Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (III)

30 Tháng Tám 202212:29(Xem: 1367)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (III)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (III)

Poster_Talkshow_09


TỘI BA-LA-DI KHÔNG THỂ SÁM HỐI THỜI PHẬT
VÀ BỐI CẢNH XÃ HỘI ĐƯƠNG THỜI

Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.

1. Tội dâm – nhận định trong thời Phật và liên hệ đến cuộc sống hiện tại:

Từ ngàn xưa cho đến nay, tình dục của con người có lẽ là một trở ngại lớn nhất đối với những ai đã lựa chọn con đường tâm linh tôn giáo. Trong Phật giáo, những tu nữ, hay tu nam nếu chưa chế ngự được nó vẫn là nỗi ám ảnh thường trực giữa ranh giới thanh tịnh, trinh khiết, độc thân, thủ dâm, mộng tinh, phạm giới… Trong bối cảnh nghiên cứu hiện tại, chúng ta không phê phán công kích những người bất tuân thủ quy tắc độc thân, mà ca ngợi sự thành công trong tôn giáo, bàn về nếp sống lý tưởng giải thoát trong tu viện.

Lâu nay, nhiều người bối rối không biết thái độ của Phật giáo đối với tình dục như thế nào khi điểm thiết yếu trong đời sống tu viện là luôn đề cao kiềm chế tình dục. Đạo Phật không bao giờ tránh nè đề tài này, trong Luật tạng đức Phật quy chế giới điều như một hình thức đề cập đến “Đạo đức tình dục”. Chúng ta thảo luận đến chuyện sám hối tội ba-la-di chính là nói đến môn học “Đạo đức” này.

Trước hết chúng ta phải hiểu vì sao tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni quan hệ tình dục là phạm ba-la-di, bị ngăn cấm tuyệt đối. Vì người xuất gia được gọi là Phạm hạnh. Phạm hạnh (梵行, Skt. brahma-caryā, P. brahma-cariya), từ này là một khái niệm trong các tôn giáo Ấn-độ (Indian religions) có nghĩa đenduy trì hạnh kiểm bên trong Bản ngã của chính mình (own SelfĀtman) và Ấn-độ giáo (Hinduism), Phật giáo (Buddhism) và Kỳ-na giáo (Jainism)… thường nói đến nó là đề cập một lối sống đặc trưng bởi sự kiềm chế tình dục hoặc kiêng cử hoàn toàn.[1] Riêng đối với Phật giáo, ham muốn khoái cảm (pīti) tình dục sẽ làm trở ngại thiền định (jhāna), phương hại đến con đường tâm linh tiến tới giác ngộ, cũng là nguyên nhân tiềm ẩn dẫn dắt cho sự tái sanh tiếp diễn.

Vì sao đức Phật không cho sám hối?

Trong luật các bộ phái ghi chép rằng, nếu tỳ-kheo quan hệ với các đối tượng như sau sẽ phạm ba-la-di: người nữ, thiếu nữ chưa đủ tuổi thành niên (đồng nữ, Skt. kumārīdārikā), súc sinh cái, súc sanh đực, phi nhân (không phải người, chỉ các loại trời, thần và tương tự. Pāli: amanussa.) nữ và nam; đồng tính nam (gays), đồng tính nữ (lesbians), trong luật gọi là nhị hình, hai căn (Nhị hình 二形, nhị căn 二根. Pāli: ubhatovyañjana, hermaphrodite, intersex); người bị hoạn (eunuch), nam căn không hoàn chỉnh, bất lực (Huỳnh môn 黃門, Vô căn 無根, bất năng nam 不能男, bán-trạch-ca 半擇迦, Skt. paṇḍaka, kaṇḍāka). Và quan hệ qua ba đường: đường tiểu tiện, đại tiện và miệng đều phạm ba-la-di. Hoặc tỳ-kheo khỏa thân quan hệ với người nữ mặc y phục, ngược lại; hoặc tỳ-kheo hành dâm với người nữ mới chết, người nữ điên v.v… đều phạm ba-la-di.[2] Đặc biệt luật Tăng-kỳ (p. 238a16) còn cấm cả việc tỳ-kheo đi mua dâm.

Những hình thức phạm tội trên luật bộ phái trình bày rất chi tiết, và từ đây cho chúng ta thấy rằng, sau khi tỳ-kheo Sudinna phạm giới đầu tiên, các tỳ-kheo tiếp tục phạm giới, tìm mọi cách tránh né với điều lệ ban đầu Phật quy định để quan hệ, cho rằng làm như thế sẽ không phạm giới. Hoặc nói cách khác cũng do tâm sinh lý và nghiệp của chúng sanh đa dạng nên mới có nhiều hình thức phạm giới phức tạp, càng lúc càng nhiều.

Đến đây chúng ta có thể đưa ra kết luận vì sao đức Phật không cho sám hối:

  1. Mục đích của tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni khi xuất gia, thọ giới cụ túc, là phải tu tập thành tựu giải thoát ngay trong đời này, mà ngay trong đời hiện tại họ không kham nỗi, nghiệp chướng nặng nề, tiếp tục để họ ở trong đạo không có ích lợi gì, buộc cho họ về nhà gieo trồng phước thiện đời sống cư sĩ.
  2. Khi Phật chế giới nhắm đến 10 ý nghĩa, trong đó có hai điều: Một, để cho tín đồ chưa có niềm tin sinh tín tâm; hai, đã có tín tâm thì được tăng trưởng.[3] Cho nên đối với Tăng bảo là đoàn thể thanh tịnh, là nơi quy ngưỡng tâm linh cho các tín đồ, cũng là dấu hiệu “Chánh pháp cửu trụ thế gian”. Nếu tỳ-kheo có đời sống hoen ố sẽ làm lung lay niềm tin nơi tín đồ, lòng mộ đạo của họ tất sụp đổ, tác động xấu đến đoàn thể Tăng.

2. Tội không cho mà lấy:

Đây là tội phạm liên quan đến hình sự. Giới văn trong các bộ luật ghi chép tương tự như nhau:

“Tỳ-kheo nào, nơi thôn xóm hay chỗ trống vắng (ngoài thôn), với tâm trộm cắp, lấy vật không được cho, tùy theo vật không được cho mà lấy, hoặc bị vua hay đại thần của vua bắt, hoặc giết, hoặc trói, hoặc đuổi ra khỏi nước, nói rằng ‘Ngươi là giặc, ngươi ngu si, ngươi không biết gì’, thì tỳ-kheo ấy là kẻ ba-la-di, không được sống chung.”[4]

Luật Thập tụng có thêm “hoặc bị định tội phạt vàng”[5], các bộ khác giống nhau.

Luật Thập tụng (p. 4a26), Căn bản (p. 637a3) kể rằng, sau khi tỳ-kheo Dhaniya bị buộc tội lấy gỗ của triều đình, đức Phật bảo A-nan vào thành Vương xá, thủ phủ nước Magadha, hỏi những người hiểu luật pháp, xem lấy trộm bao nhiêu sẽ bị vua Ajātaśatru xử đại tội. Luật Tứ phần (p. 573b3), Ngũ phần (p. 6a3), Pāli (Vin. iii. 45): Đức Phật hỏi một tỳ-kheo nguyên là đại thần tư pháp. Luật Tăng-kỳ (p. 242c19), đức Phật hỏi trực tiếp vua Bimbisāra.

Tứ phần, Ngũ phần, Thập tụng đều ghi, theo luật hiện hành của nước Magadha lúc bấy giờ, nếu trộm tối thiểu từ 5 tiền (五錢) trở lên, phạm trọng tội, có thể bị tử hình. Luật Căn bản (p. 637a9) dịch là 5 ma-sái (五磨灑, P. pañca-māsaka). Luật Tăng-kỳ (p. 242c22) nói: Một kế-lị-sa-bàn (罽利沙槃, Skt. kārṣāpaṇa) bằng 19 tiền, nếu lấy trị giá bằng ¼ kế-lị-sa-bàn sẽ xử tội chết.

Kārṣāpaṇa, là loại tiền cổ Ấn-độ, có từ thế kỷ thứ 6 trước Tl., lưu hành thời vua Bimbisāra (khoảng năm 492- 460 trước Tl.) và Ajātaśatru (552-520 trước Tl.). Kārṣāpaṇa chỉ cho những đồng tiền vàng, bạc và đồng nặng 80 ratis hoặc 146,5 hạt (grains).[6] Còn từ māsaka (Skt. māṣaka) là tên hạt đậu nhỏ, những người thợ kim hoàn thời ấy dùng nó để cân trọng lượng và tính giá trị vàng, bạc; hoặc tên một loại tiền giá trị nhỏ, 80 kaparda = 1 māsaka; 20 māsaka = 1 kārṣāpaṇa; 5 māsaka cũng bằng ¼ của kārṣāpaṇa. Do đó, tuy các bộ luật biên tập lại có hơi khác nhưng định mức phạm tội với giá trị số tiền giống nhau.

Theo luật pháp của Việt Nam hiện nay, căn cứ điều 174 trong Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở mục 4: a). Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, và b) lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, sẽ bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, hoặc tù chung thân. Vậy luận tội tỳ-kheo theo luật Việt Nam nói riêng vào thời điểm hiện nay thì tỳ-kheo trộm cắp, lừa gạt, biển thủ… số tiền từ năm trăm triệu đồng trở lên là phạm ba-la-di.

Tội trạng này vào thời Phật và xã hội hiện tại không thể cho tỳ-kheo sám hối với lý do như sau:

Câu văn: Bị vua, hay đại thần của vua bắt, hoặc bị trói, bị giết, bị đuổi ra khỏi nước, hoặc bị định tội phạt vàng. Và tuyên bố“Ngươi là giặc, ngươi ngu si, ngươi không biết gì.” Đây là một kiểu tòa án đã tuyên án, dựa trên cơ sở chứng cứ với tội danh ăn trộm và căn cứ đánh giá tài sản bị thiệt hại, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội với xã hội, rồi đưa ra phán quyết hình sự: bị trói, bị giết, bị đuổi khỏi nước, bị phạt vàng.

Nếu xét trong thời Phật và xã hội đương thời, một khi tỳ-kheo bị bắt, giới thể tỳ-kheo ấy đã mất lại bị nhốt trong tù nữa, thì tu thế nào mà giải quyết sám hối. Trường hợp cụ thểViệt Nam, có một tỳ-kheo đã lừa gạt Phật tử lấy 68 tỷ đồng, trong năm 2020 thầy này bị trục xuất khỏi Tăng đoàn và bị chính quyền bắt cùng năm đó. Cho nên không có pháp sám hối dành cho tội trạng này. Có trường hợp ngoại lệ, nhiều tỳ-kheo lấy tiền của Tam bảo vượt “ngưỡng cửa” năm trăm triệu, bị phát hiện, nhà chùa giữ thể diện cho họ, âm thầm trục xuất ra khỏi chùa. Những vị này dù đi nơi khác tu tập, giới thể của tỳ-kheo cũng không còn.

Chúng tôi rộng bàn thêm về từ “bị giết”, các bản Hán khi truyền dịch hiểu nhầm chữ Phạn: Hanyāt, Pāli: Haneyyuṃ, có nghĩa là bị hành hạ, bị gây tổn hại, lại hiểu rằng: 5 tiền là mức giá trị để xử tử tội ăn trộmtỏ ra không thắc mắc gì khi dịch thành “bị giết, bị xử tử.”[7] Luật Pāli (Vin. 3. 47) định nghĩa như sau: “Bị hành hạ”, là họ có thể bị hành hạ bằng tay, hoặc bằng chân, hoặc bằng roi, hoặc bằng hèo, hoặc bằng gậy, hoặc tra khảo cho tàn phế (Haneyyuṃ vā ‘ti hatthena vā pādena vā kasāya vā vettena vā addhadaṇḍakena vā chejjāya vā haneyyuṃ).[8]

Do đó bản án xử tội trộm cắp ở mức độ nghiêm trọng nhất vẫn ở khung hình phạt chung thân. Chỉ ở Trung Quốc vào năm 2015, một người bị bắt với tội danh “đào bới các di tích văn hoá cổ và mộ cổ”, bị tuyên án tử hình mà thôi.[9]

(Còn tiếp)


Mùng 9 tháng 7 năm Nhâm dần

Cittacakkhu


[1] Cf. https://en.wikipedia.org/wiki/Brahmacharya.

[2] Thập tụng 1, p. 2c21. Ngũ phần 1, p. 5a1. Tứ phần 1, p. 571c10. Tăng-kỳ 1, p. 233c3…

[3] Ngũ phần p. 3c1; Tăng-kỳ p. 228c24; Tứ phần p. 570c3; Thập tụng p. 1c15; Pāli, Vin. iii. p. 32.

[4] Tứ phần p. 573b8; Ngũ phần p. 6a16; Thập tụng p. 4a29…

[5] Thập tụng (p. 4b2): Thâu kim tội 輸金罪.

[6] https://en.wikipedia.org/wiki/Karshapana.

[7] Cf. Tứ phần hiệp chú, HT. Trí Thủ & Tuệ Sỹ biên soạn: Ch. Ba-la-di, điều 2. Bất dữ thủ.

[8] Cf.《經分別》卷1, N01, no. 1, p. 61a4.

[9] https://cand.com.vn/Ho-so-interpol-cstc/An-tu-cho-vua-trom-mo-cua-Trung-Quoc.


Xem:
– Phần I
– Phần II

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1183)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1651)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1585)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1498)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1086)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1477)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1415)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1336)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1392)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1717)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1982)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1438)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1096)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1430)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2036)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1479)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1565)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1394)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2918)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1379)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1413)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1734)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1685)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1636)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1480)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2646)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1609)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1616)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1409)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1428)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1617)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1572)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1449)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1438)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1524)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2207)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1555)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1516)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1633)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1848)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1540)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1421)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1677)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1426)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1720)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2395)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1478)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1966)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1685)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1765)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1624)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1958)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1690)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1445)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1736)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1586)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1557)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1340)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1256)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1303)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant