Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tôn giả Da Xá

22 Tháng Hai 201100:00(Xem: 17397)
Tôn giả Da Xá

MƯỜI VỊ ĐỆ TỬ LỚN CỦA PHẬT 
Nguyên tác Hán Văn: Tinh Vân Pháp Sư - Việt dịch: Cư Sĩ Hạnh Cơ
biên soạn phần Phụ Lục - Hiệu đính: Nữ Cư Sĩ Tịnh Kiên
Chùa Liên Hoa, Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County xuất bản 2005

PHỤ LỤC
(Do cư sĩ Hạnh Cơ biên soạn thêm)

Tôn giả DA XÁ

(Yasa)(Người thanh niên đầu tiên xuất gia theo Phật và trở thành vị thánh tăng thứ sáu của tăng đoàn)

 

Sau khi hóa độ cho năm vị tì kheo nhóm Kiều Trần Như đều chứng được quả thánh, đức Phật vẫn cư trú tại vườn Lộc Uyển để tiếp tục hướng dẫn họ cho thật vững vàng trong việc hành đạo.

Một buổi sáng sớm, khi đang đi thiền hành dọc theo bờ sông, đức Phật bỗng thấy một chàng thanh niên đang từ xa đi lại. Ngài liền ngồi xuống trên một tảng đá. Chàng thanh niên có vẻ như đang hốt hoảng, tâm thần bất định. Chàng đã tới gần tảng đá Phật đang ngồi mà vẫn không thấy Phật, miệng cứ lẩm bẩm: “Thật là đáng sợ! Thật là ghê tởm!”. Ngài liền lên tiếng: “Nơi đây không có gì đáng sợ. Nơi đây không có gì đáng ghê tởm. Hỡi này chàng trai trẻ! Hãy đến đây! Hãy ngồi xuống dây, Như Lai sẽ giảng giáo pháp cho con.

Chàng thanh niên giật mình đứng lại, định thần nhìn kĩ, thì thấy Phật đang ngồi trên tảng đá, dáng vẻ thật thảnh thơi, ung dung, trầm tĩnh. Bị chinh phục hoàn toàn bởi giọng nói và dáng vẻ ấy của Ngài, chàng liền cởi bỏ giày ra, đến trước Phật, lạy xuống và ngồi lại một bên. Hỏi ra thì chàng chính là Da Xá, con của một vị trưởng giàu có vào bậc nhất nhì ở thành Ba La Nại (Varanasi - Baranasi). Da Xá đã sinh ra và lớn lên trong khung cảnh giàu sang, đầy xa hoa nhung lụa. Cha mẹ cưng chiều, đã cấp cho chàng các phương tiện cao sang để hưởng một cuộc sống đầy đủ những thú vui vật chất. Bỗng một hôm, sau một buổi tối vui chơi thỏa thích cùng bạn bè, có ăn uống, đàn địch, múa hát, gái đẹp, chàng đã thức dậy thật sớm vào lúc nửa khuya. Nhìn thấy cảnh tượng các vũ nữ, các nàng hầu thiếp của chàng nằm ngủ ngổn ngang bừa bãi, phơi bày những chân tướng không đẹp đẽ gì của họ, chàng bỗng thấy lợm giọng. Chàng thấy ghê tởm cuộc sống trác táng của chàng bấy lâu. Chàng cảm thấy sợ sệt những cám dỗ của vật chất hèn hạ. Nhà cao cửa rộng, châu báu bạc tiền, gái đẹp hầu xinh, đối với chàng lúc bấy giờ, chỉ là những hình ảnh xấu xa, những hang tối buồn thảm, những quỉ ma phá hoại. Chàng nhờm chán, không còn cảm thấy lạc thú gì để tiếp tục sống trong khung cảnh ấy nữa. Bởi vậy, tuy trời vẫn còn tối đất, chàng đã khoác áo bỏ nhà trốn đi. Với tâm trạng ghê tởm, kinh sợ và đau khổ, chàng cứ bước đi mà không định sẽ đi về đâu. Một cách tình cờ, chàng đã đi về hướng vườn Lộc Uyển, và được gặp Phật.

Biết rõ tâm ý của Da Xá, Phật đã giảng cho chàng nghe về giới hạnh, về những tai hại của năm dục, về phước đức cao quí của sự xuất gia ... Dần dần Ngài đạy đến giáo lí Bốn Sự Thật. Da Xá vốn là một chàng trai thông minh, tâm ý lại đang có sự thay đổi thuận tiện, nên chàng đã tiếp thu một cách mau lẹ và trọn vẹn tất cả những lời Phật dạy. Chàng cảm thấy sung sướng và phấn khởi vô cùng; trái ngược hẳn với tâm trạng sầu khổ, tuyệt vọng của chàng vừa mới trước đó. Chàng liền quì xuống dưới chân Phật, và xin làm đệ tử xuất gia của Ngài. Đức Phật chấp thuận, giới thiệu chàng với năm vị tì kheo đệ tử của Ngài, rồi giao chàng cho tôn giả Kiều Trần Như để xuống tóc, khóac y và chỉ dạy cho nếp sống căn bản của đời sống xuất gia.

Chiều hôm đó, khi thân phụ của Da Xá đi tìm con, đến vườn Lộc Uyển gặp Phật, cũng được Phật hóa độ. Lúc đó Da Xá đứng hầu sau lưng Phật, nghe Phật giảng pháp cho thân phụ, tức thì, Da Xá chứng quả A la hán; trở thành vị đệ tử tì kheo thứ sáu chứng quả thánh của Phật từ sau ngày Ngài thành đạo.

Tin Da Xá xuất gia theo Phật được loan truyền mau chóng đến các bạn hữu. Một hôm, bốn người bạn thân nhất của tôn giả tìm đến vườn Lộc Uyển thăm hỏi, và tỏ ý muốn noi gương tôn giả. Tôn giả hướng dẫn các bạn đến yết kiến Phật. Cả bốn chàng thanh niên đều được Phật thu nhận cho xuất gia. Sau khi nghe pháp, vả bốn vị đều chứng quả thánh. Vậy là, vào lúc ấy, tăng đoàn đã có mười vị A la hán.

Bạn bè của tôn giả Da Xá còn có đến hơn trăm người, đều là con cháu của các gia đình quyền quí, danh vọng ở trong thành phố, đều được mọi người kính trọng. Khi nghe tin Da Xá và bốn người bạn thân nhất của tôn giả đã theo Phật xuất gia, họ cũng rủ nhau tiến về vườn Lộc Uyển để thăm hỏi. Tôn giả Da Xá đã đưa tất cả các bạn vào yết kiến Phật. Sau khi nghe Phật giảng pháp, năm mươi trong số hơn một trăm chàng thanh niên ấy, tự thấy không có gì vướng bận, đã xin Phật cho xuất gia. Qua thời gian tu tập tinh chuyên, cả năm mươi người đều chứng A la hán.

Tới đây, sau hai tháng từ khi Phật thành đạo, tăng đoàn của Phật đã tăng lên đến sáu mươi vị tì kheo. Sau một thời gian tu tập cần mẫn, các ngài đều đạt đến trí tuệ siêu việt, vững chải trên khả năng hóa đạo, và tự tại trên con đường giải thoát. Đức Phật liền phái các ngài, như là những vị sứ giả đầu tiên của Ngài, bắt đầu lên đường hành hóa, gieo trồng hạt giống bồ đề ở khắp bốn phương.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1332)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1359)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1069)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1237)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1718)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1650)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1548)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1129)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1502)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1479)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1387)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1440)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1775)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 2124)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1490)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1146)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1491)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2155)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1531)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1615)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1455)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 3067)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1444)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1457)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1781)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1753)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1689)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1545)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2710)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1669)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1661)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1473)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1493)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1664)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1605)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1484)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1480)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1556)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2256)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1591)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1568)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1696)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1904)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1581)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1452)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1707)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1468)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1779)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2448)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1518)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 2019)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1742)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1811)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1671)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1996)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1724)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1498)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1762)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1627)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1598)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant