Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thấy Tháp Đa Bảo

04 Tháng Mười Một 202119:34(Xem: 3993)
Thấy Tháp Đa Bảo

Thấy Tháp Đa Bảo

Nguyễn Thế Đăng

Đức Phật A-di-đà

 











 
1. Tháp Đa Bảo

“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.

Từ xa xưa cho đến ngày nay, con người luôn luôn đi tìm chính mình, một cái gì vượt khỏi sống chết, đi tìm cánh cửa bất tử để thấy sau cánh cửa bất tử ấy cái chính mình thật sự là gì. Phật giáo có rất nhiều kinh điển, rất nhiều con đường đáp ứng cho nhu cầu tâm linh tối hậu ấy. Chính vì thế mà Phật giáo vẫn còn nơi trái đất này, khi tất cả những nhu cầu vật chấtý thức ngày nay đều được nền văn minh đáp ứng hầu như hoàn hảo.

Một ẩn dụ về thực tại tối hậu ấy là tháp Đa Bảo trong phẩm Hiện Bửu tháp, kinh Pháp Hoa. Đa Bảo là nhiều thứ quý báu, đó là Phật tánh mà mỗi chúng sanh đều có, hiện nằm trong tâm địa của chúng sanh. Trong phẩm này, Phật tánh ấy xuất hiện một cách hữu hình, cụ thể, để con người có thể nhìn thấy hoàn toàn, hầu ngộ và nhập.

Nơi nào có nói kinh Pháp Hoa, có tâm thức hướng đến sự thật của kinh Pháp Hoa thì tháp của Phật Đa Bảo xuất hiện:

“Trong cõi nước mười phương, bất cứ chỗ nào nói kinh Pháp Hoa, thì tháp của Phật Đa Bảo vì để nghe kinh mà vụt hiện ra trước mặt… Trong tháp có toàn thân Phật Đa Bảo”. (Phẩm Hiện Bửu tháp, thứ 11).

Bất cứ lúc nào, chỗ nào mà kinh Pháp Hoa được nói, có sự hiện diện sống động của kinh Pháp Hoa trong tâm thức, chỗ ấy lúc ấy có sự xuất hiện của tháp Đa Bảo với toàn thân Như Lai. Lúc nào, nơi nào có sự tin hiểu Pháp Hoa (phẩm Tín giải, thứ 4), có ý thức Pháp Hoa, thời gian ấy và không gian ấy có tháp Đa Bảo với toàn thân Như Lai hiện diện trước mặt.

Kinh diễn tả tháp Đa Bảo như sau:

“Lúc bấy giờ trước Phật có tháp bằng bảy báu, cao năm trăm do-tuần, ngang rộng hai trăm năm mươi do-tuần, từ dưới đất vọt lên trụ giữa không trung, được trang nghiêm bằng đủ các vật báu, năm nghìn bao lơn, ngàn muôn phòng ốc, vô số tràng phan, chuỗi ngọc, linh báu. Bốn mặt bay mùi hương chiên đàn đầy khắp thế giới”.

Tháp Đa Bảo từ dưới đất vọt lên nghĩa là tháp báu đã có sẵn trong tâm địa, đất tâm của chúng sanh, chỉ chờ tâm thức bắt đầu thấm nhuần ý thức Pháp Hoa bèn vọt lên trụ giữa hư không cho mọi người được thấy.

Bảy báu là bảy đại: đất, nước, gió, lửa, không, thức, kiến. Khi thành Phật như Phật Đa Bảo  thì bảy đại trở lại bản tánh thanh tịnh của chúng, tức là bảy báu. Cao năm trăm do-tuần là năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức. Ngang rộng hai trăm năm mươi do-tuần là hai mươi lăm cõi hữu. Tất cả những yếu tố tạo ra sanh tử luân hồi trong thật tướng của chúng là thanh tịnh, quý báuthiêng liêng. Tóm lại, tháp Phật Đa Bảopháp giới được thu nhỏ lại và nói lên sự thật “đã thành Phật từ lâu xa”.

Bảy đại, năm uẩn, hai mươi lăm cõi là tất cả vũ trụ, pháp giới. Tất cả pháp giới là tháp Phật Đa Bảo, với tất cả những trang nghiêm quý báu, âm thanh, mùi hương, ánh sáng. Pháp giới là tháp Phật Đa Bảo và mỗi sự vật trong pháp giới đều là tháp Phật Đa Bảo.

Trong tháp Đa Bảo, không chỉ có Phật quá khứ Đa Bảo, mà còn có cả Phật hiện tại Thích-ca “chia nửa tòa ngồi”. Trong tháp Đa Bảo hay trong pháp giới, chỉ có Phật thông suốt khắp cùng cả ba thời. Trong tháp Đa Bảo hay trong pháp giới, quá khứhiện tại, chỉ có hiện tại trùm khắp ba thời.

“Lúc bấy giờ cõi Ta-bà liền biến thành thanh tịnh, lưu ly làm đất, bảy báu trang nghiêm… tất cả thông làm một cõi nước Phật”.

Tất cả thời gian, không gian, các đại, các uẩn, các cõi, thông làm một cõi nước Phật, và Phật quá khứ thành một với Phật hiện tại. Sự việc tất cả thành một vị Phật tánh này được gọi là pháp giới Nhất Chân. Tất cả đều là một vị Phật tánh, nghĩa là đều “đã thành Phật từ lâu xa”.

Trong pháp giới Nhất Chân này, không có thời gian một bên không gian một bên, vật chất một bên tinh thần một bên, vật một bên tâm một bên, cái thiêng liêng cao cả một bên cái thấp kém trần tục một bên, sanh tử một bên Niết-bàn một bên. Tất cả đều là một pháp giới Nhất Chân.

“Khi ấy chư Phật đều ngồi kiết già trên tòa, như thế đầy khắp cả thế giới tam thiên đại thiênphân thân của Phật Thích-ca ở một phương vẫn chưa hết”.

Phật đầy khắp cả thế giớithế giới vẫn chưa thể chứa hết. Nói cách khác, pháp giới thì đầy đặc Phật từ thế giới rộng lớn cho đến những vi trần và khoảnh khắc sát-na.

Một câu chuyện về tháp Đa Bảo: Đại sư Nhật Liên (1222-1282) là người sáng lập Nhật Liên tông Nhật Bản dựa trên kinh Pháp Hoa. Khi bị vua đày ra đảo và cho người ra ám sát, ngài nói với người cầm kiếm, “Tháp Đa Bảo là ông, và ông là tháp Đa Bảo. Loại trừ ông ra, ta không có tháp Đa Bảo”. Người ấy bèn buông kiếm, xin làm đệ tử của ngài.

Thấy mọi người, mọi vật là tháp Đa Bảo, đây là cái thấy biết của thành tựu giả Pháp Hoa.
2. Làm thế nào để thấy tháp Đa Bảo

Tháp Đa Bảo ở nơi tâm địa, nơi nền tảng của tâm, cho nên để thấy nó, tâm phải trở về bản tánh nền tảng của nó. Bản tánh nền tảng của tâm chính là tánh Không, cho nên khi tâm trở về nền tảng tánh Không của nó, thì sẽ thấy tháp Đa Bảo trụ giữa hư không.

Việc đưa tâm trở về bản tánh Không của nó để thấy thực tại tối hậu được nói trong các kinh, như kinh Kim Cương nói, “Thấy tất cả tướng chẳng phải là tướng, tức thấy Như Lai”.

Một vị Phật muốn đem toàn thân Như Lai trong tháp Đa Bảo chỉ bày cho bốn chúng, phải nhóm lại các phân thân, tức là các Hóa thân, tại chỗ ấy. nghĩa là phải gom tất cả Hóa thân về Pháp thân thì toàn thân Như Lai mới hiển lộ hoàn toàn. Gom tất cả Hóa thân là gom tất cả thức, căn, trần đang chiếu hiện nơi thế giới về trở lại Pháp thân, thì với thần lực trọn vẹn ấy mới: “dùng ngón tay phải mở cửa tháp báu, thấy toàn thân Phật Đa Bảo”.

Sau đó Phật Đa Bảo quá khứ chia nửa tòa ngồi với Phật Thích-ca hiện tại, và tất cả đại chúng đã được đưa lên hư không đều thấy Phật là bình đẳng, đồng nhất trong suốt cả ba thời. Nói cách khác, tất cả ba thời chỉ là một Phật không phân cách. Toàn thân Như Lai lúc ấy không chỉ là toàn thân Như Lai Đa Bảo, mà là toàn thân của tất cả Như Lai.

Gom tất cả phân thân là gom tướng trở về tánh, về Một Tướng Vô Tướng, khi ấy Ba thân Phật là một, không tách rời; đây là toàn thân Như Lai. Pháp thântánh Không, Báo thânHóa thân là tất cả tướng từ Pháp thân lưu xuất. Gom được các tướng về Pháp thân tánh Không thì các tướng trở thành chính Pháp thân thanh tịnh. Các tướng không biến mất mà hiển hiện một cách thanh tịnh trong Pháp thân tánh Không. Không và sắc không loại trừ nhau. Không là nền tảng của sắc, và sắc là biểu hiện của Không, như kinh Bát-nhã nói, “sắc tức là Không, Không tức là sắc”.

Pháp thântánh Không, đây là Chân Không. Báo thânHóa thân thuộc về sắc tướng, đây là Diệu Hữu. ba thân là một tức là Chân Không Diệu Hữu.

Xoay tất cả hiện hữu trở về Nhất Tâm, khi ấy người ta tin hiểu điều nói trong kinh Hoa Nghiêm: “Tâm, Phật, chúng sanh; cả ba không sai khác”.

Tóm lại, để thấy được thực tại Chân Không Diệu Hữu được biểu trưng bằng tháp Đa Bảo với toàn thân Như Lai trong đó, trước hết cần có niềm tin. Tin chính là “thần lực Như Lai đưa đại chúng lên hư không và ở tại đó”.

Thứ hai, để ở được giữa hư không, tâm chúng ta phải trụ nơi tánh Không như hư không. Và thứ ba, chúng ta phải gom tất cả cuộc sống của mắt tai mũi lưỡi thân ý về một chỗ Nhất Tâm rỗng rang như hư không ấy.

Thấy được thực tại Chân Không Diệu Hữu tức là có thể “thọ trì, đọc tụng, biên chép, cúng dường, giảng nói” kinh Pháp Hoa.

Người trì được kinh này
Thời là đã thấy ta
Cũng thấy Phật Đa Bảo
Và các Phật phân thân…
Người trì được kinh này
Nơi nghĩa của các pháp
Danh tựngôn từ
Ưa nói không cùng tận
Như gió trong hư không
Tất cả không chướng ngại.
(Phẩm Như Lai thần lực, thứ 21)

(Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 247)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 164)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 201)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 225)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 290)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 206)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 255)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 340)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 304)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 304)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 383)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 614)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 476)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 484)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 579)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 753)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 837)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 858)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 845)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 737)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 711)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 814)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 833)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 941)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 717)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 617)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 714)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 825)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 718)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 708)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 825)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 851)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 827)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 864)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 902)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 887)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1085)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 953)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1672)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1066)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1211)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 956)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1215)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1116)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1123)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1280)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1559)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2034)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1096)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1354)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1097)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 947)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1065)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1100)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1535)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1287)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1293)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1025)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant