Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật TánhSức Mạnh Của Nhân Loại

31 Tháng Ba 202318:49(Xem: 1482)
Phật Tánh Là Sức Mạnh Của Nhân Loại

Phật TánhSức Mạnh Của Nhân Loại

Nguyễn Thế Đăng

Đức Phật Cũng Cạo Tóc Như Những Tỳ-kheo Khác

 

Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần. Đó là chiều hướng tiến hóa của nhân loại. Tiềm năng để tiến hóa và đích đến cuối cùng của sự tiến hóa được đạo Phật gọi là Phật tánh.

Ở đây chúng ta sẽ nêu ra một số điểm để nhìn thấy viễn cảnh của sự tiến hóa của loài người trong liên hệ với Phật tánh như thế nào.

 

1/ Sự bình đẳng

Phật tánh vốn có nơi mỗi chúng sanh là sự bình đẳng tuyệt đối, bình đẳng giữa người với người và giữa con người với Phật, tức là bậc đã phát triển, phát huy hoàn toàn Phật tánh ấy.

Kinh Đại Bát Niết Bàn nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Phật tánhthực tại có sẳn nơi mỗi chúng sanh, chỉ do những phiền não do chúng sanh tự tạo lập mà bị che chướng. Ngay cả những phiền não này cũng là tạm thời, có sanh ra thì có diệt mất, cho nên người ta có thể xóa bỏ chúng như xóa bụi trong tấm gương.

Con đường theo Kinh Pháp Hoa là Khai (Mở ra), Thị (Chỉ cho thấy), Ngộ (Kinh nghiệm thấy), Nhập (Đi sâu vào thực tại) nói lên Phật tánhthực tại vốn có, chẳng phải Thượng Đế nào tạo ra rồi trao cho những chúng sanh nào mà ngài ưng ý. Đây là sự bình đẳng tuyệt đốimọi người vốn có.

 

2/ Cái thấy tất cả là một

Phật tánh bao gồm và hợp nhất trí huệ và từ bi. Trí huệ hiểu câu “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh” là tất cả chúng sanh đồng một Phật tánh, dù trên mặt hình tướng có sự khác biệt do những hành động, những việc làm (nghiệp, karma) tốt xấu khác nhau. Như tất cả các làn sóng cao thấp, màu sắc, mạnh yếu khác nhau, nhưng trong bản tánh tất cả chúng đồng là đại dương.

Với cái thấy ấy dù còn lâu xa mới hoàn hảo, đời sống không còn bị chia cắt, tách lìa và đưa đến xung đột, chiến tranh. Thân khẩu ý mỗi người mỗi khác nhưng xuất hiện trên cùng một nền tảng là Phật tánh. Phật tánh là nền tảng nối kết được con người với con người, con người với thiên nhiênthế giới.

 

3/ Từ bi

Lòng yêu thương đưa con người lại gần nhau và có thể kết hợp với nhau như trong cuộc sống vợ chồng. Nhưng lòng yêu thương khởi phát từ và hoạt động trong một thân khẩu ý hữu hạn thì bị giới hạn.

Lòng yêu thương đặt nền trên nền tảng Phật tánh phổ quát thì mở rộng ra đến vô hạn và do đó có thêm những đức tính khác như hỷ, xả. Thế nên yêu thương (từ), thương xót (bi), và vui vẻ (hỷ), không cố chấp, tha thứ (xả) là bốn tâm vô lượng, nói theo đạo Phật.

Xã hội và rộng ra, thế giới, sống trong bốn tâm vô lượng này thì đây là một thế giới hòa bình, hạnh phúc, điều mà nhân loại vốn luôn luôn mong mỏi nhưng luôn luôn gặp điều ngược lại là ghét bỏ, thù hận, chiến tranh.

 

4/ Hướng đến tiến bộ của con người

Sự tiến bộ của loài người luôn luôn hướng đến cái đúng hơn, thật hơn (Chân), cái tốt lành hơn (Thiện) và cái cao đẹp hơn (Mỹ). Phật tánh là ba cái đó và còn những đức tính khác nữa. Theo kinh Đại Bát Niết Bàn thì Phật tánh là Thường (luôn luôn có mặt trong mọi không gian thời gian), Lạc (hạnh phúc, an vui), Ngã (bản tánh không bị biến đổi do điều kiện), và Tịnh (trong sạch, không bị nhiễm dơ bởi phiền não, khổ đau). Nói cách khác, Phật tánhmục đích tối hậu của con người để con người và cuộc sống trở nên hoàn hảo, không khuyết điểm, không hư hỏng, uổng phí. Phật tánhvinh quang tối hậu của mỗi con người.

Nhưng Phật tánh không chỉ là mục đích tối hậu của con người, mà Phật tánh còn có mặt ở điểm khởi hành, là động lực cho con người tiến bộ trên con đường. Phật tánh chính là con đường đưa con người đến sự toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ của chính con người. Con đường ấy không phải ở ngoài con người, do ai đem đến mà nó đã có sẳn theo dạng tiềm năng nơi mỗi người, và cuộc đời mỗi người là sự bước đi trên con đường hoàn thiện vốn ở nơi mình ấy.Càng đi trên con đường Phật tánh, người ta càng ngày càng mãn nguyện hơn, hạnh phúc hơn, vì nó đưa chúng ta đến gần với nhân loại hơn, với sự vật và thiên nhiên thế giới bên ngoài hơn. Vì Phật tánh là của mỗi người, đồng thời là của tất cả.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 48)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 179)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 214)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 231)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 297)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 213)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 261)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 369)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 336)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 315)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 408)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 631)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 493)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 498)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 598)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 761)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 859)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 870)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 856)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 747)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 721)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 725)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 823)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 845)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 947)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 731)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 624)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 721)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 835)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 726)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 719)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 835)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 863)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 834)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 884)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 913)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 905)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1109)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 968)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1691)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1079)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1216)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 960)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1222)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1126)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1137)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1294)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1578)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2048)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1111)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1364)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1107)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 961)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1071)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1110)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1541)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1299)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1303)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1034)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant