Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

An Định Trước Muôn Sự

23 Tháng Tư 201910:20(Xem: 3357)
An Định Trước Muôn Sự


An Định Trước Muôn Sự
Bốn phương pháp đối trị khủng hoảng truyền thông theo lời Phật dạy
Đức Quang

 

Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi. “Do cái này có mặt, cái kia có mặt. Do cái này không có mặt, cái kia không có mặt. Do cái này sanh, cái kia sanh. Do cái này diệt, cái kia diệt. Đó là một chân lý chắc thật của hiện tượng giới, truyền thông cũng không ngoài quy luật này, duyên khởi nên vô thường. Chính nơi việc hiểu sâu đậm nguyên tắc nền tảng này mà ta giác ngộ. Ở trong Pháp và luật của Thế Tôn, có bốn Pháp để sự an tịnh-sáng suốt luôn có mặt để không bị các cuộc khủng hoảng truyền thông cuốn vào vòng lẩn quẩn và bế tắc, để làm được như vậy, một người đệ tử Phật cần tu học như sau: thực hành giới định tuệ, ly tham thiểu dục - đức vô tranh, tỏ ngộ lẽ vô thường, và pháp “im lặng sấm sét”.

Một là sự kiên định do tinh thông nằm lòng, an trụ nơi giới định tuệ.

Như tảng đá kiên cố Gió thổi không lay động, Người trí tâm an định Bất động trước khen chê.

Học Phật phải có tâm chấp trì giới luật, sự vững chãi-an tịnh của định, lấy tuệ giác làm sự nghiệp. Người có ba pháp vô lậu học này sẽ không bị truyền thông làm nao động, không bị áp lực của giới tự nhiên và xã hội chi phối, không bị tưởng tri của chính mình dẫn dắt. Đây là bậc thực tu thực chứng sự bình an nội tại và là báu vật của Pháp. Đây là tông chỉ của đạo Phật, hương giới - hương định - hương tuệ là tối thượngthù thắng. Đức Phật gọi là bậc chân nhân, tỏa ngát hương cho đời, đem lại lợi ích - hạnh phúc cho mọi người mọi loài.

"Hương các loại hoa thơm Không ngược bay chiều gió Nhưng hương người đức hạnh Ngược gió khắp tung bay Chỉ có bậc chân nhân Tỏa khắp mọi phương trời."

Bậc chân nhân thực sự không chỉ hương đức hạnh tỏa sáng, mà còn có tuệ giác sáng ngời. Như là đôi cánh của một chú chim dùng để bay cao và bay xa, cũng vậy, bậc chân tu phải có giới đức trang nghiêmtuệ giác mẫn tiệp luôn an định cùng chói sáng.

"Cũng vậy giữa quần sanh, Uế nhiễm, mù, phàm tục, Đệ tử bậc Chánh Giác, Sáng ngời với Tuệ Trí.

Để thành bậc đạo sư thì cần tuệ giác sáng ngời, vì trí tuệtối thượng. Như Phật dạy trong kinh Tương Ưng:

“Này các Tỷ kheo, ví như trong loài bàng sanh, sư tử, vua các loài thú được xem là tối thượng, tức là về sức mạnh, tốc lực và dõng mãnh. Cũng vậy, này các Tỷ kheo, trong các pháp thuộc phần giác ngộ, tuệ căn được xem là tối thượng, tức là về giác ngộ.

Và thế nào là các pháp thuộc phần giác ngộ? Này các Tỷ kheo, đó là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căntuệ căn là pháp thuộc phần giác ngộ, vì đưa đến giác ngộ.  

Ví như, này các Tỷ kheo, trong loài bàng sanh, sư tử, vua các loài thú được xem là tối thượng, tức là về sức mạnh, tốc lực và dõng mãnh. Cũng vậy, này các Tỷ kheo, trong các pháp thuộc phần giác ngộ, tuệ căn được xem là tối thượng, tức là về giác ngộ. 

Vậy nên, người tu phải luyện tâm sáng ngời, biết thiểu dục tri túc; lấy sự học Pháp, hiểu Pháp, hành Pháp làm chính để thông qua đó thành tựu tuệ giác ‘văn, tư, tu’. Đồng thời qua đó sẽ thành tựu tâm lý ‘dĩ bất biến ứng vạn biến’.

Hai là sự an tịnh do học Pháp tu Phật nên có tầm nhìn dài lâu sâu rộng, không còn tranh chấp với đời, ly tham vô dục. Với ý thức này, trách nhiệm của một đệ tử Phật xuất gia phải kiên định thực hành pháp thiểu dục tri túc để sống bình an. Điều đức Phật dạy trong đoạn mở đầu kinh Tứ thập nhị chương là “ly dục tịch tĩnh thị tối vi thắng.” Nghĩa là ‘lìa dục tịch tĩnh là pháp tối thượng’. Sự an tịnh do không tham, không sân, không si; nghĩa là ‘không tranh chấp với đời’. Đây gọi là an tịnh do ly tham, không tranh chấp, đức vô tranh.

"Như ong đến với hoa, Không hại sắc và hương, Che chở hoa, lấy nhụy. Bậc Thánh đi vào làng".

 Đời sống thiểu dục, biết đủ kiến tạo cực lạc Phật quốc cho tự thân, sẽ là bến đổ bình yên cho mọi người, là chỗ dựa vững chãi cho chúng sanh. Đó là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng sự an tịnh trong mối quan hệ của người thầy và học trò, bước tiên khởi để xứng đáng là bậc đạo sư như pháp như luật.

Ba là kiên định niềm tin do lãnh ngộ và thể nhập pháp vô thường. Tất cả lấy bình tâm là chính, lấy an tâmtrung tâm, không lay động trước sóng gió của thịnh suy. 'Coi sự hưng-hóa như cây bốn mùa’, tinh thần của Phật dạy, điều mà một hành giả phải nằm lòng, pháp cần suy niệm hằng ngày trong kinh Tứ Thập Nhị Chương. An tâm vững chí tu họchành trì như ý thơ của thiền sư Vạn Hạnh: "Nhậm vận thịnh suy vô bố úy, là tông chỉ - tâm lý căn bản của người tu học trong xã hội hiện đại. Không bị sự hưng suy làm sợ hãi, lo lắng, đứng trước muôn sự rất bình tâm. Bởi vì, sự thịnh suy cũng mong manh vô cùng như giọt sương đầu ngọn cỏ: 'Thịnh suy như lộ thảo đầu phô'. Vì tỏ ngộ được vô thường nên đứng trước sự thịnh suy, sự thành bại, sự khen chê, … hành giả hãy như tảng đá kiên cố, tâm an địnhbất động.

Bốn là mạnh dạn từ chối trả lờibình luận các câu hỏi thuộc về siêu hình, siêu tự nhiên, linh hồn, ma quỷ... Với các lý do như sau:

- Không liên hệ đến việc thực hành giáo pháp để giải thoát giác ngộ.

- Những bàn luận này không thể kiểm chứng, đưa đến hý luậnhư vọng ngữ.

- Các lý luận suông sẽ dẫn đến tranh chấp, kiện tụng, phân chia, chia rẽ trong nội bộ Phật giáo.

Đây là bài sâu sắc cần nằm lòng để suy nghiệm, tránh nhọc lòng mình bởi những pháp không liên hệ đến đời sống tu tập giải thoát. Dưới đây là đoạn trích ghi lại việc đức Phật lý giải việc từ chối các vấn đề siêu hình; như bài học cho chúng ta - những đệ tử của Phật về nghệ thuật giao tiếp, ứng xử, giáo dục, và giảng dạy:

“Đối với vấn đề truy tìm bản nguyên thế giới thì đức Phật đã không trả lời, trả lời không dứt khoát hay trả lời bằng sự im lặng. Không những thế, còn khuyên các đệ tử không nên bàn luận về các vấn đề trên. Lý do được đưa ra cho sự im lặng này là không liên hệ đến nhiệm vụ cũng như mục đích tối thượng của việc tu học là đạt sự giải thoát các nỗi khổ, đưa đến việc giác ngộ; các vấn đề siêu hình là trống rỗng và không lợi ích. Giải thoát là nội dung chính yếu và mọi vấn đề khác đều phải xoay quanh tư tưởng tối thượng này. Cái tối thượngtrung tâm trong Phật giáo nguyên thủygiải thoát. Sau này đến thời kỳ Phật giáo phát triển cũng đã tiếp tục triển khai quan điểm giải thoát: “Phật pháp chỉ có một vị, đó là vị giải thoát hết khổ. Vị giải thoát ấy có hai: Một là chỉ giải thoát tự thân, hai là giải thoát chung hết thảy chúng sinh.” Thứ hai, việc trả lời không dứt khoát bởi nguyên nhân là do không thể chứng minh được bằng thực nghiệm. Nếu trả lời xác quyết là thế này hay thế khác sẽ tạo kiến chấp không có cơ sở cho cá nhân, tiếp đến là những tranh chấp không tưởng giữa các cá nhân với nhau.

Vấn đề đức Phật im lặng không trả lời những câu hỏi về thế giới không phải Ngài không biết. Đức Phật xác nhận là biết rất rõ nhưng không trả lời. Ở đây có thể hiểu là do mặt bằng tri thức xã hội không đủ khả năng tiếp cận, dễ đưa đến sự ngộ nhậntranh luận vì không đủ phương tiện để chứng minh. Lý do này sẽ được trình bày rõ ràng hơn trong phần nhận thức luận. Chính vấn đề thế giới quan và siêu hình đã góp phần thúc đẩy quá trình phân chia bộ phái, vì mỗi bộ phái sẽ diễn giải, giải thích một cách khác nhau theo quan điểm - sự hiểu biết của bản thân luận chủ. Từ đó, mỗi bộ phái sẽ bảo vệ quan điểm của mình và bài xích các quan điểm của các bộ phái khác. Thế nên, đã tạo ra một phong trào nghiên cứu Phật học sôi động ở thời kỳ sau, làm phong phú thêm hệ tư tưởng Phật giáo. Quá trình trả lời câu hỏi về thế giới quan của các thời kỳ sau đều có kế thừa một quan điểm của đức Phật làm tiền đề, các bộ phái đều đã dựa trên tư tưởng duyên khởi làm điểm xuất phát lý luận.”

Để có sự an tịnhgiải thoát, người đệ tử Phật phải học phải biết im lặng, từ chối, và buông bỏ những pháp không liên hệ đến giải ngộgiải thoát. Sự im lặng ‘sấm sét’ này được Phật giáo Việt Nam chuyển tải qua hình ảnh an nhẫn im lặng để thực tập của ‘Quán Âm Thị Kính’ đối với các vấn nạn trong cuộc sống nhân sinh. Sự an nhẫn đó không vì khiếp sợ hay bạc nhược trước sự đời, nhưng đó là ‘im lặng sấm sét’ của bậc vĩ nhân, bậc thánh đầy tuệ giác cùng từ tâm vô lượng giữa đời thường. Đây là bài học quan trọng làm cho hành giả nhẹ nhàng và an lạc do pháp né tránh đem lại. Nói khác là né tránh pháp đưa đến tịnh lạc, an định; do không não phiền bởi sự quấy rầy, não loạn, và nhiễu phiền. Hơn nữa, đức Phật còn dạy người tu nhân học đạo phải biết kiệm lời, phải biết nói điều lợi ích, nói lời đem lại an lạchạnh phúc như sau:

“Dầu nói ngàn ngàn lời, Nhưng không gì lợi ích, Tốt hơn một câu nghĩa, Nghe xong, được tịnh lạc.”

(Kinh Pháp Cú, câu số 100)

Tóm lại, để rồi ‘im lặng như chánh pháp (Ariya-tunhibhàva), nói năng như chánh pháp (Dhamma-kathà)’, như lời Phật dạy trong kinh Thánh Cầu, Trung Bộ. Đây chính là châm ngôn để xử lý khủng hoảng truyền thông, theo hướng “yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn”.

 Người đệ tử Phật phải lo tu học để thành tựu bốn pháp: một là tu trì giới định tuệ; hai là thực hành pháp thiểu dục tri túc và chăm lo vun bồi tuệ giác Phật để kiến thiết cõi nước cực lạc; ba là bình tâm trước suy thịnh, vững tin nơi chánh pháp Phật đà - một thần dược trị lành khổ đau, chứng đạt Niết bàn; bốn biết ‘im lặng sấm sét’ đối với vấn đề siêu hình (nghĩa là không hơn thua trong tranh luận với các vấn đề chưa thể kiểm chứng), kiệm lời để rồi nói lời có ích thiết thực, và lo tập trung chăm sóc vườn tâm hoa tuệ giác, không để thời gian trôi qua vô ích. Tạm kết lại, chúng ta cùng suy ngẫm hai câu kinh Pháp Cú:

“Đường này đến Thế Gian Đường kia đến Niết Bàn Tỷ kheođệ tử Phật  Phải ý thức rõ ràng.” “Đêm dài cho kẻ thức, Đường dài cho kẻ mệt, Luân hồi dài, kẻ ngu, Không biết chơn diệu pháp.”

 

Đức Quang

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7438)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
(Xem: 18204)
“Ăn Cơm Hương Tích, uống Trà Tào Khê, ngồi Thuyền Bát Nhã, ngắm Trăng Lăng Già”...
(Xem: 9374)
Tánh Không với hàm ý bản thể của thế giới, vạn vật đều là không, nghĩa là không có thật, không có thực thể, không có...
(Xem: 8000)
Có một thực tế hiển nhiên cần được ghi nhận rằng, không phải ai cũng hiểu đúng về lời dạy của Đức Phật, ngay cả khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 8996)
Vị thế tối thượng ở đời được Thế Tôn xác lập dựa vào sự kết tinh của tu tập giới định tuệ và thành tựu giải thoát.
(Xem: 7589)
Một thời Thế Tôn du hành giữa dân chúng Kosala, tại thị trấn của người Kàlàmà, ở Kesaputta. Rồi các người Kàlàmà đi đến đảnh lễ...
(Xem: 8245)
Cuộc sống ngày nay, khó mà thoát ly hoàn toàn, vì cơ chế và nhịp sống của nhân loại theo đà tiến hóa khoa học và...
(Xem: 9271)
Hãy trân quý những gì đang có, giải thoáthạnh phúc ở trong lòng bàn tay của bạn! Xin hãy mỉm cười...
(Xem: 9358)
Trong Phật giáo các từ ngữ như “chánh ngữ” và “ái ngữ” luôn luôn được đề cập tới để khuyên dạy các Phật tử khi sử dụng tự do ngôn luận.
(Xem: 9030)
Theo Phật giáo Nam truyền, ngày Đản sanh, Thành đạo và nhập Niết-bàn của Đức Phật đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng Vesākha
(Xem: 7787)
Trong cái thấy của kinh Pháp Hoa thì tất cả vũ trụ là một. “Tất cả các cõi nước thông làm một cõi nước Phật”
(Xem: 11359)
Trong những bộ Kinh chúng ta học thường thấy hai từ Giác NgộGiải Thoát. Tất cả người tu học đều lấy hai từ đó làm cứu cánh để đi tới.
(Xem: 8841)
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh đại thừa Phật giáo.
(Xem: 8273)
Thập hiệu Như Lai, là những danh hiệu cao quý để tôn xưng những bậc đã thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
(Xem: 8180)
Cầu nguyện là một phương pháp tâm linh giúp cho con người chúng ta có thể tháo gỡ một phần nào những nỗi khổ niềm đau,
(Xem: 8171)
Tam Bảo như lãnh vực hoạt động của mặt trời. Lòng bi mẫn của các ngài thì vô tư và không bao giờ cạn kiệt.
(Xem: 6388)
Bốn Đại nguyện của giáo lý đại thừa được triển khai trên sự thực hành giáo lý Tứ Diệu Đế...
(Xem: 7773)
Một thời Đức Phật cư trú gần Bārānasī(Ba La Nại), ngài đã nói bài kệ nầy, về Vua Rồng Erakapatta.
(Xem: 7609)
Tất cả các tính đức là kết quả đến từ tinh tấn, nguyên nhân của hai tích tập phúc đứctrí tuệ. Trí địa thứ tư ngọn lửa trí huệ của...
(Xem: 7589)
Ngọn lửa trí tuệ phát ra ánh sáng khi đốt cháy các hiện tướng nhị nguyên đối đãi của các hiện tượng, do thế trí địa thứ ba được gọi là Phát quang địa.
(Xem: 8578)
Ngũ uẩn giai không 五蘊皆空 nghĩa là năm uẩn đều không có thật. Chữ uẩn 蘊 (skandha) còn gọi là ấm 陰 Uẩn là nhóm hay tập hợp hoặc tích hợp.
(Xem: 8085)
Như Lai thọ lượng là phẩm thứ 16 của kinh Pháp Hoa.
(Xem: 8468)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về chư tăng.
(Xem: 11325)
Đối với nhiều người, Phật Giáo vượt ra ngoài tôn giáo và là một triết lý hay "lối sống" hơn. Đó là một triết lý, vì triết lý “có nghĩa là tình yêu của trí tuệ”
(Xem: 8454)
Khi người ác xúc-phạm người hiền lành và vô tội, thì hậu-quả của hành-động ác nầy, đánh ngược lại người làm-ác, cũng giống như khi ném bụi bẩn ngược chiều gió, bụi bẩn bay ngược lại người ném.
(Xem: 7587)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Trúc Lâm (Veluvana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về một nữ cư sĩ, tên là Uttarā.
(Xem: 7183)
Món quà tặng về Phật Pháp, cao quý hơn tất cả những món quà tặng khác, Hương vị Phật Pháp, thơm ngọt hơn tất cả những hương vị khác
(Xem: 8468)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về Tôn Giả A-Nan.
(Xem: 6341)
Trích dịch Chương Thứ Nhất của Tác Phẩm “Buddhism - One Teacher, Many Traditions [Phật Giáo - Một Vị Thầy, Nhiều Truyền Thống]
(Xem: 8426)
Hồi đầu là quay đầu trở lại hay xoay đầu trở lại. Thị ngạn: chính ngay đó là bờ mé. Đây là một câu người học Phật thường nghe nói.
(Xem: 9460)
Đức Phật dạy giáo lý Nghiệp với mục đích khuyến khích con người thực hành các Nghiệp lành để trang nghiêm cho kiếp sống hiện tại và...
(Xem: 8405)
Bước ngoặt quan trọng nhất trong tiến trình nhận thức của con người có lẽ là khi chúng ta bắt đầu nhận thức về chính bản thân mình.
(Xem: 9376)
Cái Thấy là một biểu hiện của sức sống bản nhiên, là sinh lực thường hằng vượt lên trên mọi giới hạn về thời gian (lúc thức, lúc ngủ, khi sống và cả khi chết…)
(Xem: 8014)
Giáo pháp của Vimalakirti trình bày các giáo pháp tinh yếu của Phật giáo Đại thừa trong 14 chương tương đối ngắn.
(Xem: 7196)
Trung luận, do Bồ-tát Long Thọ làm ra. Được viết dưới dạng kệ tụng. Có khoảng 500 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu
(Xem: 9945)
Nói chung, không dễ gì lưu lại ngọc xá lợi, không dễ gì thành tựu đạo quả qua quá trình tu chứng với những kiếp tái sinh nối tiếp trong thiện đạo.
(Xem: 15063)
Này các Tỷ kheo, trong toàn thế giới, Thiên giới, Ma giới, cùng với quần chúng Sa môn, Bà la môn, chư Thiênloài người, Như Lai là bậc chiến thắng, không bị ai chiến bại, toàn trí, toàn kiến, đại tự tại.
(Xem: 9453)
Khi thảo-luận về một ngón-tay, thì ngón-tay có phải là sự-thật không? Có phải chỉ có một ngón-tay duy-nhất, là có thể chỉ đúng vị-trí mặt trăng không?
(Xem: 7963)
Kim Cang dạy rất kỹ. Thấy “thường” đã sai mà thấy “đoạn” càng sai. Thấy có đã sai mà thấy không càng sai. Bồ tát thì “bất tận hữu vi bất trụ vô vi”.
(Xem: 7956)
Phu nhân Thắng Man sau khi phát mười hoằng thệ xong, trên hư không hoa trời liền rơi, nhạc trời liền trổi, chúng thấy điềm lành đó cũng đồng phát nguyện:
(Xem: 8013)
Ở trí địa Li cấu, bởi vì các bồ tátgiới hạnh toàn hảo, nên tự nhiên buông bỏ các hành vi sai lạc dù trong chiêm bao.
(Xem: 7963)
Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (chư Phật); chư Phật sinh từ chư Bồ tát. Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử
(Xem: 8020)
Ngoại trừ các bậc tự chủ lẽ sống chết thì hầu hết chúng sanh đều không biết được thời điểm lâm chung của mình, nên khó có thể tự chủ tâm tư khi hấp hối.
(Xem: 7719)
Hakuin Ekaku (Bạch Ẩn Huệ Hạc, 白隠 慧鶴?, January 19, 1686 - January 18, 1768) là một thiền sư Nhật nổi tiếng đã có công gây dựng lại dòng thiền Lâm Tế ở Nhật Bản
(Xem: 8732)
Vua A Xà Thế vốn là vị vua có tài, nhờ Phật chuyển hóanhận ra sai lầm, biết sám hối, ăn năn, làm mới lại chính mình, làm lại cuộc đời.
(Xem: 7956)
Muốn thấy được Phật tánh thì phải dừng nghiệp thức. Nghiệp thức không dừng không bao giờ chúng ta thấy được tánh Phật.
(Xem: 8488)
Vượt thoát bể khổ, hẳn không ra ngoài chữ buông. Từ buông vật tài, đến buông thân, rồi buông vọng tưởng, âu là lộ trình vật vã.
(Xem: 10471)
Trong nền văn hóa 5000 năm của con người, mỗi con số không đơn thuần chỉ là con số khô khan mà tất cả con số đều có một ý nghĩa đặc biệt của vũ trụ huyền bí.
(Xem: 8023)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn? Các Chân lý cao quý về khổ, về nguồn gốc của khổ, về sự chấm dứt của khổ, và Chân lý cao quý về phương pháp dẫn đến sự chấm dứt của khổ.
(Xem: 11007)
Trong kinh có ghi lý do Đức Phật xuất hiện nơi đời chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn đó là Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến...
(Xem: 8736)
Cùng một việc dứt thở, bỏ xác, tại sao ở người thế-gian, gọi là chết, còn ở Phật lại gọi là “nhập Niết-bàn”?
(Xem: 7871)
Sống, theo tính chất duyên sinh, là sống với, liên hệ với; không ai sống mà không có mối tương quan với người khác.
(Xem: 7543)
Vào đầu thế kỷ 12, quân Hồi giáo đã xâm chiếm Ấn-độ, với bản chất tàn bạo họ đã tàn sát các Tăng Ni, Phật tử, đốt sạch các Kinh điển Phật giáo...
(Xem: 8457)
Như Lai là một trong mười danh hiệu của Thế Tôn. Vậy thế nào là “Pháp” và tu học như thế nào để “thấy Pháp”.
(Xem: 8011)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của vũ trụ. Nó cao cả hơn một thượng đế nhân tạoloại bỏ những giáo điềuthần học.
(Xem: 8538)
Nhập Trung đạoCon đường Bồ tát tích hợp đại bitrí tuệ, khởi hành từ đại bi và tích hợp với tính bất nhị và tâm bồ đề.
(Xem: 7985)
Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (Chư Phật) Chư Phật sinh từ chư Bồ tát. Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử (Chư Bồ tát)
(Xem: 7991)
Bộ luận này, giải thích một cách không sai lạc tri kiến của ngài Long Thọ, được tích hợp từ Trung Lu
(Xem: 7173)
Theo kinh điển Nguyên thủy của Phật giáo Nam tông, Bồ tát Đản sanh, Bồ tát thành Đạo và Phật nhập Niết-bàn đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng tư âm lịch.
(Xem: 8374)
Tập tục dâng hương là một đạo lý truyền thống của dân tộc có từ ngàn xưa, đây là những gia bảo tinh thần đáng quý của tổ tiên để lại cho con cháu kế thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant