Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Truyền Thuyết Đức Phật Di-lặc

02 Tháng Năm 201806:08(Xem: 7764)
Truyền Thuyết Đức Phật Di-lặc
Truyền Thuyết Đức Phật Di-lặc


Phước Nguyên

Truyền Thuyết Đức Phật Di-lặc


Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai, phần lớn người ta thường nhắc đến đầu tiên là Bồ-tát Di-lặc, hình ảnh vị Bồ-tát Đại sĩ được tôn thờ phổ biến trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền. Danh hiệu ngài vốn không chỉ quen thuộc đối với Phật tử Đại thừa, mà cũngxuất hiện rất nhiều trong kinh điển Pāli thuộc bộ pháiTheravāda.

1. Danh hiệu

 “Di-lặc 彌勒”, tiếng Sanskrit gọi là Maitreya (Pāli: Metteyya), ngài Huyền Tráng phiên âm là: Mỗi-đát-lị-da 梅呾利耶, dịch làTừ thị 慈氏, xưa phiên là Xưng (Di?)-đế-lệ 稱帝麗 hay Di-lặc 彌勒, thảy đều nhầm với tiếng Sanskrit.

Về danh hiệu “A-dật-đa 阿逸多” cũng gọi A-di-đá, hay A-thị-đa, Sanskrit=Pali: Ajita, Hán dịch: Vô Năng Thắng 無能勝.Danh hiệu này các thư tịch ghi nhận không đồng nhất:

-Truyền thống bộ pháiCăn cứ vào các tài liệu Hán tạng, đại biểu là Trung A-hàm 13, kinh 66. Thuyết bản[1], đơn hành bản tương đương: No. 44, Cổ lai thế thời kinh, cho thấy trong Phật giáo bộ phái, A-dật-đa (Ajita) và Di-lặc (Mettaya), là hai nhân vật khác nhau, cả hai vị này đều là Tỷ-kheo trong chúng Thanh văn được Phật Thích-ca thọ kí, một vị làm vua Chuyển luân và một vị làm Phật.

-Truyền thống Đại thừa: Căn cứ Hán dịch, kinh Pháp hoa 6, phẩm Tùy hỉ công đức[2], đức Phật gọi Di-lặc là A-dật-đa (Ajita). Điểm này cũng được thấy tương đương trong thủ bản Saddharmapuṇḍarīkasūtrambằng tiếng Sanskrit[3], tức đồng nhất hai nhân vật là Di-lặc và A-dật-đa thành một[4].

2. Huyền kí thị hiện

Về kỉ nguyên của đức Phật Di-lặc, trong Trường A-hàm 6– kinh Chuyển luân vương tu hành nói rõ:

Trong lúc nhân loại sống tám vạn tuổi, con gái đến năm trăm tuổi mới gả chồng, và có chín thứ bệnh (…) Vào thời kì ấy thì có đức Phật ra đời hiệu là Di-lặc Như Lai.”[5]

Huyền kí này cũng được tìm thấy tương đương trong kinh 26Cakkavatti (Chuyển luân vương)[6] thuộcDīgha-nikāya:

Khi tuổi thọ loài người lên đến tám vạn tuổi, bấy giờ có Thế Tôn hiệu là Di-lặc xuất hiện ở đời.”

Hệ Pāli còn có một bản thi tụng nhan đề: Anāgatavaṃsa (Đương lai ký), kể riêng về chuyện đức Phật Di-lặc đương lai, được nói là do Trưởng lão Kassapa soạn; tài liệu Journal of the Pali Text Society, 1886.

Huyền ký tương tự cũng được nói đến trong Trung A-hàm 13, kinh 66. Thuyết bản. Ở kinh này có thêm chi tiết khác:

Sau khi nghe đức Thế Tôn huyền ký về sự xuất hiện của một Chuyển luân vương tên Loa[7], bấy giờ tronghội chúng có một vị Tỷ-kheo tên là A-di-đá[8] đứng dậy bạch Phật, ông muốn trong tương lai ông sẽ là vịChuyển luân vương đó: “Bạch Thế Tôn! Một thời gian lâu dài ở vị lai, lúc con người thọ đến tám vạn tuổi, con sẽ có thể được làm vua, hiệu là Loa, là Chuyển luân vương”[9]. Ước nguyện này bị Phật khiển trách: “Ngươi là kẻ ngu si, chỉ nên chết thêm một lần, sao lại mong một lần tái sanh nữa”[10]. Tỷ-kheo này bị quở trách, vì không mong cầu chấm dứt bóng tối của đêm dài sinh tửchứng nghiệm vô thượng Niết-bàn; lại muốn tái sinh nhiều đời kiếp nữa để làm vua chúa. Sau đó Phật lại huyền ký về sự xuất hiện của vị Phật tương lai hiệu Di-lặc, trong triều đại Loa Chuyển luân vương. Bấy giờ tôn giả Di-lặc cũng hiện diện trong hội chúngđứng dậy chắp tay bạch Phậtphát nguyện sẽ là vị Phật được huyền ký đó: “Bạch Thế Tôn! Mộtthời gian lâu dài ở thời vị lai, lúc con người thọ mạng đến tám vạn tuổi, con sẽ thành Phật hiệu là Di-lặc Như Lai”[11]. Phát nguyện này được Thế Tôn tán thán: “Lành thay! Lành thay! Di-lặc, ngươi phát tâm cực diệulà lãnh đạo đại chúng”[12]. Ngay khi ấy, đức Thế Tôn dạy ngài A-nan mang ra chiếc y được dệt bằng kim tuyến do bà Kiều-đàm-di hiến cúng Phật, trao cho Di-lặc: “Này A-nan, ngươi hãy lấy tấm y được dệt bằng sợi tơ vàng mang lại đây. Nay Ta muốn cho Tỷ-kheo Di-lặc”[13]. Tuy ước nguyện tái sinh nhiều đời nữa, nhưng Di-lặc được Phật khen ngợi, vì ước nguyện quảng đại: “vì muốn cứu hộ thế gian và mong cầu thiện lợi và hữu ích, mong an ổn khoái lạc (cho thế gian)” [14].

Tuy có một vài điểm sai khác giữa các truyền thống kinh điển, nhưng điểm được thừa nhận chung và phổ biến: Tỷ-kheo Di-lặc là vị Phật tương lai, sau một thời gian dài, kế tiếp đức Phật Thích-ca để tuyên thuyếtvà truyền thừa Chánh PhápHiện tại, Ngài đang là Bồ-tát trú tại cung trời Đâu-suất (Tuṣita)[15]. Sự hiện hữu này được kinh điển gọi là là nhất sinh bổ xứ Bồ-tát[16], hay nhất sinh sở hệ Bồ-tát[17]. Phật giáo Bộ phái và Đại thừa đều chấp nhận quan điểm này. Địa vị đã chứng nghiệm của Ngài hiện tạiavaivartya-bhūmi, Hán dịch là A-duy-việt-trí địa hay A-bệ-bạt-trí địa (bất thối chuyển).

3. Khảo sát về danh hiệu “A-dật-đa 阿逸多

Bài khảo luận này dành riêng một mục để khảo sát về danh hiệu A-dật-đa, vì như đã nói ở phần 1, danh hiệu này các truyền thống ghi nhận không đồng nhất.

“A-dật-đa”, tiếng Sanskrit: Ajita, Pāli: Ajita, Tây Tạng: Mi tham pa. Hán phiên âm: A dật 阿逸, A thị đa 阿嗜多, A thị đa 阿恃多, A chế đa 阿制多, A di đà 阿夷陀, A thì đa 阿時多, A di đầu 阿夷頭, A dật đa阿逸多, A thệ đảm 阿誓擔, Kha dật đa 呵逸多, A di đa 阿夷多, Ai di đà 哀駘它 v.v… Dịch là: Vô thắng 無勝[18] Vô năng thắng 無能勝[19], Vô tam độc 無三毒[20], Thiên thắng天勝.

Từ Ajita trong tiếng Sanskrit và kinh tạng Pāli là danh hiệu của nhiều nhân vật khác nhau, nên khi truyền sang Trung quốc nó không được phiên âm một cách thống nhất. Thậm chí cùng một người mang tên Ajita, nhưng văn bản Trung quốc có đến ba bốn từ phiên âm khác nhau, tùy theo nhận thức của dịch giả. Dưới đây là sự khảo sát những nhân vật chính yếu, khác nhau, cùng mang danh hiệu Ajita xuất hiện trong văn học Phật giáo.

a. Tên một Tỷ-kheo đệ tử Phật

Trung A-hàm 13 (kinh Thuyết bản)[21], Hiền ngu kinh 12[22] ghi nhận A-dật-đa là danh hiệu một vị đệ tửPhật được huyền kí sẽ trở thành vị Chuyển luân vương tên Loa[23]. Đồng thời kinh cũng ghi rằng có tôn giả Di-lặc, cũng là đệ tử Phật Thích-ca, được huyền kí trở thành Phật Di-lặc.

Như thế, A-dật-đa và Di-lặc từ nguyên ủy là hai nhân vật khác nhau cùng là đệ tử Phật. Sự kiện này, đượcxác nhận cụ thể trong văn hệ Pāli:

Sutta Nipāta (kinh Tập) có kinh Tissamet­tey­ya (Đế-tu Di-lặc)[24], Tissa­met­teyya­māṇava­pucchā (câu hỏi của Đế-tu Di-lặc)[25] và Ajitamāṇavapucchā (câu hỏi của A-dật-đa)[26] xác định sự khác nhau như vậy giữa A-dật-đa và Di-lặc.

-Sutta Nipāta 5.1, có Vatthugāthā[27] còn ghi rằng họ là hai Phạm chí đệ tử của Bāvari:

Bāvarissa vaco sutvā,
Sissā soḷasa brāhmaṇā;
Ajito tissametteyyo,
Puṇṇako atha mettagū

“Nghe lời Bāvari,
mười sáu người đệ tử Bà-la-môn:
Ajita, Tissametteyya,
Punnaka, Mettagu ...”

Theragāthāpāḷi (Trưởng lão kệbài kệ 20. Ajitattheragāthā, do Ajita là tác giả[28].

Aṅguttaranikāya (Tăng chi bộ) có kinh Ajita[29], thuật lại tăng sĩ Ajita hỏi đức Phật: Thế nào là lời nói đúng pháp? Thế nào là lời nói phi pháp?

-Apadāna (1. 397) kể về thượng tọa Ajita và tiền thân của Ajita dưới thời Thế Tôn Padumuttara đượchuyền kí sẽ trở thành đệ tử của Thế Tôn Gotama.

Như vậy, căn cứ các thư tịch được liệt kê ở trên, cùng với nền văn học chú giải của hệ Pāli, chúng ta có thể phác họa lại hình ảnh Ajita như sau:

Ajita thuộc giai cấp Bà-la-môn, sinh ra tại Śrāvastī (Xá-vệ). Cha làm quan thời vua Kośalā, lớn lên Ajita trở thành một ẩn sĩ của Bāvari sống trong vùng Assaka và Mulaka, dọc theo bờ sông Godhāvari củaDakkhinajanapada (cộng hòa miền nam). Sau này, Ajita hội kiến đức Phật, với tư cách ẩn sĩ, đã hỏi Phật về pháp và phi pháp (như được tường thuật trong kinh Ajita của Aṅguttaranikāya). Đến khi Bāvari nhờ Ajita đến thưa hỏi đức Phật về việc bị vỡ đầu, Ajita được Phật giải đáp, rồi ông xin được xuất giatu tập vàchứng quả A-la-hán.

Điểm cần chú ý ở đây là nhân vật Ajita này lại khác với Tissametteyya. Chính kinh Thuyết bản dẫn trên, đã nói rõ tôn giả A-di-đa (Ajita) và Di-lặc (Mettaya) là hai đệ tử của Phật Thích-ca. Đoạn kinh này cũng đượcĐại tỳ-bà-sa luận 178[30], dẫn và giải thích, có hai nhân vật này khác nhau, một vị gọi là Bí-sô A-thị-đà 阿氏多, còn vị kia thì gọi là Bồ-tát Từ thị 慈氏.

blank
Một bức tượng của Bồ Tát Di Lặc, tại chùa Kōryū-ji


b. Tên tự của đức Phật Di-lặc.

Như đã trình bày, mặc dù tên A-dật-đa và Di-lặc là để chỉ cho hai vị đệ tử khác nhau của đức Phật. Nhưng trong Phật giáoĐại thừa, đã đồng nhất hai vị này thành một. Ngay từ thời La-thập, sự đồng nhất này đã xảy ra:

Chú Duy-ma-cật kinh 1 (Phật quốc phẩm), Tăng Triệu ghi lạiquan điểm của La-thập: "Di-lặc là họ, A-dật-đa là tự, là con của một người Bà-la-môn ở Nam Thiên Trúc"[31].

Sự đồng nhất này sau đó đã trở thành một định lệ cho các chú sớ sau này:

-Nhất thiết kinh âm nghĩa 71, Đường, Tuệ Lâm soạn: "A-thị-đa, đây dịch là Vô thắngCựu dịch A-kỳ-đa, hoặc A-dật-đa đều là sai. Đó là tên đời nay của Di-lặc"[32].

-A-di-đà kinh sớ của Khuy Cơ: "Bồ tát A-dật-đa, tân dịch dựa vào ‘Xưng tán tịnh độ kinh’ dịch là Vô Năng Thắng hoặc gọi là Di-lặc, đây dịch là Từ thị, do ngài hay tu tập lòng từ, hay nhập định từ, nên gọi là Từ thịtu tập lòng từ tối thắng, nên gọi Vô Năng Thắng"[33].

Tân dịch đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh âm nghĩa 1: "A-dật-đa gọi cho đúng là A-chế-đa, đây dịch là Vô Năng Thắng"[34].

Như vậy, theo truyền thống Đại thừa Phật giáo, A-dật-đa chính là tên chữ của Bồ-tát Di-lặc.

c) Tên vị A-la-hán thứ mười lăm trong mười sáu vị A-la-hán.

Đại Tạng Kinh 49, số hiệu 2030, Đường, Huyền Tráng dịch, Đại A-la-hán Nan-đề-mật-đa-la sở thuyết pháptrụ ký, 1 quyển[35] trang 12c7- 14c22, có kể một câu chuyệntóm tắt như sau:

A-la-hán Nan-đề-mật-đa-la ở nước Sư tử[36], khi gần viên tịch đã nói cho đệ tử mình biết rằng, từ lâu đức Thích-ca Thế Tôn đã dặn dò và kí thác mười sáu vị A-la-hán trở lại để hộ trì Chánh Pháp, mà vị thứ mười lăm danh hiệu là A-thị-đa sẽ ở tại đỉnh Linh Phong cùng với 1500 vị A-la-hán thân thuộc để hộ trì.

Huyền thoại mà Pháp trụ kí này nói tới, cũng thấy xuất hiện trong ĐTK Tây Tạng, thông trật đệ 64Wa, No.231, trang 1b1-112b7, Ḥphags-pa dkon-mchog sprin shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo; do Rin-chen ḥtsho và Chos-ñid tshul-khrims dịch[37]; Hán tương đương, ĐKT 16, số hiệu 0658, Bảo vân kinh 7, Lương, Mạn-đà-la-tiên dịch[38].

Kể từ khi Huyền Tráng dịch Đại A-la-hán Nan-đề-mật-đa-la sở thuyết pháp trụ kýtín ngưỡng về mười sáu vị A-la-hán này phát triển hưng thịnh và trở thành đề tài của nhiều tác phẩm hội họa và điêu khắc, cũng như văn họcthi ca ngợi khen, mà hiện nay ở Trung quốc, người ta đã tập thành trong La hán đồ tán tập[39]. Tại đây, hình tượng La-hán A-dật-đa được vẽ thành một hình dáng khắc khổ, diện mạo già nua, má hóp vào, hai tay ôm đầu gối, dáng nhìn cuộc đời một cách thiểu não, nên Đức Thanh đã vịnh một bài thơ như sau (Lê Mạnh Thát dịch):

Nhọc gì ôm gối,
Lồi lõm đầu non,
Miệng hàm vừa mở,
Dáng lưỡi khá dòn,
Dùng mắt thuyết pháp,
Mở nhắm không thường,
Thay nhau sáng tối,
Sáng ấy sao vương.

Ở Việt Namtín ngưỡng mười sáu vị A-la-hán này được phát triển không kém. Chùa Tây Phương (Hà Nội), hiện có tôn tượng mười sáu vị A-la-hán này rất nổi tiếng. Tại đây, tượng của vị A-la-hán A-dật-đa này được gọi là Di-lặc và điêu khắc đúng theo hình mẫu đức Phật Di-lặc, tức diện mạo vui vẻ, đầy đặn, bụng phệ, ngực để trần, hình ảnh khác hoàn toàn với những hình vẽ La-hán này tại Trung quốc[40].

4. Bồ-tát Di-lặc dạy Thiện Tài phát Bồ-đề tâm

Bồ-đề tâm là gì?

Bồ-đề tâm 菩提心, tiếng Sanskrit gọi là Bodhicitta, Tib. byang chub sems, nói đủ là anuttara-samyak-saṃbodhi-cittavô thượng bồ-đề tâm 無上菩提心, hay 阿耨多羅三藐三菩提心 a-nậu-đa-la tam- miệu-tam-bồ-đề tâm, tức tâm nguyện thành tựu sự giác ngộ tối thượng:

Bồ đề tâm, đó là chí nguyện nóng bỏng của một chúng sinh tự thấy mình đang sống trong cảnh tối tăm, giữa đọa đày khổ nhục, mong tìm một con đường sáng không những để giải thoát bản thân khỏi những đe dọa áp bức mà còn là để giải thoát cho tất cả những người cùng cảnh ngộ.

Bồ-đề tâm, đó là ý chí kiên cường bất khuất của một người bị cột trói trên ngọn lửa rực cháy, bị chà đạpdưới những sức mạnh tàn khốc của tham vọng điên cuồng của chính ta và của một tập thể ma quái chung quanh ta.”[41]

Do vậy, lời Phật dạychúng ta cần ghi nhớ:

“Vui cười gì, thích thú gì, giữa ngọn lửa không ngừng thiêu đốt?
Bị bao phủ trong bóng tối, sao không đi tìm ngọn đuốc?”[42]

Không có tâm nguyện Bồ-đề đó, không có ý chí giác ngộ đó, thì quả vị Phật thừa không thể kì vọng được, cũng không hơn một tiếng nói suông của một người mê sảng trong giấc ngủ ngày và sự an lạc và giải thoáttrong hiện tại chỉ là một miền đất hứa xa xôi, không tưởngthần thoại hoang đường, mà không bao giờ có thể tìm thấy trong thế gian này.

Nhưng tâm nguyện Bồ-đề chỉ có thể được phát khởi khi gốc rễ của tín tâm đã được gieo trồng cẩn thận. Ngài Nāgārjuna trong Đại trí độ nói: «Phật pháp như đại hải, có thể vào bằng tín, có thể vượt qua bằng trí»[43], và cũng trong luận này ngài đã minh giải về ý nghĩa của Bồ-đề tâm: “Vị Bồ-tát sơ phát tâm, lấy vô thượng Bồ-đề làm đối tượng, nói rằng: Mong tôi sẽ thành Phật. Đó gọi là Bồ-đề tâm.”[44]

Khi đề cập về ý nghĩa độc đáo của Bồ-đề tâm và phát Bồ-đề tâm, có lẽ không giải thích nào lý thú về đề tài này hơn kinh Hoa nghiêm, thông qua sự thuyết giảng của Bồ tát Di-lặc cho Thiện Tài đồng tử:

Bồ-đề tâm là hạt giống của hết thảy Phật PhápBồ-đề tâm là ruộng phước vì nuôi lớn pháp bạch tịnh. Bồ-đề tâm là cõi đất lớn, vì nâng đỡ hết thảy thế gianBồ đề tâm là tịnh thủy, vì rửa sạch tất cả cáu bợn phiền não, Bồ-đề tâm ví như gió lớn, vì nó thổi khắp thế gian không bị cản ngại; Bồ-đề tâm ví như lửa lớn, vì nó có khả năng thiêu rụi hết thảy rừng củi tà kiếnBồ-đề tâm ví như mặt trời thanh tịnh, vì nó soi chiếu khắp cảthế gianBồ-đề tâm ví như trăng rằm, vì các pháp thanh tịnh đều viên mãnBồ-đề tâm ví như ngọn đènsáng, vì có khả năng phóng ra các loại ánh sáng Chánh PhápBồ-đề tâm ví như mắt sáng, vì thấy hết thảy cùng khắp mọi chốn an nguy; Bồ-đề tâm ví như con đường lớn, vì khiến tất cả đều được đi vào kinh thànhđại trí,…”[45]

Thiết lập và toàn thiện Bồ-đề là cơ sở thành tựu bất khả tư nghị nguyện lực của Bồ-tát hàng Pháp thân, nghĩa là những ai đã khởi hành trên cỗ xe Bồ-tát, đã trải qua một thời gian dài tu tậptích lũy được nhữngkinh nghiệm và hành trang thiết yếu, sẽ thấy rõ được thể tính của thế gianthông đạt sâu xa giáo nghĩa, thể nhiệm được Pháp tính siêu nghiệm.

Để hiểu rõ về tính đặc sắc của Bồ-đề tâm như được diễn tả trong kinh Hoa nghiêm (dẫn trên), chúng ta có thể đọc thêm một đoạn khác trong phẩm «Nhập pháp giới», đoạn Bồ-tát Di-lặc khen ngợi Thiện Tài đồng tử:

Với những kẻ trôi nổi trong bốn dòng thác lũ, con người chân thật này muốn làm con thuyền đại pháp đưachúng sinh vượt qua biển cả. Với những kẻ chìm ngập trong vũng lầy của kiến chấp, người này muốn làm chiếc cầu đại pháp. Với những kẻ tối tăm ngu dốt, người là ngọn đèn đại trí. Với những người lạc lối trong sa mạc sanh tử, người muốn làm kẻ chỉ bày lối đi của bậc Thánh…”[46]

Sau khi Bồ-tát Văn-thù giới thiệu Bồ-đề tâm và chỉ thị Nhất thừa đạoThiện Tài trải qua năm mươi mốt địa tích, tham vấn đạo lý giác ngộ và yếu chỉ thực tập trên quá trình tu chứng của Đại thừa với các vị Đại sĩ. Trong hành trình đó, chàng thanh niên ấy hội kiến Bồ-tát Di-lặc, lại một lần nữa được nghe giảng luận vềBồ-đề tâm, bấy giờ bằng chí nguyện thâm thiết của mình, Thiện Tài đồng tử đã hoàn toàn thiết lập vững chắc trong chí nguyện Đại thừa, và đã thực hiện cụ thể chí nguyện ấy. Ước nguyện và hành vi của Thiện Tài, cả hai không còn cách biệtVì vậylời khen ngợi của Bồ tát Di- lặc, chính là sự tán dương tâm nguyệnBồ-đề và sự thành tựu tâm nguyện ấy của Thiện Tài đồng tử. Sau khi nghe những lời khen thưởng từ Bồ-tát Di-lặc, bản thân Thiện Tài hoan hỷ phấn chấn, cung kính chắp tay hướng về Bồ tát Di-lặc, rồi bất giácnhìn lại hai bàn tay của mình thấy đầy những hoa thơm đang nở rộ. Đó phải chăng chính là hương hoa của sự thành tựu tâm nguyện Bồ-đề?

5. Kết luận

Kinh nói: “Bấy giờ Phật nói với Bồ-tát Di-lặc: Này Di-lặc, nay ta đem Pháp giác ngộ vô thượng chính đẳng chính giác đã tập thành trong vô lượng kiếp phó chúc cho ông. Vào thời mạt thế, sau khi Phật diệt độ, ông nên dùng khả năng thần thông để giảng truyền rộng rãi những kinh như vậy nơi cõi Diêm-phù-đề, chớ để bịđoạn tuyệt.”[47]

Vì sao đức Phật Thích-ca đem Chánh Pháp phó chúc cho đức Di-lặc Đại sĩ?

Vì Di-lặc (Maitreya) là hiện thể của phẩm tính maitrī (Pāli mettā): lòng từ, nội hàm hiểu theo ngôn ngữ ngày nay là sự tử tế, hay lòng nhân từ độ lượng. Do y vào phẩm tính này, nên trong hết thảy sự hóa độ chúng sinh, ngài luôn dìu dắt họ bằng lòng từ, khiến họ phát Bồ-đề tâm, hướng đến Bồ-tát đạo. Hễ khi nào còn cóchúng sinh sung mãn tâm từ khởi hành trên cỗ xe Bồ-tát, thì khi ấy Chánh Pháp không thể bị đoạn diệt.

Vì Di-lặc là hiện thể của phẩm tính Ajita: “Bất khả chiến bại”. Chiến đấu với cái gì mà không bị chiến bại? Chiến đấu với với phiền não của tự thân, chiến đấu với rắn độc: tham-sân-si, dẹp yên được độc tố nhiễm ô(Vô tam độc), đạt đến sự thanh tịnh và lòng từ không ai hơn được (vô năng thắng) và không bao giờ bị gục ngã dưới chân ma quânChánh Pháp là đại biểu cho chân lý, là ngọn cờ của sức mạnh đánh bại phiền não. Hễ khi nào còn hiện thân của phẩm tính Aijta, thì khi ấy Chánh Pháp không bao giờ đoạn tuyệt.

Cho nên việc lễ bài, tôn kính và hành trì danh hiệu Di-lặc, chính là hành trì theo những phẩm tính siêu việtcủa ngài. Truyền thuyết, có một bài chỉnh cú luôn được gán cho đức Phật Di-lặc:

彌勒真彌勒,
分身千百億,
時時示時人,
時人自不識.[48]

Di-lặc chân di lặc,
Biến thể trăm ngàn ức,
Luôn luôn hiện trước người,
Người thường tự chẳng biết”.

Đức Phật Di-lặc không chỉ thường trú ở Thiên cung Đâu-suất xa xôi, mà ngài luôn hiện hữu nơi tâm thứccủa những hữu tình có hành vi cử chỉ của lòng từ mẫn song vận với Bồ-đề tâm. Cho nên, bất cứ khi nào và bất cứ ở đâu, có người phát triển tâm từthực hành hạnh hỷ xả, kiên lập chí nguyện thành tựu bốn vô lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả, thì lúc đó và nơi đó, có đức Phật Di-lặc biến thể xuất hiện, hướng dẫn chúng sinhtrực diện chiến đấu với ma quân phiền não, để họ không bao giờ bị chiến bại trước một chút phù danh, một chút lợi dưỡng hay những ân huệ dư thừa của thế tụcLòng từ và sự chiến thắng ấy, là những đóa hoa hương sắc, là những biểu hiện cụ thể của một mùa xuân Chánh Pháp, một mùa xuân mà dòng suối Từ vẫn âm thầm tuôn chảy, làm cho Phật chủng Di-lặc cũng từ đó mà luân lưu bất tuyệt trên thế gian này.

P.N



[1] T01n0026, tr. 510a01. Xem kinh văn dẫn ở phần b.

[2] T9n262, tr. 46b27.

[3] Buddhist Sanskrit Texts, 6 (Vaidya, tr. 205): atha khalu bhagavān Maitreyaṃ...etad avoca: yaḥ kaścid Ajita kulaputro...

[4] Thảo luận chi tiết vấn đề này, xem mục 3.

[5] T01n0001, tr. 041c29.

[6] PTS. D.iii. 76: Asītivassasahassāyukesu, bhikkhave, manussesu metteyyo nāma bhagavā loke uppajjissati.

[7] Loa 螺. Pāli: Saṅkha (vỏ sò).

[8] A-di-đa 阿 夷 多. Pāli: Ajita. Trong bản kinh này, A-di-đa (Ajita) và Di-lặc (Mettaya) là hai nhân vật khác nhau.

[9] Bản Việt, Trung A-hàm 1, TT. Tuệ Sỹ dịch (2013), tr. 585.

[10]  ibid., tr. 585.

[11] ibid., tr. 588-589.

[12] ibid., tr. 589.

[13] ibid., tr. 591.

[14] ibid., tr. 592.

[15] Đâu suất Thiên vương 兜率天王. Htr.: Đổ-sử-đa Thiên vương 睹史多天王. VCS: “Tầng thứ tư trongsáu tầng trời Dục giới. Đây dịch là Tri túc. Nghĩa là, hưởng thụ các dục lạc nhưng biết đủ một cách sâu xa.” VKN: Saṃtuṣitadevaputra. (Dẫn bởi Duy-ma-cật sở thuyết, bản Việt, Tuệ Sỹ, Ch. 4, cht. 3)

[16] skt. eka-jāti-pratibaddhā bodhisattvāḥ, xem cht. 16, dưới.

[17] Nhất sinh sở hệ 一生所繫, Skt. ekajātipratibandha, Tib. skye ba gcig gis thogs pa, chỉ còn bị ràng buộcmột đời hay một lần sinh nữa. Từ này không có tương đương trong bản Pāli.

[18] La-thập dịch, Duy-ma-cật 1, T14, no. 475, p. 537b14; Tiểu phẩm Bát-nhã 8, T08, no. 227, p. 572a8.

[19] Đại Bát-nhã 576, Huyền Tráng dịch, T07n0220gp.0975b18.

[20] A-di-đà kinh nghĩa kí 1Trí Nghĩ dịch, T37, no.1755, p.306b24.

[21] Xem Cht.1, dẫn thượng.

[22] T04, no. 202, p. 429c8tt.

[23] Saṅkha, Nhượng Khư, Xem Cht.6, dẫn thượng.

[24] Snp 4.7, Tissametteyya (Snp 160).

[25] Snp 5.3, Tissametteyyamāṇavapucchā (Snp 199).

[26] Snp 5.2, Ajitamāṇavapucchā (Snp 197).

[27] Snp 5.1, Vatthugāthā (Snp 190).

[28] Thag 1.20. Ajitattheragāthā, Thag 4.        

[29] PTS. A. 5. 229.

[30] T27n1545, tr. 893c7.

[31] T38, no. 1775, p. 331b8-9: 彌勒菩薩。什曰。姓也。阿逸多字也。南天竺波羅門之子.

[32] T54, no. 2128, p. 768a20: 阿氏多 (常尒反此云無勝舊言阿耆多或作阿逸多皆訛也是彌勒今生名).

[33] T37, no. 1757, p. 318b13-15: 阿逸多菩薩者,依新譯《稱讚淨土經》翻為無能勝或言彌勒,此云慈氏,由彼多修慈心多入慈定故言慈氏,修慈最勝名無能勝.

[34] A091, no. 1066, p. 354a6: 阿逸多 (正云阿制多此曰无能勝也).

[35] T49, No. 2030: 大阿羅漢難提蜜多羅所說法住記.

[36] Nay là nước Tích Lan.

[37] Tạng Peking, འཕགས་པ་དཀོན་མཆོག་སྤྲིན་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ (Thánh Bảo vân đại thừa kinhĀrya-ratnamegha-nāma-mahāyānasūtra), Mdo-sna-tshogs (dsu)1-121a.

[38] T16n0658: 寶雲經 7, 梁 曼陀羅仙譯.

[39] 羅漢圖讚集 Rakan zusanshū / [Tetsujō sanhen], [Japan: s.n.], Bunkyū 2 [1862] [Japan: s.n.], 文久2 [1862], 3 quyển.

[40] Ngoài ra còn có một số nhân vật khác có tên Ajita, nhưng không quan trọng nên không trình bày ở đây.

[41] Giải thích bởi TT.Tuệ Sỹ, Thắng Man giảng luận (2012), tr. 34.

[42] Dh. l46: ko nu hāso kimānando, niccaṃ pajjalite sati / andhakārena onaddhā, padìpaṃ na gavesatha. Văn dịch dẫn bởi Thắng Man, ibid., tr. 34.

[43] Đại 25, tr. 63a1.

[44] Đại 25, tr. 362c28.

[45] Cf. Gaṇḍa, tr. 39617ff. bodhicittaṃ hi kulaputra bījabhūtaṃ sarvabuddhadharmāṇām / kṣetrabhūtaṃ sarvajagacchukladharmavirohaṇatayā, dharaṇibhūtaṃ sarvalokapratiśaraṇatayā, vāribhūtaṃ sarvakleśamalanirdhāvanatayā, vāyubhūtaṃ sarvalokāniketatayā, agnibhūtaṃ sarvadṛṣṭyupādānakakṣanirdahanatayā, sūryabhūtaṃ sarvasattvabhavanāvabhāsanatayā, candrabhūtaṃ śukladharmamaṇḍalaparipūraṇatayā, pradīpabhūtaṃ dharmālokakaraṇatayā, cakṣurbhūtaṃ samaviṣamasaṃdarśanatayā, mārgabhūtaṃ sarvajñatānagarapraveśanatayāTham chiếuHoa nghiêm(Phật), quyển 59, Đại 9, tr. 775.

[46] Gaṇḍa, tr. 3955: eṣa hi kulaputrāḥ satpuruṣaḥ sattvānāṃ catur oghottaraṇtāyai mahādānaṃ mahādharmanāvaṃ samudānetu-kāmo, dṛṣṭipaṅkanimagnānāṃ mahādharmasetuṃ sthāpayitu- kāmo, mohāndhakāraprāptānāṃ jñānālokaṃ kartukāmaḥ saṃsāra kāntārapranaṣṭānām āryamārgaṃ saṃdarśayitukāmaḥ. Cf. Hán dịch, Hoa nghiêm (Thật), Đại 10, tr. 429a8.

[47] Duy-ma-cật sở thuyết, bản Việt, Tuệ Sỹ dịch, phẩm Chúc lụy, tr. 293.

[48] X64, no. 1261, p. 408c10-11; X68, no. 1315, p. 273c2-3.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9866)
Nghiệp quả: Quả chín (trên năm uẩn), * Quả tương đương với nhân,# Nghiệp quả qua hoàn cảnh
(Xem: 15107)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 7928)
Những truyền thống khác nhau của Tây Tạng đến từ Đức Phật - Kadam, Sakya, Kagyu, và Nyingma - tất cả theo sự trình bày của những ...
(Xem: 9584)
Chủ đề về tánh không bao hàm tất cả giáo huấn Phật Giáo bởi vì chính Đức Phật hít thở bằng tánh không (hiện hữu, trường tồn và sống trong tánh không)
(Xem: 9626)
Từ Bi, có nghĩa là tình thương yêu rộng lớn đối với muôn loài hữu tình chúng sanh (loài ngườisúc vật). Tình thương rộng lớn này được...
(Xem: 8126)
Pháp thân Phậttánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thânquang minhHóa thân là thân vật chất;
(Xem: 10291)
Thường nghe rằng, cửa ngõ vào Chánh đạo, sự phát tâm quan trọng nhất; việc gấp trên đường tu, không gì hơn lập nguyện.
(Xem: 8707)
Không có hiện tượng nào đang tồn tại mà không phải là kết quả của nhân duyên
(Xem: 9149)
Đức Phật có nói: "Như Lai đã đạt đến sự hiểu biết rõ ràng về điều nầy, nghiệp lực, xuyên qua trí huệ cao cả của chính Như Lai."
(Xem: 9021)
Sau khi Đức Phật giác ngộ, bài giảng đầu tiên của ngài tập trung vào Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế), đó chính là nền tảng của Đạo Phật.
(Xem: 8165)
Bốn dấu ấn của hiện hữu, Phạn ngữ gọi là caturlaksana, Pà li ngữ là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 8938)
Chúng ta cần phải quy y Tam bảo để cứu mình ra khỏi đường hiểm khổ đau, đến chỗ an vui giải thoát.
(Xem: 25737)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 9048)
Để phân biệt với người không Phật tử, có sự quy y hay phương hướng an toàn, và để phân biệt với con đường Tiểu thừa, có sự quy y của Đại Thừa.
(Xem: 14404)
"Lý thuyết Nhân tính qua kinh tạng Pàli" là đề tài luận án Tiến sĩ do Thượng tọa Thích Chơn Thiện thực hiện và đệ trình tại Đại học Delhi
(Xem: 8198)
Thưa đại đức! Khi thọ khổ phát sanh, bậc A-la-hán chỉ thọ có một khổ thọ ấy, còn phàm phu thì thọ luôn cả hai thọ khổ, có phải vậy chăng?
(Xem: 8572)
Con số 84.000 trong do ngài An Nan thuật lại trong Trưởng Lão Kệ của Tiểu Bộ chính là 84.000 Pháp tức “dhamma” trong tiếng Pāḷi.
(Xem: 11894)
Đạo Phật không mang đến cho ta tiền tài hay danh vọng mà chỉ cho ta tình yêu thương bất diệthạnh phúc đích thực miên viễn trong dòng khổ đau của nhân sinh
(Xem: 9040)
Theo truyền thống sinh hoạt tu học của chư Tăng Ni từ thời Đức Phật còn tại thế, cứ đến ngày kết thúc một mùa an cư thì Đức Thế Tôn cùng chư Tăng Ni đều...
(Xem: 10356)
Mối quan hệ sâu đậm với một vị thầy tâm linh có thể là sự nối kết thăng hoa và quan trọng nhất trong một đời người.
(Xem: 8341)
Thức( vijnana) là dòng trôi tương tục dao động sáng tạo với những biểu đồ phức tạp được chi phối bởi những hệ quy chiếu mang màu sắc chủ quan
(Xem: 8963)
Không ai có khả năng biết được, sự bắt đầu của thế giới luân hồi (trong các cuộc sống diễn tiến liên tục, ở trong vòng sinh tử).
(Xem: 9976)
Đức Phật Thích Ca đã thường nói về Năm Uẩn, cũng còn được gọi là Năm Tập Hợp, hoặc là Năm Đống Hàng Cao Như Ngọn Núi.
(Xem: 9439)
Dục là nguyên nhân của khổ đau, nguồn gốc của dục có từ vô thỉ, sự trói buộc của nó đối với chúng sanh trong luân hồivô lượng kiếp.
(Xem: 8180)
Từ ngữ Niết Bàn xuất phát từ nguồn có ý nghĩa là "Dập tắt ngọn lửa", để nói đến việc dập tắt đi những ngọn lửa tham lam, sân hận, và si mê (tham sân si).
(Xem: 9469)
Niết bàn được xem là mục đích cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thóat khỏi các kiết sử tùy miên...
(Xem: 8500)
Như tâm, Phật cũng vậy Như Phật, chúng sanh đồng Nên biết Phật cùng tâm Thể tánh đều vô tận
(Xem: 10939)
Hoa Sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiếtthánh thiện, sự duy trì và phát triển Phật pháp, trí tuệ dẫn đến Niết Bàn.
(Xem: 9077)
Con người sinh ra trong thế giớidần dần, ngoài những sự vật đã có trong thiên nhiên, sáng chế ra những sự vật để dùng trong cuộc sống.
(Xem: 10512)
Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy, chúng ta chỉ có cặp mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên một là tất cả, chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất cả đặc điểm của Phật giáo.
(Xem: 8280)
Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại.
(Xem: 10274)
Tất cả các pháp nhân duyên sanh Thể tánh chẳng có cũng chẳng không Ở nơi nhân duyênsanh khởi Trong đó đều trọn không chấp trước
(Xem: 10451)
Nhân sau cùng sinh quả dị thục, Nhân đầu tiên sinh quả tăng thượng, Nhân đồng loại, biến hành sinh quả đẳng lưu, Nhân câu hữu, tương ưng sinh quả sĩ dụng
(Xem: 8995)
Đức Phật thị hiện là một con người như mọi người, điều này khẳng định cho chúng ta biết ngài không phải là thần linh, thị hiện ở núi non kỳ dị.
(Xem: 8242)
Tâm Bồ Đề (skt:Bodhicitta) là tâm giác ngộ, tâm thấy được bản mặt thật của chư pháp, tâm tin nơi nhân quảPhật Tánh nơi chúng sanh cũng như luôn dụng công tu hành hướng về quả vị Phật.
(Xem: 16620)
Muốn hết Nghiệp thì Tu ! Thì, Trì Chú ! Đó là “Thực Phẩm ngon” của Người Tu Hành xưa cũ.
(Xem: 12276)
Phật Học Vấn Đáp - Duy Thức Học Phần thứ 8; Lý Bỉnh Nam giải đáp, Thích Đức Trí chuyển ngữ
(Xem: 12236)
Hãy nương tựa vào chính mình, tự xem mình là ngọn đuốc soi đường cho mình, là nơi an trú cho mình, mà không cần một nơi an trú nào khác cả...
(Xem: 8774)
Nguyên tác: Background for Understanding Bodhichitta, Tác giả:Alexander Berzin/ Riga, Latvia, July 2004; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10199)
Giáo thuyết tối thượng tịnh hóa tâm thức, Là việc vắng mặt sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 8520)
Điều cương quyết để thọ tám chi của Luật nghi này, là phải có tối thiểu một vị Tỷ-kheo làm giới sư truyền thọ, chứ không thể tự một mình phát nguyện thọ trì được.
(Xem: 9050)
Trong Đạo Phật thuật ngữ tự ngã có hai ý nghĩa phải được phân biệt nhẳm để tránh nhầm lẫn. Một ý nghĩa của tự ngã là ‘cá thể’ hay ‘chúng sinh’.
(Xem: 10346)
Có nguồn gốc từ Ấn-độ, là tín lý căn bản trong Ấn-độ giáo, Phật giáo cũng như Kỳ-na giáo, và cả đến đạo Sikh; được truyền vào Trung hoa rất sớm, dịch là nghiệp,
(Xem: 8728)
Cận trụ nguyên ngữ Sanskrit là là upavāsatha, Hán phiên âm là ô-ba-bà-sa, Ưu-ba-bà-tố-đà, Ưu-bà-sa, U-ba-bà-sa, Ô-bô-sa-tha v.v…
(Xem: 8207)
Nói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thểxúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề...
(Xem: 8739)
Nguyên tác: Introduction to Bodhicitta - Tác giả: Alexander Berzin/ Riga, Latvia, June 2003 - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8082)
Đẳng lưu nhân-quả, là một trong những tư lương quan trọng trên con đường trung đạo, trong lộ trình tu tập thông đạt chánh kiến về duyên khởi hay mười hai chi duyên.
(Xem: 7854)
Ly Hệ Quả Sanskrit gọi là Visamyogaphala. Visam là thoát ly, tách rời, đoạn trừ, ly khai. Yoga là tương ưng, liên hệ. Nên Ly hệ, visamyoga: dứt khỏi sự trói buộc.
(Xem: 9555)
Tôi đã tìm thấy chìa khóa của hạnh phúc, và tôi đã bị thuyết phục rằng, tôi đã vượt qua mọi nhà sư khác về sự cao quý. Nhưng mỗi khi tôi rời thiền đường, những cánh cửa lại thì-thầm, 'Tất cả là không.'
(Xem: 8716)
Từ nơi Thánh Trí tối thượng ba-la-mật, đức Thế Tôn tuyên thuyết Kinh Năng Đoạn Kim Cương, nên Kinh này dạy rất nhiều vấn đề cốt lõi của giáo Pháp.
(Xem: 10667)
Như lý tác ý (Yoniso manasikàra) hay còn gọi là như lý khởi tư duy là một thuật ngữ Phật học dùng để nói về cách nhìn sự vật hay hiện tượng một cách đúng đắn theo quan niệm của đạo Phật.
(Xem: 15098)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Śīla: học xứ, học giới,... nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể.
(Xem: 12784)
Nếu chúng ta thật sự quan tâm về tương lai chính chúng tahạnh phúc an lạc của chính đời sống của mình, chúng ta nên phát triển một thái độ tinh thần trong điều mà thực hành từ bi đóng một vai trò trung tâm.
(Xem: 8106)
Những giới khinh của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân thành bảy nhóm gây thiệt hại...
(Xem: 16689)
Chúng ta cũng có thể sử dụng cách dịch phổ thông hiện này là: Như Thị Ngã Văn 如是我聞: Tôi nghe như vậy, tôi nghe như thế v.v...
(Xem: 6247)
“Phật y trên năm hạng chủng tánhthành lập năm thừa: Chủng tánh Thanh văn thừa; Bích-chi-phật thừa; Như lai thừa; Bất định thừa; và vô tánh thừa.
(Xem: 9552)
46 đại nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà...
(Xem: 7013)
Bốn pháp căn bản thành tựu thần lực, bốn cơ sở để có sức mạnh tinh thần hay sức mạnh tâm linh....
(Xem: 7699)
Quán Thế Âm, ngữ nguyên Sanskrit là Avalokiteśvaras, āvalokiteśvaro, avalokiteshvara là danh từ số ít Phạn ngữ, Hán dịch là Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại.
(Xem: 7033)
Thành Duy Thức Luận trình bày hai quả chuyển y là Đại Niết-bàn và Đại Bồ Đề; Do đoạn trừ hết thảy các chướng mà thành tựu hai quả vị thù thắng này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant