Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Dẫn Vào Kinh Pháp Hoa

24 Tháng Mười 202015:28(Xem: 3692)
Dẫn Vào Kinh Pháp Hoa
Dẫn Vào Kinh Pháp Hoa

Khải Thiên 

hoa sen 1

Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh. Hy vọng điều này sẽ ít nhiều giúp cho người đọc tiếp thu giáo nghĩa một cách chính xác. Dĩ nhiên, mỗi người, mỗi hành giả có một trình độ tâm chứng nhất định khác nhau. Mỗi hành giả, do đó, hiểu kinh theo cấp độ tuệ giáccảm xúc tâm linh của riêng mình. Thật vậy, chúng ta đến với kinh bằng những cách tiếp cận khác nhau, những hiểu biết khác nhau, cùng với những diễn dịch khác nhau .v.v. Nhưng vượt lên trên tất cả, chúng ta cũng nên lưu ý rằng, chân lý chỉ có một mà thôi. Chân lý, do vậy, không thể đúng với người này mà khác với người kia, hay đúng chỗ này mà sai ở chỗ kia. Người thọ trì Pháp Hoa nghiêm túc phải dùng nhiều phương tiện để đạt đến một chân lý, nht tha. Những gợi ý dưới đây dành cho những bạn đồng hành cùng thọ học kinh Pháp Hoa.

Cu trúc ba bthuc Kinh Pháp Hoa (Pháp Hoa Tam BKinh): Bộ kinh Pháp Hoa hiện tại chúng ta đang thọ trì là bản dịch trực tiếp từ chữ Phạn (sanskrit) sang chữ Hán của Ngài Cưu-ma-la­thập; đối với người đọc tiếng Việt, tiếp theo nguyên bản này có bản dịch từ chữ Hán sang chữ Việt của Hoà Thượng Thích Trí Tịnh. Đây là bản kinh chính có hai mươi tám chương. Tuy nhiên, trong bộ kinh này có hai chi tiết cần lưu ý. Trong chương một (Phẩm Tựa) phần mở đầu, kinh có nói rằng Đức Phật trước hết giảng kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa, sau đó Ngài nhập vào Chánh định Vô Lượng NghĩaXứ. Và sau khi an lành dậy khỏi định, Ngài bắt đầu giảng kinh Pháp Hoa. Thứ đến, trong chương thứ hai mươi tám (Phẩm Phồ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát) kinh khuyến khích hành giả Pháp Hoa tu tập gia hạnh nương theo Bồ tát Phổ Hiền. Ởđó xác định bốn điều kiện để có được kinh Pháp Hoa (Được chư Phật hộ niệm, trồng các cội công đức, vào trong chánh định, và phát tâm cứu độ chúng sinh). Vì vậy, kinh Quán PhHin BTát Hành Pháp, một tập kinh ngắn, được gắn kết vào cu trúc Pháp Hoa tam bkinh. Tập kinh này được xem là những chỉ dẫn quan trọng về cách sám hối tội chướng của hành giả, làm cho thân tâm trở nên thanh tịnh. Từđây có cấu trúc ba bộ kinh thuộc Pháp Hoa (Pháp Hoa Tam Bộ Kinh), bao gồm ba phần: Phn khai kinh (Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa, có ba chương), phn chính (Kinh Pháp Hoa, có hai mươi tám chương), và phn Pháp hành (Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp, có một chương). Chúng ta sẽ lần lượt đi vào nội dung cụ thể của ba bộ kinh Pháp Hoa ở phần sau.

Các Phân Hi ca Kinh Pháp Hoa: Các bài thuyết pháp của Đức Phật trong Kinh Pháp Hoa hai mươi tám chương được trình bày qua hình thức kể chuyện, những vở kịch dài, có nối kết ba đời quá khứ, hiện tại, và vị lai. Nội dung thường mang tính chất huyền bí vì bối cảnh câu chuyện đôi khi diễn ra ở các cõi trời hay liên hệ đến Long cung sâu thẳm ở tận đáy đại dương. Tuy nhiên, hầu hết các câu chuyện được diễn ra trên hai bối cảnh chính đó là trên đỉnh núi Linh Thứu (Linh sơn hội) hoặc trên không trung (Hư không hội) của đỉnh núi Linh Thứu. Các pháp thoại này lại được chia thành ba hội khác nhau (nhị xứ tam hội) đó là trước pháp hội Linh sơn (tiền Linh sơn hội), pháp hội trên không trung (Hư không hội), và sau pháp hội Linh sơn (hậu Linh sơn hội).

Pháp hội tiền Linh sơn diễn ra tại núi Linh Thứu, bao gồm mười chương, từ chương một (Phẩm Tựa) đến chương mười (Phẩm Pháp Sư). Trong các pháp hội này, người thuyết giảng là Đức Thích Ca Mâu Ni Phật; giáo pháp được thuyết giảngTht tướng ca các Pháp. Đối tượng nghe phápchúng sinh đương đại thời Phật tại thế.

Pháp hội không trung, thuyết giảng trên hư không, bao gồm mười hai chương, từ chương mười một (Phẩm Hiện Bảo Tháp) đến chương hai mươi hai (phẩm Chúc Lụy). Trong pháp hội không trung, người thuyết Pháp là Đức Thích Ca Mâu Ni, có Đức Phật Đa Bảo và các phân thân của chư Phật cùng tham dự. Nội dung giáo pháp bao gồm nói về Đức Phật cửu viễn thật thành, các phương tiện khai cận hiển viễn, Như Lai thường tại, và thế giới bổn lai thường tịch (ta bà tức tịch quang). Đối tượng giáo hoá là chúng sinh đời sau, sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni diệt độ.

Pháp hội hậu Linh sơn giảng tại núi Linh Thứu, bao gồm bảy chương, từ chương hai mươi ba (Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự) đến hai mươi tám (Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát). Người thuyết giảng là chư Bồ Tát, giáo pháp được giảng nói về sự tán dương công đức của người thọ trì kinh và thệ nguyện hộ trì của chư Bồ tát. Đối tượng giáo hoá là chúng sinh đời sau, sau Phật diệt độ.

Biu đồ Pháp hi b1

Các Phân Đon ca Pháp Hoa: Theo tông Thiên Thai, kinh Pháp Hoa hai mươi tám chương được phân đoạn theo hình thức hai môn và sáu đoạn (nhmôn lc đon) bao gồm Tích môn và Bổn môn. Mỗi môn có ba phần: phần giới thiệu (tphn), phần chính (chính tông phn), và phần kết (lưu thông phn). Đối với Tích môn, chương một là phần giới thiệu, chương hai đến chương mười là phần chính tông, chương mười một đến chương mười bốn là phần kết. Đối với Bổn môn, chương mười lăm (Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất) là phần giới thiệu, Phẩm mười sáu (Như Lai Thọ Lượng) là phần chính tông, chương mười bảy đến hai mươi tám là phần kết.

 

Biu đồ Phân đon

b2

Hai Môn ca Pháp Hoa: Môn ở đây không phải là sự phân biệt riêng lẻ từng nơi chốn hay từng góc độ độc lập. Danh từ Tích môn Bn môn chỉ đến hai cách nhìn về sự hiện hữu của Đức Phật. Tích môn chỉ cho các hoạt động thực tế của Đức Phật như quá trình Ngài tu học, thuyết pháp, và giáo hoá chúng sinh. Tích môn có thể được nhận thức qua các sự kiện đản sinh, thành đạo, chuyển Pháp luân, và nhập niết bàn. Các hành trạng đó có dấu tích, có thể thấy biết được trong nhận thức chung của con người theo dòng lịch sử của Đức Phật. Tích môn như thế là sự thị hiện mang tính chất lịch sử hiện thực của một vị Phật, có đản sinh và có diệt độ. Ngược lại, Bổn môn chỉ đến những cái không thể thấy dấu tích, không biểu hiện ra ngoài, không giới hạn trong không gianthời gian thị hiện của Đức Phật. Trong quan niệm chung của Phật giáo, bao gồm các hệ thống giáo lý của Nam tạng và Bắc tạng, đều ghi nhận quá trình lâu xa hành đạo Bồ Tát để cảm thành thọ mạng hôm nay của Đức Phật. Quá trình lâu dài kết nối nhân hạnh quả đức đó không để lại dấu vết nào trong khuôn khổ tri thức của con người đối với một Đức Phật lịch sử. Lịch sử không thể ghi lại được thời điểm khi Đức Phật lần đầu phát thiện tâmđịa ngục A-tỳ (A-tỳ ngục tốt sơ phát thiện tâm); cũng không thể ghi chép được ba A-tăng­kỳ, trăm kiếp tu hành viên mãn của Ngài (Tam kỳ quả mãn, báck kiếp nhân viên). Vì thế, khác với Tích môn, Bổn môn chỉ đến đời sống công đức viên thành của Đức Phật từ quá khứ lâu xa cho đến bây giờ và mãi tận ngàn sau. Đấy chính là ngun tugiác vô thượng và thmng vô cùngĐức Pht đã thành tu tvô lượng kiếp. Nguồn ánh sáng bất diệt ấy cũng chính là cội nguồn của sức mạnh tâm linh, là bản thể thường tại của đức Phật. Nguồn mạch tâm linh tối tôn vô thượng đó được được mô tả qua khái niệm cu vin tht thành; với ý nghĩa rằng Đức Thích Ca Mâu Ni đã thành Phật từ lâu xa, từ vô lượng vô số kiếp, và rằng Ngài là Đức Phật chân thật bật diệt, thường trụ vĩnh hằng. Khái niệm Bổn môn, do đó, mở ra một cái nhìn khác, vượt ngoài chiều kích của không gianthời gian về sự hiện hữu của Đức Phật chân thật. Qua lăng kính Bổn môn, đời sống vĩnh hằng của Đức Phật vượt lên trên khung thời gian hữu hạn từ sinh đến diệt và không gian giới hạn ở các trú xứ thị hiện lâm thời của Phật, từ vườn Lâm-tỳ-ni đến rừng Ta-la song thọ, Kusinaga. Có thể ví dụ, Đức Phật chân thật, cửu viễn (Bổn phật) như mặt trăng thường tại trên trời, trong khi Đức Phật thị hiện (Tích Phật) như ánh trăng dưới nước, khi xuất hiện (đản sinh) khi biến mất (niết bàn). Thể nhập vào thế giới thực tại của Bổn môn, do đó, là mục tiêu cuối cùng của hành giả Pháp Hoa. Ởđây, vì có trăng trên trời nên mới có ánh trăng xuất hiện dưới nước. Nhờ thấy được trăng dưới nước nên mới biết có trăng trên trời. Cũng vậy, Bổn và Tích xuất hiện như một cặp chân lý hiện hữu song hành, có bùn mới có sen. Điều quan trọng là, dù chưa thể nhận ra sự hiện diện thường trú của Đức Phật cửu viễn do trình độ tâm chứng giới hạn, chúng ta vẫn không thể dừng lại ở những gì diễn ra trong Tích môn. Đấy là lý docon đường Bổn môn được xây dựng bằng cách: khai mở phương tiện để thể nhập thế giới chân thật (khai tích hin bn), đem tất cả phương tiện của Tích môn để trở về hội nhập với Bổn môn (hi tích quy bn), và sau cùng, như qua sông rồi, con thuyền cần được để lại đằng sau (phế tích lp bn).

Hai cách tiếp cận của Tích môn và Bổn môn là một dấu ấn rất đặc trưng của Pháp Hoa. Tuy vậy, chúng ta dường như vẫn thấy được một cái gì đó rất chung nhất có mặt ở cả Tích môn và Bổn môn. Phải chăng cái chung nhất đó chính là cửa ngõ diu hu "phi nhất phi dị" để đi vào tri kiến Phật mà ởđó Bổn-Tích cũng nhất như, như nhân-quả nhất như. Trong Tích môn, phẩm Phương Tiện (chương hai) là nội dung chính, trong Bổn môn, phẩm Như Lai Thọ Lượng (chương 16) là nội dung chính. Ở hai chương chính này đều có những chỉ dẫn rất quan trọng cho hành giả về một hướng đi trực tiếp thnhp Pht tri kiến. Vấn đề này sẽ được trình bày cụ thể trong phần nội dung. Tại đây, có lẽ không cần thiết phải đề xuất thêm một khái niệm mới để dẫn vào thế giới thực tại của Pháp Hoa. Làm như thế chỉ thêm phần rối rắm. Trong khi đó con đường khai thngnhp Pht tri kiến của Pháp Hoa tự nó đã nói lên tất cả mục đích của giáo lý Pháp Hoa.

Ngôn Ngca Pháp Hoa: Ngôn ngữ của Pháp hoa là một chủ đề quan trọng trong cách thức tiếp nhận và lĩnh hội giáo nghĩa viên đốn. Các nhà nghiên cứu thường đề cập đến phong cách văn học đặc thù của Pháp Hoa, trong đó kinh được trình bày qua dòng ngôn ngữ biểu tượng. Tuy nhiên, trên thực tế, kinh cũng bao quát nhiều thể loại ngôn ngữ bao gồm thí dụ, ẩn dụ, phân tích, giải thích .v.v. Chính vì vậy, có những giáo huấn được trình bày một cách cụ thể, dễ hiểu và dễ lĩnh hội. Ví dụ, ở Phẩm Pháp Sư (chương mười), khi nói về ba điều kiện của hành giả Pháp Hoa, Đức Phật đưa ra ba hình ảnh cụ thể, nhà Như Lai, áo Như Lai, và toà Như Lai; rồi Ngài cắt nghĩa rõ nhà Như Laitâm tbi, áo Như Laihnh nhu hoà nhn nhc, và toà Như Laian trú pháp Không. Ởđây, chúng ta không cảm thấy khó khăn trong việc tiếp nhận những giáo huấn như vậy. Tuy nhiên, phần lớn nội dung trọng yếu của Pháp Hoa được trình bày thông qua những câu chuyện với nhiều hình ảnh biểu tượng, nhưng không có những giải thích cụ thể những hình ảnh biểu tượng đó. Chẳng hạn như, hình ảnh ánh sáng lông trắng giữa chặn mày, trời đất sáu điệu vang động, trời mưa hoa, nhà bếp và chén bát ở cõi trời rơi xuống, chư thiên tung thiên y lên trên trời, chiếc ytự xoay vần rồi trụ giữa hư không, hình ảnh tháp của Phật Đa Bảo xuất hiện .v.v. Có rất nhiều hình ảnh như thế xuất hiện trong kinh và được lặp đilặp lại nhiều lần. Ởđây, rõ ràng chúng ta không thể giải minh những hình ảnh như thế theo nghĩa đen hay theo cách thức của một câu chuyện thần thoại. Người đọc, vì vậy, phải đi qua các lớp nghĩa biểu tượng mới có thể nắm bắt được ý nghĩanội hàm sâu kín bên trong câu chuyện và những gì được mô tả. Đây cũng là một trong những lý do khiến nhiều người cảm thấy khó khăn trong việc tiếp nhận giáo lý thánh diệu của kinh. Không thể phủ nhận rằng, càng đi sâu vào thế giới tâm linh thì những điều được trình bày trong kinh càng trở nên xa lạ với thế giới trần tục, mang nhiều hình ảnhbiểu tượng thần bí.

Vậy tại sao Pháp Hoa không nói thẳng vào vấn đề mà phải trình bày vấn đề qua ngôn ngữ biểu tượng? Có thể nói, trước hết, Đức Phật đã tuyên bốthông điệp của kinh rằng, "Chư Pht Thế Tôn ra đời chvì mt đại snhân duyên đó là khai thchúng sinh ngnhp Pht tri kiến." Tuy nhiên bản chất của tri kiến ấy là gì thì không thể diễn đạt được. Bởi vì ngôn ngữ phàm tục của chúng ta trở nên bất lực trước các pháp vô tướng, không có khả năng diễn đạt về tht tướng vô tướng. Ởđây, tri kiến Phật là pháp vô tướng. Tất cả pháp vô lậu, các Ba-la-mật .v.v. đều là pháp vô tướng. Ngay cả thật tướng của cuộc đời cũng là pháp vô tướng. Và như thế, không thể dùng cái hữu tướng để diễn đạt cái thc ti vô tướng được. Những gì có thể diễn đạt được chỉ là bóng dáng của thực tại mà thôi. Càng miêu tả, càng xa rời thực tại. Chính vì vậy, trong ý nghĩa phương tiện, Pháp Hoa được trình bày qua dòng ngôn ngữ biểu tượng để qua đó chúng ta có thể tiếp nhận được thánh giáo về thế giới tâm linh. Trong ngôn ngữ biểu tượng, tất nhiên, khi nói đến cái biu tượng, chúng ta sẽ lập tức nghĩ đến cái được biu tượng, một cái gì đó hoàn toàn khác với bản thân cái biểu tượng. Cũng như khi nói chim bồ câubiểu tượng cho hoà bình, dĩ nhiên hoà bình không có nghĩa là chim bồ câu. Và như thế, thông qua cách trình bày của ngôn ngữ biểu tượng, cái được biểu tượng sẽ không còn bịđóng khung vào một phạm trù giới hạn nào hết. Từđây, người thọ trì Pháp Hoa tuỳ vào năng lực của mình mà có thể tiếp nhận giáo huấn linh diệu của Phậtmột cách sinh động, cũng như có thể lĩnh hội được cái vô biên ngay trong đời sống hữu hạn. Cái vô biên, bất khả thuyết đó chính là tri kiến Phật vốn thường tại vĩnh hằng trong mỗi chúng ta.

Hành trình xây dng biu tượng ca Pháp Hoa: Đây là một chủ đề quan trọng nhằm cắt nghĩa, giải minh những biểu tượng tâm linh nhưđã được trình bày trong kinh. Biểu tượng nào cũng có một lịch sử của nó, cho dù nó thuộc về cái thiêng liêng hay trần tục, thuộc về tôn giáo hay xã hội. Ởđâu cũng vậy, lịch sử hình thành của cái biu tượng chính là nền tảng để giải thích cho cái được biu tượng. Do đó, sự hiểu biết ít nhiều của chúng ta về kinh Pháp Hoa, dù chỉ trên mặt tri thức, đều phải dựa vào những giáo huấn của Đức Phật được nối kết suốt chiều dài lịch sử của tư tưởng Phật giáo, và được trình bày qua những bộ kinh trước đó như các kinh Nikaya hoặc A­hàm. Trong trường hợp kinh Pháp Hoa, tên kinh được biểu thị qua hình ảnh hoa sen (Diệu pháp liên hoa), và hoa sen cũng là biểu tượng cho toàn bộ triết lý Pháp hoa. Do đó, ý nghĩa hoa sen trong kinh Pháp Hoa mà ngay nay chúng ta có được dĩ nhiênliên hệ chặt chẽ với ý nghĩa hoa sen trong các kinh từ thời nguyên thỉ, như kinh Pháp Cú chẳng hạn. Để hiểu biết chính xác vềý nghĩacủa một biểu tượng như hoa sen, trong trường hợp này, các nhà nghiên cứu về Pháp Hoa đã viện dẫn các chú giải vềý nghĩa hoa sen ngay từ trong các chuyện tích về cuộc đời của Đức Phật, đến các kinh Nikaya và các luận thư của Đại thừa sau này. Hơn thế nữa, các lĩnh vực thuộc về văn hoá và văn học liên quan đến hình tượng hoa sen trong thực tế tại Ấn Độ cũng đã được bàn đến trong việc giải thích ý nghĩa tên kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này ở phần sau.

Về mặt tâm linh, hoa sen là một trong những biểu tượng phổ biến nhất của Đạo phật, có mặt từ sự ra đời của Đức Phật lịch sử cho đến trong tất cả các thể loại kinh điểnvăn học Phật giáo. Cho đến thời đại của kinh Pháp Hoa, biểu tượng hoa sen trở thành đại diện cho một hệ tư tưởng đặc trưng trong dòng triết học Đại thừa, đấy là triết lý Nht tha-viên giáo. Ởđây các chuẩn mực tâm linh của nhiều truyền thống Phật giáo cũng được xây dựng qua hình ảnh hoa sen. Chúng ta có thể thấy triết lý và ý nghĩa hoa sen được thể hiện qua những cách ngôn chẳng hạn cư trn bt nhim (sống trong bùn mà không hôi tanh mùi bùn), sinh ttc niết bàn (niết bàn có mặt trong cõi sinh tử), hoa khai kiến Pht (sen nở thấy Phật) .v.v.

Nói tóm lại, những gợi ý về cách tiếp cận đối với kinh Pháp Hoa trên đây có thể giúp thêm hành trang cho chúng ta từng bước đi vào thọ trìnghiên cứu kinh. Có rất nhiều phương tiện để đi vào thực tại, lòng thành tín chân thật chắc chắn sẽ trợ duyên cho chúng ta rất nhiều. Tuy nhiên, cho đến khi nào nắm rõ ý nghĩa tiềm ẩn sâu thẳm bên trong những gì được nói ra hay được biểu thị, chúng ta mới thực sự bắt đầu tiếp nhận giáo huấn của Đức Phật một cách chính xác.

Sóng vxoá du chân không

Bng dưng thuyn đã sang sông ti bờ.

Tu vin Thượng Hnh mùa đông 2019 Khi Thiên







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 152)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 229)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 256)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 288)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 569)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 562)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 500)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 638)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 653)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 744)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 564)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 551)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 559)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 679)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 726)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 766)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1317)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 870)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1032)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 797)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1018)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 929)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1072)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1325)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 920)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 908)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1358)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1106)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1469)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1356)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1348)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1349)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1175)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1214)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1579)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant