Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quán Thế Âm - Tiếng Nói Của Thực Tại

25 Tháng Tám 202020:38(Xem: 3718)
Quán Thế Âm - Tiếng Nói Của Thực Tại

                                                                       Quán Thế Âm - Tiếng Nói Của Thực Tại
                               
                                                                                              Thích Trung Định

Quán Thế Âm

            Hôm nay ngày 19 tháng 6 năm Canh Tý, ngày vía của Bồ tát Quán Thế Âm, trong lúc cả thế giới đang chống chọi với nạn dịch Covid 19, chúng tôi muốn giới thiệu bài viết về hạnh nguyện cứu khổ độ sanh của vị Bồ tát lân mẫn với chúng sanh hữu tình nhất. Nguyện cho tai qua nạn khỏi, dịch bệnh tiêu trừ, thế giới hòa bình chúng sanh an lạc. Cầu nguyện Bồ tát Quán Thế Âm ừ bi lân mẫn cứu độ chúng sanh, mang lại bình an cho nhân loại.


Quán Thế Âm
tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara (trong đó Avalokita nghĩa là được quan sát được nhìn thấy, và Isvara là vị thần, là bậc thầy, bậc siêu nhân). Khi tách biệt ý nghĩa của mỗi từ thì hoàn toàn rõ ràng nhưng khi xem xét chúng trong hình thức từ ghép, ý nghĩa trở nên khá trừu tượng. Một số giải thích tiêu biểu sau đây được bộ Bách Khoa Phật giáo đề cập là “đấng tối thượngchúng ta nhìn thấy”, “vị chúa tể về cái nhìn”, vị chúa tể được thấy hay được biểu hiện, hay “có thể thấy khắp nơi”.[1]  

Theo học giả Kenneth KS Chen, thuật ngữ Avalokitésvara bao gồm hai phần “avalo”quá khứ phân từ ở thể thụ động với ý nghĩa là được thấy và “isvara” nghĩa là “vị chúa tể” ghép cả hai từ có nghĩa “vị chúa tể có cái nhìn từ ái”. Một giải thích khác, thuật ngữ Avalokitésvara là “Vị chúa tể nhìn xuống” ở đó thành phần sau cùng của danh hiệu được cho là “isvara” tức “Người nghe âm thanh của cuộc đời”.[2]

Như vậy nghĩa từ Quán Thế Âm (Avalokitésvara):

-    Quán: nghĩa là quán xét, thấy nghe, biết đối tượng rõ ràng.

-    Thế: là cõi đời, cõi hữu tình thế gian.

-    Âm: là tiếng niệm, tiếng kêu cứu, tiếng cầu nguyện từ mọi nơi đau khổ phát xuất. Vậy nghĩa từ Avalokitésvara là vị lắng nghe tiếng kêu cầu của chúng sanh đau khổ trong cuộc đờicứu độ.

Ý Nghĩa “Quán Thế Âm” theo phẩm Phổ Môn

Nghĩa là: cầm nhành dương Ngài rưới nước cam lồ lên khắp cả, trừ nhiệt não, Ngài làm cho mọi người đều được tẩm trong dòng suối thanh lương. Nghe tiếng kêu mà cứu khổ cho tứ sanh, Ngài thuyết pháp để độ thoát lục đạo. Sẵn tâm niệm từ bi kiên cố, đủ dáng vẽ tự tại trang nghiêm, không ai cầu mà chẳng ứng không nguyện nào mà chẳng thành.

Như trong phẩm Phổ Môn Đức Phật bảo Vô Tận Ý rằng: “Thiện nam tử, nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ tát này, một lòng xưng danh Quán Thế Âm Bồ tát tức thời xem xét tiếng tăm kia đều được giải thoát”.

Sở dĩ tên là Quán Thế Âm ấy là vì vị Bồ tát này năng xem thấy nơi thế gian tất cả tiếng của chúng sanh bị khổ não, cầu cứu vớt mới đem thí cho cứu vớt, khiến đều được giải thoát nên hiệu là Quán Thế Âm. Hơn nữa, vì thế gian phàm phu có ba khổ, tám khổ và vô lượng các khổ, cho đến khổ biến từ phiền não Quán Thế Âm Bồ tát quán tiếng tăm trì danh cầu cứu khổ kia liền được giải thoát. Bồ tát Quán Thế Âm không khổ não nào chẳng cứu vớt, không cõi nước nào chẳng hiện thân. Trí năng quán của Bồ tát cùng với cảnh sở quán thế giới chúng sanh Duy thị là nhất tâm nên gọi là Quán Thế Âm.

Lại nữa Bồ tát Quán Thế Âm là vị tu hành đã nhiều kiếp theo hạnh đại bi cứu khổ chúng sanh, theo tiếng kêu đau khổ của người đời mà cứu giúp nên gọi là Quán Thế Âm. Từ kiếp xa xưa ngài gặp đức Quán Âm Như Lai giáo hoá tu được phép “Nhĩ căn viên thông” nghĩa là từ theo tánh nghe, nghe tiếng của từ tâm, ngộ được tánh nghe, nghe khắp suốt cả mười phương, không nhiễm không trược. Đức Quán Âm Như Lai thọ ký cho ngài đồng hiệu là Quán Thế Âm.

Bồ tát Quán Thế Âm đã thành Phật trong quá khứ hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, Ngài thị hiện làm Bồ tát vì muốn cứu khổ ban vui cho chúng sanh. Bồ tát quán thấy Phật và chúng sanh đồng chung một bản thể, đồng chung một giác tánh duy nhất, nhưng Phật đã giác ngộchúng sanh thì còn mê. Chúng sanh không tự biết mìnhPhật tánhchân tâm bất diệt của mình, chúng sanh nhận lầm thân ngũ uẩn bất tịnh, giả hợp, sanh diệt này là thật, là bản ngã, chúng sanh nhận đối tượng sắc trần làm vật sở hữu của ngã. Từ đó có ta có người, có cái chẳng phải ta đối đãi phân biệt, vì phân biệt nên có vô số phiền não gây ra. Bồ tát Quán Thế Âm là hiên thân của đức từ bi rộng lớn. Ngài phát đại thệ nguyện cứu độ chúng sanh không mỏi mệt. Ngài thương chúng sanh như huyết mạch, xương tuỷ của chính mình. Vì thế Bồ tát Quán Thế Âm không nỡ nhìn thấy chúng sanh chìm đắm trong đau khổ nên Ngài ra tay tế độ bằng cách hoá hiện nhiều thân như, khi làm bạn, khi làm thầy, chỉ cho chúng sanh biết thân tâm hiện có của ta đây là giả tạm, là vô thườngvô ngã, là hư hoại, là không thực, cái bản thể sáng suốt, thanh tịnh hiện hữu không phải nơi thân tướng và giả tướng, nhưng mỗi chúng sanh có đủ nội tâm của chính mình. Hãy định tâm quán chiếu để trở về với nó. Bồ tát Quán Thế Âmhiện thân của chân lý của vũ trụ. Ngài có khả năng quán sát và lắng nghe mọi biến cố trong vũ trụ bao la, khắp trong vũ trụ không có hình ảnh nào Ngài không thấy, không có tiếng kêu nào Ngài không nghe, không có âm thanh nào Ngài không hiểu, không có tâm niệm nào Ngài không thông, không có thế giới nào Ngài không đến, không có thời gian nào Ngài không qua. Ngài là tất cả, tất cả là Ngài. Vì thế, xưng niệm danh hiệu đức Bồ tát Quán Thế Âm là một phương pháp thiền quán tập trung tinh thần.

Bồ tát Quán Thế Âmhiện thân của từ bi nên khi hướng về Ngài niệm danh hiệu Ngài phải niệm dưới dạng niệm tâm mới giao cảm với Ngài. Chánh niệm đến lúc hành giả đồng hạnh với Quan Âm, thân hành giả hiện thành thân Quan Âm. Dùng được thân Quan Âm trang nghiêm cho thân mình thì việc ác không thể đến với hành giả. Thế giới an lành của Bồ tát lần lần mở ra cho hành giả hoặc hành giả chuyển đổi được hoàn cảnh xấu thành tốt. Ví dụ bị lửa đốt cháy, hành giả chánh niệm Quan Âm, lửa không đốt được. Nhưng hành giả phải niệm bằng tâm niệm, niệm đến chỗ vô niệm, niệm mà thức không còn biết nóng, dụ như xác thân có bị cháy thì cũng cháy ngũ uẩn thân và hành giả sẽ chứng được pháp thân. Vì thế khi gặp nạn hành giả phải trụ tâm chánh niệm Quan Âm Ngài đều gia hộ cho thoát khỏi tai nạn. Nhưng hành giả phải cầu đúng, nghĩa là đồng hạnh đồng nguyện với Quan Âm.

Trong kinh Pháp Hoanhấn mạnh hai lần rằng Bồ tát Quán Thế Âm là vị Bồ tát hay đem sự không sợ hãi ban tặng cho chúng sanh “Thị Bồ tát năng dĩ vô uý thí ư chúng sanh” hay ban cho sự không sợ hải “năng thí vô uý”. Trong bản chữ Phạn thì có sự khác biệt quan trọng trong lúc niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm, thay vì niệm “ Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát”. Thì bản chữ Phạn lại nhấn mạnh “kẻ ban tặng sự an toàn, sự không sợ hãi”[3], hay Nam mô Vô uý thí Quán Thế Âm Bồ tát Ma ha tát. Chúng ta thấy rằng dù xưng danh hiệu “Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát” (theo Hán dịch), hay xưng danh hiệu đầy đủ theo nguyên bản Phạn “Namo, Namas Tasmai Abhayamdadàya valokitesvaràya Bodhisattvàya mahasattvàyati”. Sự xưng danh hiệu này là tất cả nội dung bí mật sâu thẳm toàn thể Phẩm Phổ Môn. Thế nên chỉ cần xưng danh Quán Thế Âm Bồ tát với tất cả trọn vẹn tâm hồn nhất, (nhất tâm xưng danh Quán Thế Âm Bồ tát thì sẽ được sức mạnh huyền bí của tình thương toàn diện, vì sự gọi tên (xưng danh) là một cái gì huyền bí nhất trong thể tánh con người. Sự gọi tên là suối nguồi vô tận của tất cả tình thương, chỉ cần gọi tên Quán Thế Âm Bồ tátđánh thức dậy tất cả tinh tuý tự lực và bi lực huyền diệu, có thể phá vỡ tất cả những tai nạn, mọi nghịch cảnh, mọi mâu thuẫn, mọi tranh chấp, mọi đau khổ phiền lụy và tất cả mọi sự sợ hãi về thể xác và tinh thần của con người. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm Ngài Văn Thù ca ngợi Bồ tát Quán Thế Âm trong bài kệ “Được sức mạnh tự tại, vĩ đại và ban bố sự không sợ hãi cho tất cả chúng sanh”[4].

Tóm lại, Quán Thế Âm là đấng mẹ hiền trên tất cả mẹ hiền, trên tất cả Thánh nhân được tôn xưng là mẹ hiền.

Quán Thế Âm: Danh hiệu của tình thương bao la không bờ bến, bao la rộng khắp cõi hư không.

Quán Thế Âm: Gắn liền với tim óc với nhân loại, của muôn loại chúng sanh. Với Quán Thế Âm nơi nào có khổ đau nơi đó có Quán Thế Âm, nơi đó được giải trừ tất cả khổ đau và tại nạn”.[5]

Quán Tiếng Cứu Khổ:

Dẫn kinh:

“ Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức oai thần của Bồ tát này vậy. Nếu bị nước lớn làm trôi xưng danh hiệu Bồ tát này liền được chỗ cạn. Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc ,lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu các thứ báu nên vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi tấp nơi nước quỷ la sát, trong đó nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát thời các người kia điều được thoát khỏi nạn quỷ la sát”.15

Đoạn kinh này giải thích xưng danh Quán Thế Âm Bồ tát được thoát khỏi bảy tai nạn. Bảy tai nạn này điều là tai biến của khí thế gian khởi lên, và có thể hiểu trên hai chiều kích sự và lý.

¨ Về sự: 7 nạn

-  Nạn lửa: Nếu người dù vào trong lửa mà niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ khiến lửa mất chức năng thiêu đốt.

-  Nạn nước: Nếu có trăm ngàn muôn ức chúng sanh bị nước lớn làm ngập, hoặc sông hồ tràn ngập làm đắm chìm trăm họ, hoặc giả qua biển rủi rơi xuống nước trôi, nhưng nhờ sức niệm danh hiệu Bồ Tát mà được an lành.

Tương tự, với nạn la sát, nạn dao gậy, gông cùm tù ngục, …nếu nhất tâm xưng niệm Quán Thế Âm thời thoát được tai nạn.

¨    Về Lý:

-   Nạn lửa: chỉ cho tánh “thấy biết” vì tánh thấy biết trái ý hay sanh tánh nóng nảy như lửa. Cho nên về lửa có: lửa giận tức, lửa dâm dục, lửa bất mãn, bất bình, lửa hận não nung đốt tâm can.

-  Nạn nước: chỉ cho tánh “nghe biết” vì nếu nghe tiếng đàn giọng huyễn dễ bị cuốn trôi, nhận chìm trong nhục dục đau khổ, tánh luyến ái nặng nề cũng được ám chỉ một hình thức cuốn trôi, nhận chìm của nước.

-  Nạn quỷ la sát: Ám chỉ những kẻ độc ác, hung bạo, giết người.

-   Nạn dao gậy: Ví cho sức tác hại của sáu căn xúc đối với sáu trần sanh ra sự đau khổ như cắt, như đánh.

-   Nạn ma quỷ: Chỉ sự cám dỗ của tham, sân, si, mạn, nghi, giải, đãi, thuỳ miên, phóng dật, hôn trầm.

-   Nạn gông cùm xiềng xích: Biểu trưng cho sự mê mờ tối tăm vì những thứ đó làm cho con người mất tự do tự tại, kìm hảm sức phát triển về thể xác lần tinh thần.

-  Nạn giặc cướp: Ám chỉ những hành động sai quấy tội lỗi. Do đó mất sạch công đức lành, ví như bị giặc cướp hết sạch của cải.[6]

Với từ lực vô biên, thí tâm rộng lớn Bồ tát Quán Thế Âm chẳng những tầm thanh cứu khổ, cứu giúp chúng sanh thoát khỏi 7 nạn trên, mà còn đem pháp vô uý để giúp chúng sanh thoát nỗi sợ hãi, trở về với tâm bất loạn. Tầng tâm thức bất loạn của người cầu cứu chính là tầng tâm thức của Bồ tát Quán Thế Âm. Cho nên, khi âm thanh cầu cứu niệm danh hiệu Ngài ở trạng thái nhất tâm bất loạn, thì Ngài liền cảm ứng ngay. Vì thế, niệm danh hiệu Quán Thế Âm là “niệm” tiếng lòng thanh tịnh, tiếng nói mầu nhiệm của tâm mình. Nếu ai biết quy hướng thì “vọng tưởng hư minh” không còn là áng mây che mờ tánh giác, lúc đó tâm nguyện của người đó sẽ tiếp nhận năng lực mầu nhiệm của Ngài, và mọi triền phược trong và ngoài  đều sẽ được hoá giải.

Như vậy, đứng về mặt sự tướng thì có bảy nạn, chẳng hạn như có biển sâu, có ác quỷ... Nếu chúng ta đi biển, không may gặp nạn như thế, hãy nhất tâm niệm Quán Thế Âm thì sóng gió sẽ không làm ta chìm đắm. Điều này là một sự thật, bởi vì khi nhất tâm niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm ngoài sự linh ứng chúng ta còn bình tỉnh không hoảng sợ trước những tai hoạ, lúc đó ta biết làm gì và không nên làm gì để quay về bến bờ bình yên.

Nhưng đứng về mặt lý tính thì chẳng cần đi ra biển. Biển ngự trị ngay trong tâm thức của mỗi chúng ta, khi những đợt sóng, dấy khởi dữ dội là những mong muốn tham vọng bủa vây khiến tâm hồn ta xáo động, vui, buồn, được, mất ngay lúc này dấy khởi, cũng như cá rồng, quỷ dữ gào thét phun những nọc độc nhận chìm mọi ý tưởng thánh thiện của chúng ta, và cũng là biển, nhưng khi sóng lặng, gió yên thì tâm hồn ta bình thản hiền hòa bao dung như lòng đại dương mênh mông, nơi đây thâu nhiếp mọi công đức lành và trở về với biển tâm thanh tịnh, sáng suốt thì mọi sóng gió từ biển động lòng  người không thể nhận chìm chúng ta được.

Tóm lại, bảy nạn kia dù đứng về mặt sự hay lý đi chăng nữa thì khi niệm Quán Thế Âm cốt yếu là tâm được định nhất. Với tâm ngoài vong cả thế giới lục trần, trong vong cả sanh mạng, năng sở đều vong, thời Quán Âm trong tự tâm tự nhiên hiển hiện liền được cứu nạn.

Quán Tâm Cứu Khổ:

“Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ tát liền được ly dục; nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ tát liền được lìa lòng giận; nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ tát liền được lìa ngu si. Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ tát có những sức oai thần lớn nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sanh cần phải thường niệm nhớ nơi lòng”

Đoạn kinh này ý nói giải trừ ba độc (tham, sân, si) nơi ý nghiệpphiền não trong tự tâm. Vì vậy đức Phật dạy “thị cố chúng sanh thường ưng tâm niệm”. Vậy tâm niệm gì? Tâm niệm danh hiệu Quán Thế Âm. Tại sao phải tâm niệm? Vì chỉ có tâm niệm mới đúng với nghĩa niệm Quán Âm chứ không phải “ý niệm” lại cũng không phải “miệng niệm”, tâm niệm, mà phải “thường ưng niệm”. Tại sao tâm niệm luôn luôn niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm lại được giải trừ ba độc? Vì:

§ Tâm thường quán niệm bất tịnh thì giải trừ được tham dục

§ Tâm thường quán niệm từ bi thì giải được sân hận.

§ Tâm thường quán niệm trí tuệ rộng lớn thì giải được si mê.

Tham, sân, si, theo Đạo Phật, là ba thứ làm căn cội cho mọi tệ lậu của con ngườicuộc đời. Để đoạn trừ ba căn cội này, Phổ Môn đề xuất: hãy tin vào Bồ tát Quán Thế Âm, hãy đem tất cả bản thân mình quy y, gởi gắm vào Bồ tát Quán Thế Âm, vì Bồ tát Quán Thế Âmhiện thân của từ bitrí tuệ. Qui y với ngài là un đúc giống từ bitrí tuệ vào tâm thức chúng ta và cũng là một phương pháp khai thác những năng lực tiềm tàng trong tâm để cứu khổ, trừ mê, diệt tai nạn. Giây phút nào chúng ta hướng về từ bi, trí tuệ là giây phút ấy diệt trừ ma quân. Vì vậy chúng ta hãy thường niệm danh hiệu Ngài để tự hoàn thiện, trưởng dưỡng những phẩm tính tốt đẹp trong tâm thức của chính mình, đồng thời nhận ra bản chất của cuộc sống. Khi chúng ta đã phát triển năng lực tu tập thì tất cả những vọng tưởng nhơ nhiễm, xấu ác trong tâm không có chỗ sanh khởi, nhất định sẽ thoát khỏi những cạm bẩy của bọn tà ma yêu quái, thoát khỏi những niệm bất thiện có trong tâm hồn. Vì rằng! Tâm là cội gốc của muôn pháp, một niệm khởi lên sẽ tác thành nghiệp báo. Cho nên những tư tưởng bất thiện, những hành vi bất chánh đều là những yêu ma hiện hành trong tâm thức. Tâm thức của chúng ta nếu không nghe tiếng lòng thanh tịnh của Quán Thế Âm thì mặc sức tung hoành buông thả, do vậy những cám dỗ thầm kín bên trong, ta cố gắng đoạn trừ và cả những cạm bẩy bên ngoài, ta cũng nên xa lánh. Có như vậy thì Bồ tát Quán Thế Âm mới thể nhập vào cuộc sống của chúng ta. Khi tâm chúng ta không còn tham, sân, si thì Tâm, Phật và Chúng sanh đều cùng một thể tánh thanh tịnh sáng suốt. Tây phương Cực lạccảnh giới Tịnh độ của Phật A Di Đà, cũng chỉ cho mảnh đất tâm thanh tịnh “Tâm địa nhược không, Tuệ nhựt tự chiếu” ( khi tâm địa rỗng rang sáng suốt, thì mặt trời trí tuệ sẽ rọi chiếu khắp hang cùng ngõ hẻm, đó chính là Phật A di Đà tiếp dẫn). Bồ tát Quán Thế Âm là vị trợ lực tiếp dẫn chúng sanh, đây chính là biểu tượng từ bitrí tuệ.

Quán sắc cứu khổ:

“Nếu có người nữ, muốn cầu con trai,  lễ lạy cúng dường Quán Thế Âm Bồ tát, liền sanh con trai phước đức trí tuệ, muốn cầu con gái, liền sanh con gái có tướng xinh đẹp, vì trước đã trồng cội phước đức nên được mọi người kính mến. Vô tận ý! Quán Thế Âm Bồ tát có sức thù thắng như thế. Nếu có chúng sanh nào cung kính lễ lạy Quán Thế Âm Bồ tát thời phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh đều phải thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát”.

Quán Thế Âm Bồ tát, vị cứu khổ chúng sanh. Ngài không chỉ có tình thương quãng đại, mà còn có tuệ giác vô tận. Ngài dẫn dắt chúng sanh vượt bể ái, nguồn mê, đi về bến giác.Với hạnh nguyện độ tận chúng sanh nên Ngài không trụ Niết bàn không lìa sanh tử, ra vào tự tại nơi tam giới để hoá độ quần mê. Ngài phát nguyệncõi Ta bà tối tăm này để cứu khổ mỗi khi nghe tiếng kêu cầu của chúng sanh.

                       “Nguyện soi sáng trần gian bằng tuệ giác

                       Nguyện cứu đời bằng sữa ngọt yêu thương

                       Mang hành trang lục độ để lên đường

                       Đi gieo rắc ánh vàng cho tất cả”.[7]

Đó chính là mục đích chính mà Bồ tát Quán Thế Âm xuất hiện ở cõi đời ngũ trược ác thế này. Vì thế nếu có người nữ muốn cầu sinh con trai, con gái đều sinh được con trai con gái. Nếu y theo Phật pháp mà nói sanh con trai, gái là làm tăng thêm phiền não. Nhưng y theo pháp thế gian, lại chú trọng việc nối tiếp dòng dõi. Lòng từ bi đức Quán Thế Âm nên cũng thị hiện để thoả mãn cho hai nguyện vọng khẩn cầu kia. Nhưng muốn thoả mãn hai điều ấy tất phải lễ bái cúng dường Quán Thế Âm. Vì lễ bái cúng dườngthân nghiệp cung kính của chúng sanh, Bồ tátthiên nhãn thông, nên đều biết đều thấy chỗ sở cầu nơi tâm chúng sanh, cho nên mới làm thoả mãn mong muốn của chúng sanh. Nhưng phải đem thân thể cung kính lễ bái, miệng xưng niệm danh hiệu và trong tâm ý quán tưởng dung nhan của Bồ tát cũng tức là ba nghiệp cúng dường vậy. Như năng cung kính kiền thành cúng dường Quán Thế Âm Bồ tát, tức Ngài ban cho một nam nhi cả phước huệ đầy đủ, vì sao gọi là một nam nhi phước huệ đầy đủ? Vì người đó kiếp trước biết niệm Phật, hiểu đạo lý cho nên đời nay có trí huệ, và kiếp trước hay bố thí, hay phóng sanh, đời nay có phước lộc. Vì vậy nếu có người nữ nào thành khẩn tha thiết nhất tâm niệm Quán Thế Âm chắc chắn sanh được nam nhi tuấn tú phước đứctrí huệ đầy đủ. Lại nữa nếu có người nữ nào muốn cầu con gái thì sanh con gái có tướng xinh đẹp, mọi người đều kính mến.

Nhưng y theo Phật pháp mà nói “Thế gian vạn pháp đều là huyễn hoá. Con cái xinh đẹp là trả nợ đời, mà con cái xấu xí là đòi nợ tiền khiên. Nhiều hay ít con cái tức là ít hay nhiều phiền não. Người tu hành cho việc có con cái là sợi dây buộc lụy”.[8] Thuyết này với thế gian pháp thì trái ngược nhau Bồ tát Quán Thế Âm chẳng những làm thoả mãn nguyện cầu nam nữ trong thế gian mà còn làm thoả mãn những người học Phật nguyện cầu pháp môn nam nữ nữa. Nam tiêu biểu trí tuệ, nữ tiêu biểu thiền định. Như vậy thành tâm đảnh lễ đức Quán Thế Âm cũng là một hình thức để khai mở năng lực cứu khổ tự thân ở trong tâm mình, vì khi đảnh lễnăm vóc gieo xuống đất và một lòng chí thành cung kính đó là đang trụ trong trạng thái của Thiền định, và nhờ Thiền định nên Trí tuệ phát sanh; vì sao phải đảnh lễ Bồ tát Quán Thế Âm vì muốn có Trí tuệ. Có trí tuệgiải quyết được tất cả mọi lo âu, phiền muộn, và đau khổ. Không có trí tuệ thì không đào bứng được gốc rễ vô minh, vòng trói buộclưu đày của con người cũng không do đâu giải quyết được. Muốn giải quyết gốc rễ khổ đau là tự mình quán chiếu, tự mình nỗ lực theo ba môn, Giới Định Tụê. Giới thể thanh tịnh, định lực kiên cố thì trí tuệ phát sanh. Có trí tuệgiải quyết được tất cả. Thành tựu trí tuệthành tựu cơ nghiệp giải thoát.

Vì vậy việc cầu con trai thông minh tuấn tú cầu con gái thuần hậu đoan trang với ý nghĩa thâm diệu: cầu con trai là thiết lập chánh tâm, thiền quán để thành tựu trí tuệ. Cầu con gái là quyết chí tu học tinh tấn, sống phạm hạnh để phát triển và khai mở từ bi tâm. Hai đức tính trí huệtừ bi tâm đầy đủ thì si mê và thù hận không còn. Bồ tát Quán Thế Âmtrí tuệ siêu việt, có lòng từ bi rộng lớn và hiện hữu khắp mọi nơi trong thế gian. Nếu ta biết lắng lòng thanh tịnh, buông bỏ tạp niệm, tập trung năng lực về một mối để tư duy thì ta có thể tiếp xúc được với năng lực của Bồ tát Quán Thế Âm.Vì người cầu nguyện và đối tượng cầu nguyện tuy hai mà một, ví như năng lực của dòng điện cao thế được phân chia qua trục phối điện để đưa vào nhà thắp sáng các ngọn đèn. Các bóng đèn với dòng điện cao thế tuy khác nhau nhưng có sự tương quan rất mật thiết. Dòng điện có sẵn, nhưng không có trụ phối điện, không có giây tiếp điện và bóng đèn thì ánh sáng không phát hiện. Cũng thế năng lực mầu nhiệm của Bồ tát Quán Thế Âm hiện diện khắp nơi, ta phải biết tạo lập phương pháp thích ứng để tiếp nhận năng lực mầu nhiệm của Ngài, nhằm hoá giải những triền phược trong ta và ngoài ta. Người cầu nguyện có sự cảm ứng với Bồ tát Quán Thế Âm là người có chánh tâm, thành ý và thiết tha hướng tâm về một đối tượng để quán niệm. Tâm ta khi tập trung và trở thành nhất tâm thì sẽ thông đạt thể tánh mầu nhiệm của muôn pháp. Đức Quán Thế Âm Bồ táthiện thân của từ bi, mà từ bi là cái thể tánh uyên nguyên của vũ trụ. Cái thể tánh ấy có đủ diệu dụng, có đủ công năng mang lại sự tốt lành, bình an cho muôn loài. Do đó, hể ai có ý thức thiết lập chánh niệm, khai mở động cơ tâm linh để tiếp xúc với tha lực mầu nhiệm kia bằng sự cầu nguyện, xưng danh hiệu đấng đại từ đại bi đúng pháp thì sẽ toại ý mong cầu.  

Ghi chú:

 [1] Viên Trí, Khái Niệm về Bồ tát Quán Thế Âm,  NXBTG Hà Nội, tr. 169

[2] Sđd, tr. 171.

[3] Phạm Công Thiện, Hành trạng Bồ tát Quán Thế Âm, tr. 3.

[4] Sđd, tr. 7

[5] HT Thích Huyền Tôn, Công Hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm, tr 1.

15 Thích Trí Nghiêm, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa giảng diễn lục, tr. 698.

[6] Pháp sư Thích Từ thông, Pháp Hoa Thâm Nghĩa Đề Cương, tr. 323.

[7] Thích Nữ  Minh Triều, Mười hai lời nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm, Nxb, TG, Hà Nội, 2002, tr.10.

[8] Thích Trí Nghiêm, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm Quán Thế Âm Bồ tát Phổ Môn giảng lục, tr. 122.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 152)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 229)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 256)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 288)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 569)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 562)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 500)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 638)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 653)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 744)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 564)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 551)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 559)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 679)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 726)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 766)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1316)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 870)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1032)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 797)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1018)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 929)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1072)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1325)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 920)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 908)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1358)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1106)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1469)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1356)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1348)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1347)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1175)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1214)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1579)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant