

Nghĩa là, ngay trong vô niệm, đang sống trong vô niệm đó, nhưng vừa động khởi, liền rơi vào hữu niệm. Đã có niệm, tức là đi vào trong sanh tử, là trái với THỂ VÔ SANH từ muôn thuở rồi. Chính ngay chỗ đó, là chỗ mê mất bản tâm. Do mê mất bản tâm, nên cứ lang thang trong sáu trần cảnh, cứ buông cái này, bắt cái kia, chạy mãi luân hồi trong sáu nẻo, quên hẳn cả đường về! Trong khi đó, đường về vẫn ở ngay trước mắt! Giờ đây, dù có nghe nói đến bản tâm, song cũng tưởng tượng là cái gì đó, ở đâu đâu, nên lại đi tìm nữa, thật tự đáng thương cho chính mình là đấy!
Chư Tổ đã nhận được chỗ này, nên cảm thấy thương xót vô cùng, do đó các Ngài bằng nhiều phương tiện đánh thức cho người tỉnh lại: CHÍNH CÁI ĐANG CHẠY TÌM ĐÓ, LÀ GÌ? Đâu từng thiếu vắng bao giờ ?
Ngài Đức Sơn một hôm thượng đường bảo:
- Đêm nay chẳng đáp thoại, ai thưa hỏi sẽ ăn ba mươi gậy.
Lúc đó có vị tăng bước ra lễ bái, Sư liền đánh. Tăng thưa:
- Con chưa thốt lời hỏi, vì sao Hòa thượng đánh con?
Sư bảo:
- Ông là người ở đâu?
Tăng thưa:
- Dạ, người Tân La.
Sư bảo:
- Ông chưa bước xuống thuyền, đã đáng ăn ba mươi gậy rồi!

Tại sao chưa bước xuống thuyền đã đáng ăn ba mươi gậy rồi? Đó là Sư muốn đánh thức, "việc này" vốn sẵn nơi mình lại chẳng nhận, bước xuống thuyền tức là bỏ đó mà đi tìm, từ bên Tân La tức Triều Tiên mà chạy sang Trung Hoa tìm hỏi, thì không đáng ăn gậy sao ?
Cũng vậy, Thạch Củng lúc là thợ săn đuổi theo con nai đến gặp Mã Tổ, Mã Tổ hỏi:
- Chú bắn giỏi chăng ?
Thạch Củng đáp:
- Dạ, bắn giỏi.
- Một mũi tên chú bắn được mấy con ?
- Một mũi tên bắn một con.
- Chú bắn không giỏi.
- Hòa thượng bắn giỏi chăng ?
- Bắn giỏi.
- Một mũi Hòa thượng bắn mấy con ?
- Bắn một bầy.
- Vì sinh mạng chúng nó, đâu được bắn một bầy ?
- Chú đã biết như vậy, sao không tự bắn đi ?
- Nếu dạy tôi tự bắn, tức không chỗ hạ thủ.
- Chú này phiền não vô minh nhiều đời, ngày nay chóng dứt.

Đây là Mã Tổ muốn đánh thức Thạch Củng, thay vì cứ lo đuổi bắn bên ngoài, quên mình theo vật, theo cảnh, đành làm thợ săn lang thang tạo nghiệp, sao không thức tỉnh trở lạitự bắn chính mình đi! Tức là nhận trở lại chính mình chân thật! Song chính mình thì có chỗ nào để bắn?
Cho nên, Thạch Củng khéo đáp: "Nếu dạy tôi tự bắn, tức không chỗ hạ thủ"
Thấy đến như thế, tức là sáng tâm, là ngộ trở lại gốc, chính ngay đó là BỜ GIÁC: Buông cung tên, thành Thiền sư - trên kia thì buông dao mổ heo, thành Thiền sư, đồng một đường không khác.
Triệu Châu cũng từng hỏi Hòa thượng Nam Tuyền:

- Thế nào là đạo?
Nam Tuyền đáp:
- Tâm bình thường là đạo.
- Có thể nhằm tiến đến chăng?
- Nếu nghĩ muốn tiến đến liền trái.
Đạo chính ngay tâm bình thường hiện tiền đây mà chưa khởi động niệm đó thôi. Nghĩ tiến đến, tức biến nó thành ra cái đối tượng bên ngoài mình rồi, thì quả tang ngay đó liền trái với nó!

Để rõ thêm điểm này, chúng ta hãy lắng nghe kỹ chuyện Ngưỡng Sơn với Quy SơnMột hôm, Sư về thăm Quy Sơn, Quy Sơn hỏi:
- Chúng sanh trên quả đất nghiệp thức mênh mang không gốc có thể tựa, con làm sao biết họ có hay không có?
Sư thưa:
- Con có chỗ kinh nghiệm.
Ngay lúc đó, có vị tăng đi qua trước mặt, Sư gọi:
- Xà-lê!
Vị tăng xoay đầu lại. Sư thưa:
- Bạch Hòa thượng, chính cái này là nghiệp thức mênh mang không gốc có thể tựa đó!
Quy Sơn bảo:
- Quả đây là một giọt sữa sư tử làm tan sáu đấu sữa lừa!

Vậy nghiệp thức mênh mang ở chỗ nào? Nghe gọi, theo tiếng gọi xoay đầu, chính đó là nghiệp thức mênh mang không biết từ thuở nào chứ gì? Song, ngay đó liền tỉnh ngộ: "Cái gì đang biết xoay đầu đó ?", liền nhổ sạch gốc rễ từ muôn thuở, sáng tỏ trở lại nguồn chân, có nhọc gì? Quả thực, MÊ - NGỘ đâu có cách xa? Chỉ: theo tiếng là mê, rõ tánh là giác, vậy thôi. Mê không thật có cái thể mê nên nói không gốc có thể tựa. Bởi không gốc, cho nên giác liền xong, cũng không có cái mê gì để trừ: ý nghĩa "xoay đầu là bờ mé" quá rõ ràng, còn nghi ngờ gì nữa?

III. TRỪ NIỆM KIA ĐÂY

Thường chúng ta hay nghe nói tu hành phải đạt đến bờ kia, rồi khởi tưởng có bờ này. Tức bỏ bờ này, đếnbờ kia, bị lầm theo ngôn ngữ văn tự mà không hay biết! Nếu còn thấy có bờ này, bờ kia, tức là chưa mở con mắt tuệ, chưa phải là Bát-nhã chân thật. Lục Tổ trong phẩm Bát-nhã của kinh Pháp Bảo Đàn đã dạy: "Ba-la-mật dịch là đến bờ kia, giải nghĩa là lìa sanh diệt. Chấp trước cảnh thì sanh diệt khởi, như nước dậy sóng mòi, tức là bờ này. Lìa cảnh thì không sanh diệt, như nước thường trôi chảy, tức gọi là bờ kia."
Đây Lục Tổ đã nói rất rõ, bờ này, bờ kia chỉ ngay tâm này thôi. Tâm theo cảnh, đi vào sanh diệt, như nước dậy sóng, gọi là bờ này. Tâm lìa cảnh, khế hợp với vô sanh, như nước thường trôi chảy, gọi là bờ kia. Dậy sóng hay thường trôi chảy cũng chỉ là NƯỚC thôi. Theo cảnh hay lìa cảnh cũng chỉ là TÂM thôi. Vậy thì nói gì cố định là bờ này, bờ kia? Đây là khiến cho người phải nhảy một cái nhảy, qua văn tự chữ nghĩa, không kẹt nơi ý niệm kia đây, thì Bát-nhã chân thật luôn luôn hiện tiền, sờ sờ ngay trước mắt, còn phải tìm nơi đâu?
Ông Tú tài Trương Chuyết khi được Ngài Thạch Sương khai thị, tỏ sáng, có làm bài kệ, trong đó có câu:

Phá trừ phiền não trùng tăng bệnh,
Thú hướng chân như tổng thị tà.
Tùy thuận chúng duyên vô quái ngại,
Niết-bàn sanh tử đẳng không hoa.

Tạm dịch:

Phá trừ phiền não càng thêm bệnh,
Tìm đến chân như cũng là tà.
Tùy thuận các duyên không quái ngại,
Niết-bàn sanh tử thảy không hoa.

Nghĩa là còn thấy có trừ phiền não, có đến chân như, tức còn thấy có hai, còn tâm kia đây, lấy bỏ là chưa thấy đạo, là còn đi lệch bên ngoài, nên gọi "cũng là tà". Nếu rõ được chính mình ngay trong tất cả, thì đối mọi duyên đều sáng ngời không mê. Vậy có gì ngăn ngại mà bỏ đây tìm kia? Niết-bàn, sanh tử ở ngay tự tâm thôi, đâu phải ở cõi nào khác từ bên ngoài? Chính cái niệm kia đây là chỗ chướng ngại cho mình. câu chuyện, hai vị Thượng tọa ở thành đô đến gặp Thiền sư Huệ Minh, Sư hỏi:
- Thượng tọa đến đây thì ở Thành đô thiếu Thượng tọa, ở đây dư Thượng tọa. Dư thì ngoài tâm có pháp, thiếu thì tâm pháp chẳng khắp, nói được thì ở, nói chẳng được thì hãy đi.
Hai vị đều không đáp được.

Trong đây có ai nói được? Tại sao hai vị không đáp được? Chỉ vì trong lòng còn chứa đựng niệm kia đây, kẹt trên thân tướng này. Bởi y cứ trên thân tướng này, mới có thân ở đây, thân ở kia, còn trên TÂM THỂ CHÂN THẬT ẤY, thì có tướng gì mà nói đây kia? Cho nên hỏi đó, là gạn lại chỗ thấy của người xem đã THẤY TÁNH hay chưa? TÁNH thì luôn luôn lúc nào cũng hiện tiền nơi mình, có gì là đây kia, mà nói dư, nói thiếu? Nghe nói dư thiếu, đây kia liền theo đó tưởng tượng sanh hiểu nên thành ngăn ngại. Quả thật bị gạt mà không hay! Ý nghĩa xoay đầu là bờ mé, càng quá rõ!

IV. Ý NGHĨA HỒI ĐẦU THỊ NGẠN VỚI THIỀN ĐỐN NGỘ

Với tinh thần của Thiền đốn ngộ, chúng ta thấy ý nghĩa trên đây càng sâu, không thể giải thích dễ dàng theo chữ nghĩaNhư Linh Mặc đến chỗ Hòa thượng Thạch Đầu thưa hỏi không khế hợp, Sư liền đi ra. Thạch Đầu đi theo sau đến cổng, liền gọi:
- Xà-lê!
Sư xoay đầu lại. Thạch Đầu bảo:
- Từ sanh đến tử chỉ là thế ấy, xoay đầu chuyển não làm gì?
Sư liền đại ngộ.

Như vậy, mới đó, trước khi xoay đầu là còn mê, rồi xoay đầu lại liền ngộ, chỉ trong một cái xoay đầu thôi, không phải quay đầu là bờ mé sao? Cái ngộ đó ở đâu chạy lại? Trong đó cái gì là thêm bớt, đây kia? Cũng như Đức Phật thành đạo khi sao Mai mọc. Trước khi sao Mai mọc, Ngài chưa thành đạo; sau khi sao Mai mọc liền thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vậy Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đó ở đâu chạy lại mau như vậy? Rõ ràng thành đó, là thành ngay tự tâm giác ngộ thôi, không có ở đâu khác. Ngoài tâm lấy gì thành? Nếu ngoài tâm mà có đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác để thành, thì đó là cái Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trong sách vở rồi! Cần phải xoay lại ngay tự tâm mới là đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác sống, trái lại là đạo Vô thượng chết!
Và đây, trường hợp ông cư sĩ Phạm Xung làm Tả thừa, tự là Trí Hư, ông đến gặp Thiền sư Mân ở viện Viên Thông. Uống trà xong, ông thưa:
- Con sắp già rồi mà còn rơi vào con đường quan, nên cách việc này hơi xa.
Thiền sư Mân gọi:
- Nội hàn!
Ông ứng:
- Dạ!
Sư bảo:
- Có xa đâu?
Ông vui mừng thưa:
- Xin thầy lặp lại lời chỉ dạy.
Sư bảo:
- Từ đây đến Hồng Đô có bốn lộ trình.
Ông đứng suy nghĩ. Sư bảo:
- Thấy tức liền thấy, suy nghĩ liền sai.
Ông chợt có tỉnh.

Ông cư sĩ Phạm Xung cứ tưởng là việc này ở đâu đó, cách xa không với tới, nào ngờ ngay tiếng gọi, liền dạ, ai không có? Phải đợi thời gian gì? Cái "biết dạ" đó từ đâu chạy tới? Còn có gì nhanh hơn, gì thực tế hơn? Trong đây ai không có quyền nhận? Chỉ có điều quan trọng là phải chân thật với chính mình.Thiền sư Thiên Quế từng nhắc đệ tử: "Các ông phải chân thật trong mọi việc, không có gì chân thật trong đời mà không chân thật trong Phật pháp, và không có gì không chân thật trong Phật pháp, lại chân thật trong đời."
Sư cũng nói: "Thấy bằng mắt, nghe bằng tai, không có gì trên đời ẩn giấu, các ông muốn ta nói gì nữa?"

(Những nụ cười Thiền)

Nghĩa là, chúng ta cần chân thật ngay chính mình, không tự lừa dối mình bằng những niệm kia đây, thì hiện tại THẤY, NGHE đều nhiệm mầu, đều sáng ngời ánh sáng Chánh Giác, không qua văn tự chữ nghĩa. Sách vở làm sao ghi được cái này? Song trong đây có ai đã thực sự chân thật với chính mình chưa? Một lẽ thật một trăm phần trăm như vậy, tại sao không thấy? Lỗi tại ai?
Kìa, Sùng Tín theo hầu Hòa thượng Đạo Ngộ một thời gian lâu. Một hôm Sư thưa:
- Từ ngày con vào đây đến nay, chưa được Thầy chỉ dạy tâm yếu.
Đạo Ngộ bảo:
- Từ ngày ngươi vào đây, ta chưa từng chẳng chỉ dạy tâm yếu cho ngươi.
Sư thưa:
- Chỉ dạy ở chỗ nào?
Đạo Ngộ bảo:
- Ngươi dâng trà lên, ta vì ngươi mà tiếp; ngươi bưng cơm đến, ta vì ngươi mà nhận; ngươi xá lui, ta vì ngươi mà gật đầu, có chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu cho ngươi đâu?
Sư cúi đầu lặng thinh giây lâu. Đạo Ngộ bảo:
- Thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai.
Ngay câu nói đó, Sư tỏ ngộ.

Bởi Sư cứ tưởng tâm yếu là cái gì cao xa, ở đâu đâu, nên cứ trông chờ, mong mỏi. Không ngờ chính chỗ sống hàng ngày mà tự mê thôi. Điểm cần chú ý là: "Nhận thì liền nhận, suy nghĩ liền sai." Ngay một cử chỉ, hành động đó, mà chưa qua suy nghĩchưa có cái ta xen vào thì có gì che mờ được nó? Ngay đó vẫn sáng ngời, ai không có ?
Cũng như, ngay cái xoay đầu mà chưa kịp suy nghĩ thì "cái gì biết xoay ?" Cần thấy, có cái đầu thì dùng cái đầu xoay, nếu không đầu lấy cái gì xoay? Phải thấy qua cái đầu. Ngay cái xoay đầu mà quên mất chỗ xoay, tự sống dậy trong đó xưa nay chưa từng xoay chuyển, vẫn hằng như thế, còn ai dối gạt được mình? Liền đó quên hết bờ này, bờ kia, chính ngay đó là Đạo, còn tìm đâu nữa? Thật thẳng tắt vô cùng, đâu còn con đường nào hơn! Sáng được chỗ này, thì chính ngay đó là Phật ra đời, và Phật có thể ra đời bất cứ lúc nào, chỉ người có nhận hay không thôi!

V. TÓM KẾT: CHÂN THẬT CHÍNH MÌNH LÀ ĐÂY

Nói dài dòng, rốt cùng chỉ ngay cái sống hằng ngày đây là đủ tất cả, không thiếu thốn. Chỉ cần NHỚ lại là xong! Bởi gọi là MÊ, tức là quên chứ gì? Mà quên cái gì? Quên cái sẵn có thôi!
Ngay đây nhớ lại, là Giác. Chỉ một chút Quên với Nhớ mà tự làm cách biệt xa xôi như trời với đất!

Trong Thiền sử có câu chuyện Thiền sư Trí Thông ở trong hội của Hòa thượng Quy Tông, một hôm đang giữa đêm khuya bỗng la lên:
- Tôi đại ngộ rồi! Tôi đại ngộ rồi!
Sáng ra, Quy Tông hỏi:
- Đêm rồi ai la đại ngộ hãy ra đây xem!
Sư ra thưa:
- Dạ, con.
Quy Tông hỏi:
- Ông thấy cái gì?
Sư thưa:
- Sư cô nguyên là người nữ làm.

Người nghe nói NGỘ, cứ tưởng tượng là cái gì đó thật lạ lùng, kỳ đặc, không ngờ rất đơn giản, không chút màu mè. Ngộ cái gì? "Sư cô vốn là người nữ", vậy thôi! Ai hiểu thế nào thì hiểu! Người không biết, tự làm ra vẻ kỳ đặc, khác thường, để tỏ cho người biết "ta đã ngộ", chính đó là bệnh, biểu lộ tướng ngã mà không hay!
Tóm lại, chân thật là ở ngay chính mình, xoay lại tự tâm là GỐC tất cả pháp, chạy ra ngoài là mê. Để kết thúc, xin dẫn câu chuyệnbà già đến Thiền sư Đại Đồng thưa:
- Nhà tôi vừa mất trâu, thỉnh thầy bói xem!
Sư liền gọi:
- Bà lão!
Bà ứng:
- Dạ!
Sư bảo:
- Đây rồi!
vui vẻ ra về.

Như vậy, trâu có mất đi đâu? Có được ở chỗ nào? Nghe gọi, liền dạ thì trâu vẫn còn đó, vẫn rất là ngoan mà! Chỉ chợt "À!" lên là xong. Quay đầu lại, ngay đó là Bờ Mé, chớ thêm gì khác nữa!

TT Thích Thông Phương (Thiền viện Thường Chiếu)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9876)
Nghiệp quả: Quả chín (trên năm uẩn), * Quả tương đương với nhân,# Nghiệp quả qua hoàn cảnh
(Xem: 15139)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 7933)
Những truyền thống khác nhau của Tây Tạng đến từ Đức Phật - Kadam, Sakya, Kagyu, và Nyingma - tất cả theo sự trình bày của những ...
(Xem: 9591)
Chủ đề về tánh không bao hàm tất cả giáo huấn Phật Giáo bởi vì chính Đức Phật hít thở bằng tánh không (hiện hữu, trường tồn và sống trong tánh không)
(Xem: 9648)
Từ Bi, có nghĩa là tình thương yêu rộng lớn đối với muôn loài hữu tình chúng sanh (loài ngườisúc vật). Tình thương rộng lớn này được...
(Xem: 8136)
Pháp thân Phậttánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thânquang minhHóa thân là thân vật chất;
(Xem: 10303)
Thường nghe rằng, cửa ngõ vào Chánh đạo, sự phát tâm quan trọng nhất; việc gấp trên đường tu, không gì hơn lập nguyện.
(Xem: 8715)
Không có hiện tượng nào đang tồn tại mà không phải là kết quả của nhân duyên
(Xem: 9154)
Đức Phật có nói: "Như Lai đã đạt đến sự hiểu biết rõ ràng về điều nầy, nghiệp lực, xuyên qua trí huệ cao cả của chính Như Lai."
(Xem: 9029)
Sau khi Đức Phật giác ngộ, bài giảng đầu tiên của ngài tập trung vào Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế), đó chính là nền tảng của Đạo Phật.
(Xem: 8169)
Bốn dấu ấn của hiện hữu, Phạn ngữ gọi là caturlaksana, Pà li ngữ là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 8948)
Chúng ta cần phải quy y Tam bảo để cứu mình ra khỏi đường hiểm khổ đau, đến chỗ an vui giải thoát.
(Xem: 25784)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 9058)
Để phân biệt với người không Phật tử, có sự quy y hay phương hướng an toàn, và để phân biệt với con đường Tiểu thừa, có sự quy y của Đại Thừa.
(Xem: 14415)
"Lý thuyết Nhân tính qua kinh tạng Pàli" là đề tài luận án Tiến sĩ do Thượng tọa Thích Chơn Thiện thực hiện và đệ trình tại Đại học Delhi
(Xem: 8205)
Thưa đại đức! Khi thọ khổ phát sanh, bậc A-la-hán chỉ thọ có một khổ thọ ấy, còn phàm phu thì thọ luôn cả hai thọ khổ, có phải vậy chăng?
(Xem: 8583)
Con số 84.000 trong do ngài An Nan thuật lại trong Trưởng Lão Kệ của Tiểu Bộ chính là 84.000 Pháp tức “dhamma” trong tiếng Pāḷi.
(Xem: 11904)
Đạo Phật không mang đến cho ta tiền tài hay danh vọng mà chỉ cho ta tình yêu thương bất diệthạnh phúc đích thực miên viễn trong dòng khổ đau của nhân sinh
(Xem: 9059)
Theo truyền thống sinh hoạt tu học của chư Tăng Ni từ thời Đức Phật còn tại thế, cứ đến ngày kết thúc một mùa an cư thì Đức Thế Tôn cùng chư Tăng Ni đều...
(Xem: 10368)
Mối quan hệ sâu đậm với một vị thầy tâm linh có thể là sự nối kết thăng hoa và quan trọng nhất trong một đời người.
(Xem: 8363)
Thức( vijnana) là dòng trôi tương tục dao động sáng tạo với những biểu đồ phức tạp được chi phối bởi những hệ quy chiếu mang màu sắc chủ quan
(Xem: 8982)
Không ai có khả năng biết được, sự bắt đầu của thế giới luân hồi (trong các cuộc sống diễn tiến liên tục, ở trong vòng sinh tử).
(Xem: 9997)
Đức Phật Thích Ca đã thường nói về Năm Uẩn, cũng còn được gọi là Năm Tập Hợp, hoặc là Năm Đống Hàng Cao Như Ngọn Núi.
(Xem: 9442)
Dục là nguyên nhân của khổ đau, nguồn gốc của dục có từ vô thỉ, sự trói buộc của nó đối với chúng sanh trong luân hồivô lượng kiếp.
(Xem: 8193)
Từ ngữ Niết Bàn xuất phát từ nguồn có ý nghĩa là "Dập tắt ngọn lửa", để nói đến việc dập tắt đi những ngọn lửa tham lam, sân hận, và si mê (tham sân si).
(Xem: 9479)
Niết bàn được xem là mục đích cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thóat khỏi các kiết sử tùy miên...
(Xem: 8515)
Như tâm, Phật cũng vậy Như Phật, chúng sanh đồng Nên biết Phật cùng tâm Thể tánh đều vô tận
(Xem: 10948)
Hoa Sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiếtthánh thiện, sự duy trì và phát triển Phật pháp, trí tuệ dẫn đến Niết Bàn.
(Xem: 9082)
Con người sinh ra trong thế giớidần dần, ngoài những sự vật đã có trong thiên nhiên, sáng chế ra những sự vật để dùng trong cuộc sống.
(Xem: 10528)
Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy, chúng ta chỉ có cặp mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên một là tất cả, chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất cả đặc điểm của Phật giáo.
(Xem: 8291)
Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại.
(Xem: 10287)
Tất cả các pháp nhân duyên sanh Thể tánh chẳng có cũng chẳng không Ở nơi nhân duyênsanh khởi Trong đó đều trọn không chấp trước
(Xem: 10465)
Nhân sau cùng sinh quả dị thục, Nhân đầu tiên sinh quả tăng thượng, Nhân đồng loại, biến hành sinh quả đẳng lưu, Nhân câu hữu, tương ưng sinh quả sĩ dụng
(Xem: 9013)
Đức Phật thị hiện là một con người như mọi người, điều này khẳng định cho chúng ta biết ngài không phải là thần linh, thị hiện ở núi non kỳ dị.
(Xem: 8256)
Tâm Bồ Đề (skt:Bodhicitta) là tâm giác ngộ, tâm thấy được bản mặt thật của chư pháp, tâm tin nơi nhân quảPhật Tánh nơi chúng sanh cũng như luôn dụng công tu hành hướng về quả vị Phật.
(Xem: 16652)
Muốn hết Nghiệp thì Tu ! Thì, Trì Chú ! Đó là “Thực Phẩm ngon” của Người Tu Hành xưa cũ.
(Xem: 12311)
Phật Học Vấn Đáp - Duy Thức Học Phần thứ 8; Lý Bỉnh Nam giải đáp, Thích Đức Trí chuyển ngữ
(Xem: 12268)
Hãy nương tựa vào chính mình, tự xem mình là ngọn đuốc soi đường cho mình, là nơi an trú cho mình, mà không cần một nơi an trú nào khác cả...
(Xem: 8798)
Nguyên tác: Background for Understanding Bodhichitta, Tác giả:Alexander Berzin/ Riga, Latvia, July 2004; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10221)
Giáo thuyết tối thượng tịnh hóa tâm thức, Là việc vắng mặt sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 8542)
Điều cương quyết để thọ tám chi của Luật nghi này, là phải có tối thiểu một vị Tỷ-kheo làm giới sư truyền thọ, chứ không thể tự một mình phát nguyện thọ trì được.
(Xem: 9074)
Trong Đạo Phật thuật ngữ tự ngã có hai ý nghĩa phải được phân biệt nhẳm để tránh nhầm lẫn. Một ý nghĩa của tự ngã là ‘cá thể’ hay ‘chúng sinh’.
(Xem: 10378)
Có nguồn gốc từ Ấn-độ, là tín lý căn bản trong Ấn-độ giáo, Phật giáo cũng như Kỳ-na giáo, và cả đến đạo Sikh; được truyền vào Trung hoa rất sớm, dịch là nghiệp,
(Xem: 8748)
Cận trụ nguyên ngữ Sanskrit là là upavāsatha, Hán phiên âm là ô-ba-bà-sa, Ưu-ba-bà-tố-đà, Ưu-bà-sa, U-ba-bà-sa, Ô-bô-sa-tha v.v…
(Xem: 8219)
Nói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thểxúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề...
(Xem: 8749)
Nguyên tác: Introduction to Bodhicitta - Tác giả: Alexander Berzin/ Riga, Latvia, June 2003 - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8089)
Đẳng lưu nhân-quả, là một trong những tư lương quan trọng trên con đường trung đạo, trong lộ trình tu tập thông đạt chánh kiến về duyên khởi hay mười hai chi duyên.
(Xem: 7859)
Ly Hệ Quả Sanskrit gọi là Visamyogaphala. Visam là thoát ly, tách rời, đoạn trừ, ly khai. Yoga là tương ưng, liên hệ. Nên Ly hệ, visamyoga: dứt khỏi sự trói buộc.
(Xem: 9570)
Tôi đã tìm thấy chìa khóa của hạnh phúc, và tôi đã bị thuyết phục rằng, tôi đã vượt qua mọi nhà sư khác về sự cao quý. Nhưng mỗi khi tôi rời thiền đường, những cánh cửa lại thì-thầm, 'Tất cả là không.'
(Xem: 8730)
Từ nơi Thánh Trí tối thượng ba-la-mật, đức Thế Tôn tuyên thuyết Kinh Năng Đoạn Kim Cương, nên Kinh này dạy rất nhiều vấn đề cốt lõi của giáo Pháp.
(Xem: 10693)
Như lý tác ý (Yoniso manasikàra) hay còn gọi là như lý khởi tư duy là một thuật ngữ Phật học dùng để nói về cách nhìn sự vật hay hiện tượng một cách đúng đắn theo quan niệm của đạo Phật.
(Xem: 15143)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Śīla: học xứ, học giới,... nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể.
(Xem: 12821)
Nếu chúng ta thật sự quan tâm về tương lai chính chúng tahạnh phúc an lạc của chính đời sống của mình, chúng ta nên phát triển một thái độ tinh thần trong điều mà thực hành từ bi đóng một vai trò trung tâm.
(Xem: 8146)
Những giới khinh của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân thành bảy nhóm gây thiệt hại...
(Xem: 16744)
Chúng ta cũng có thể sử dụng cách dịch phổ thông hiện này là: Như Thị Ngã Văn 如是我聞: Tôi nghe như vậy, tôi nghe như thế v.v...
(Xem: 6282)
“Phật y trên năm hạng chủng tánhthành lập năm thừa: Chủng tánh Thanh văn thừa; Bích-chi-phật thừa; Như lai thừa; Bất định thừa; và vô tánh thừa.
(Xem: 9608)
46 đại nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà...
(Xem: 7052)
Bốn pháp căn bản thành tựu thần lực, bốn cơ sở để có sức mạnh tinh thần hay sức mạnh tâm linh....
(Xem: 7731)
Quán Thế Âm, ngữ nguyên Sanskrit là Avalokiteśvaras, āvalokiteśvaro, avalokiteshvara là danh từ số ít Phạn ngữ, Hán dịch là Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại.
(Xem: 7068)
Thành Duy Thức Luận trình bày hai quả chuyển y là Đại Niết-bàn và Đại Bồ Đề; Do đoạn trừ hết thảy các chướng mà thành tựu hai quả vị thù thắng này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant