Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Từ Một Dịch Ngữ Của Ngài Đàm-vô-sấm Nghĩ Đến Vấn Đề Hòa Nhập Mà Không Hòa Tan.

04 Tháng Mười Hai 202120:13(Xem: 3573)
Từ Một Dịch Ngữ Của Ngài Đàm-vô-sấm Nghĩ Đến Vấn Đề Hòa Nhập Mà Không Hòa Tan.

Từ Một Dịch Ngữ Của Ngài Đàm-vô-sấm
Nghĩ Đến Vấn Đề Hòa Nhập Mà Không Hòa Tan.


Chúc Phú

Có Vinh Thì Có Nhục

 

Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1]. Do gặp phải vương nạn Thư Cừ Mông Tốn (沮渠蒙遜), nên thọ mạng của ngài chưa tới năm mươi[2]. Tuy nhiên, theo ghi nhận qua các bộ Kinh lụcthực tế khảo sát của chúng tôi, với số lượng dịch phẩm phung phú[3], cũng như chất lượng bản dịch của ngài, đã cho thấy khả năng vận dụng nhuần nhuyễn những yếu tố Nho học và cả Đạo học trong quá trình chuyển tải nghĩa lý Phật kinh.

Trong nhiều dịch ngữ cô đọng và đặc thù của ngài Đàm-vô-sấm, chúng tôi chọn một đoạn trong kinh Đại bát Niết-bàn (大般涅槃經)[4] do ngài phiên dịch để làm rõ ý nghĩa vừa nêu. Đoạn kinh này không những có mối thừa tiếp với Đạo học của Lão Tử mà còn có những liên hệ gần như trùng khớp với phong cách ứng xử của một bậc bậc cao tăng đương đại, thậm chí còn có thể vận dụng linh động vào hiện tình sinh hoạt của Phật giáo ngày nay nói chung.

Kinh ghi:

Này người Thiện nam! Như Lai từng nói: Lúc chánh pháp diệt, chánh giới hủy hoại, kẻ phá giới tăng thêm, việc phi pháp càng nhiều, tất cả Thánh nhân ẩn cư không hiện, [chúng tăng] nhận nuôi tôi tớ, chứa vật bất tịnh. Bấy giờ, trong bốn hạng người, sẽ có một người xuất hiện ở đời, cạo bỏ râu tóc, xuất gia hành đạo, thấy các Tỳ-kheo nhận nuôi nô tỳ, tôi tớ, chứa vật bất tịnh mà lại không biết tịnh hay bất tịnh, lại cũng không biết đúng hay trái luật. Vì muốn điều phục các Tỳ-kheo đó, thế nên vị ấy đã cùng hòa nhập nhưng không để nhiễm ô. Vị ấy khéo léo phân biệt biết rõ hành xứ của mình và hành xứ của Phật, tuy thấy những người đó phạm Ba-la-di[5] nhưng vẫn im lặng mà không cử tội. Vì sao như vậy? [Vì vị ấy nghĩ rằng]: “Ta xuất hiện nơi đời vì muốn kiến lậphộ trì Chánh pháp”, thế nên vị ấy im lặng mà không cử tội. Này người Thiện nam! Những người như thế tuy có sai phạm nhưng vì hộ trì chánh pháp nên không thể gọi họ là người phá giới. (Trung tâm dịch thuật Trí Tịnh, dịch).

Điều đặc biệt kỳ thú ở đoạn kinh nêu trên chính là dịch ngữ: Cùng hòa nhập nhưng không để nhiễm ô. Nguyên tác kinh văn là: Dữ cộng hòa quang bất đồng kỳ trần (與共和光不同其塵).

Theo khảo sát, dịch ngữ này vốn lưu xuất từ một mệnh đề nằm trong tác phẩm Đạo đức kinh (道德經), của Lão Tử (老子), Chương thứ tư: Vô nguyên (無源第四) với nguyên tác là: Hòa kỳ quang, đồng kỳ trần (和其光,同其塵). Mệnh đề này được dịch giả Nguyễn Duy Cần dịch là: Điều hòa ánh sáng, đồng cùng bụi bặm và cũng được Lý Minh Tuấn dịch là: Hoà với ánh sáng, đồng với bụi bặm.

Với ngài Đàm-vô-sấm, từ một mệnh đề mang tính phổ biến trong Đạo đức kinh nhưng việc lược bỏ đi đại từ (其), thêm trạng từ (與共) và một phủ định từ (不), trong khi chuyển dịch kinh Đại bát Niết-bàn, đã thể hiện trí tuệ kiệt xuất, văn thể tài hoa nhằm đặc tả hạnh nhập thế của hàng Bồ-tát. Ý kinh này có những liên hệ tương đồng với lời Phật dạy trong kinh Dhammika, thuộc kinh Tập (Sn.14): Bhikkhu yathā pokkhare vāribindu (Tỳ-kheo như giọt nươc./ Không dính trên lá sen. HT. Thích Minh Châu, dịch).

Thái độ sống tích cực Cùng hòa nhập nhưng không để nhiễm ô (與共和光不同其塵) của kinh Đại bát Niết-bàn còn được một bậc cao tăng của Phật Giáo Trung Quốc đương đại, là ngài Thánh Nghiêm (1930-2009) mặc nhiên vận dụng. Theo Thánh Nghiêm tự truyện[6], trong giai đoạn đầu của quãng đời tu tập, ngài đã sống trong một ngôi tự viện mang tên Đại Thánh Tự, do chiến tranh, loạn lạc, đói kém… nên phải sống chung cùng với nhiều thành phần bất hảo và phải đối diện với bao điều phi pháp diễn ra hằng ngày…Tự truyện ghi: Có nhiều thanh niên trẻ, mang hình tướng tu sĩ, họ học thức cao, có tài, thông minh (dung mạo dễ nhìn) cùng đổ xô tới Thượng Hải và ngụ tại Đại Thánh Tự. Họ tán tụng nhuần nhuyễn, giỏi giang. Nhưng họ không phải là tu sĩ chân chánh[7]… Cũng theo Tự truyện, từ đó đã xảy ra những điều bất hạnh trong ngôi Đại Thánh Tự như nạn nghiện hút, chuyện nam nữ, tranh giành đám xá…Quả là khổ nạn đối với một người sơ phát tâm khi phải sống trong môi trường như vậy, nhưng tâm tư của ngài Thánh Nghiêm không hề dao động và đã thể hiện bản lĩnh của riêng mình: Tôi hiểu rõ điều này, mặc dù thời đó tôi không diễn đạt lý tưởng riêng, song tôi hoàn toàn không muốn sống giống họ[8].

Có thể nói, từ lời Phật dạy được tóm lược trong kinh Đại bát Niết-bàn: Hòa quang bất đồng kỳ trần (和光不同其塵) qua bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm và lời dạy của Lão Tử trong Đạo đức kinh: Hòa kỳ quang, đồng kỳ trần (和其光,同其塵) tuy chỉ khác biệt một vài chữ nhưng nghĩa lý cách xa nhau muôn dặm.

 Trong thực tế ngày nay, khi đạo đức của nhân loại nói chung đang có những biểu hiện suy giảm, đã tác động đến nhiều lãnh vực của xã hội mà trong đó có cả Phật giáo, thì dịch ngữ của ngài Đàm-vô-sấm từ bản kinh Đại-bát Niết-bàn, có thể được vận dụng như một thái độ sống nhu nhuyến, hiệu năngtích cực trong bất kỳ mối quan hệ nào.

 

 



[1] Ngài Ấn Thuận (印順: 1906-2005) trong Hoa Vũ Tập 華雨集 (T.28.0028.4. 0213a09) đã ghi nhận: Có một sự thật trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm chính là môt bậc đại sư dịch kinh trác việt (一事實中國佛教史上曇無讖 (Dharmarakṣa) 是一位卓越的大譯師).

[2] Thư Cừ Mông Tốn (沮渠蒙遜:368-433) bề ngoài ủng hộ Phật giáo, nhưng thực chất ông ta lợi dụng Phật giáo nhằm thực hiện những mưu đồ chính trị của mình. Điều đó chứng tỏ ở chỗ, mặc dù ủng hộ và hậu đãi ngài Đàm Vô Sấm (曇無讖: 385-433), nhưng khi biết tin ngài Đàm Vô Sấm trở về Tây Vức vào năm thứ mười niên hiệu Nguyên Gia (433), vì sợ ngài làm lộ bí mật quân cơ, nên Thư Cừ Mông Tốn đã sai thích khách giết hại, khi ấy ngài Đàm Vô Sấm chỉ mới 49 tuổi. Trong sự kiện này, thực chất ngài Đàm Vô Sấm chỉ muốn trở về Tây Vức để tìm phần còn lại của kinh Đại-bát Niết-bàn. Xem tại, Cao Tăng truyện 高僧傳 (T.50.259.2. 0335c16).

[3] Theo ghi nhận của ngài Trí Thăng (智昇) trong Khai Nguyên Thích Giáo Lục 開元釋教錄 (T.55. 2154.4. 0520a18) thì ngài Đàm-vô-sấm phiên dịch được mười chín bộ kinh, gồm 131 quyển.

[4] Đại bát Niết-bàn kinh 大般涅槃經 (T.12. 0375.8. 640b10-640b22)

[5] Ba-la-di (波羅夷): Bất cộng trụ pháp, tức bốn tội trọng. Vị tỳ-kheo phạm vào tội Ba-la-di thì phải trục xuất, không còn được sống chung với các Tỳ-kheo khác. Bốn tội Ba-la-di của tỳ-kheo là: 1. Đại dâm giới; 2. Đại đạo giới; 3. Đại sát giới; 4. Đại vọng ngữ giới. Tham chiếu: Ma-ha tăng kỳ luật 摩訶僧祇律 (T.22. 1425.38. 0535a27).

[6] Thánh Nghiêm tự truyện, Hạnh Đoan biên dịch, NXB. Phương Đông, 2010.

[7] Thánh Nghiêm tự truyện, Hạnh Đoan biên dịch, NXB. Phương Đông, 2010, tr.85.

[8] Thánh Nghiêm tự truyện, Hạnh Đoan biên dịch, NXB. Phương Đông, 2010, tr.89.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 153)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 230)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 256)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 289)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 571)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 563)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 500)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 638)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 653)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 745)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 565)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 552)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 560)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 679)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 726)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 766)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1318)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 871)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1032)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 798)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1018)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 930)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1073)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1325)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 920)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 908)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1358)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1106)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1469)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1358)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1348)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1349)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1175)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1215)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1580)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant