- [01 - 10]
- [11 - 20]
- [21 - 30]
- [31 - 40]
- [41 - 50]
- [51 - 60]
- [61 - 70]
- [71 - 80]
- [81 - 90]
- [91 - 100]
- [101 - 110]
- [111 - 120]
- [121 - 130]
- [131 - 140]
- [141 - 150]
- [151 - 160]
- [161 - 170]
- [171 - 180]
- [181 - 190]
- [191 - 200]
- [201 - 210]
- [211 - 220]
- [221 - 230]
- [231 - 240]
- [241 - 250]
- [251 - 260]
- [261 - 270]
- [271 - 280]
- [281 - 290]
- [291 - 300]
- [301 - 310]
- [311 - 320]
- [321 - 333]
- Thư mục
DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN
(333 Câu Chuyện Thiền)
tức GÓP NHẶT CÁT ĐÁ Hiệu Đính và Bổ Sung
Đỗ Đình Đồng góp nhặt
Cùng
người dịch:
Đã in:
Góp Nhặt Cát Đá Thiền sư
Muju
Milarepa, Con Người Siêu Việt Rechung
Gửi Lại Trần Gian Milarepa
Ca Ngợi Cô Đơn Kahlil Gibran
Ba Trụ Thiền (1991) Philip Kapleau
Ấn bản điện tử (e-book):
Dạo Bước Vườn Thiền Đỗ Đình Đồng góp nhặt
Tiếng Sáo Thép (100 công án Thiền) Như Huyễn Thiên Khi
Ba Trụ Thiền (2011) Philip Kapleau
Đang dịch:
Trung Luận Bồ-tát Long Thọ
Tự Tùng Nhất Kiến Đào Hoa Hậu,
Trực Chí Như Kim Bất Cánh Nghi.
“Từ khi chợt thấy hoa đào nở
Cho đến giờ đây hết cả ngờ.”
Phụ bản: Thơ Ngộ của Linh Vân khi thấy Hoa Ðào Nở
(Tranh của Kano Motonobu, đầu thế kỷ 16)
TỰA
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
Trong khi dạo, thấy hoa lá cây cỏ cát đá núi sông biển cả hư không đất liền người vật... đều để mắt ngắm nhìn. Có lúc ngắm lâu, có khi đến mười, hai mươi, ba mươi năm... một hạt cát, một lá cây, một cọng cỏ, một giọt sương, một phiến đá..., có lúc chỉ thoáng nhìn giây lát. Nhưng dù ngắm lâu hay chỉ thoáng nhìn, tất cả lưu ảnh đều rơi vào cái túi vô hình không đáy của người góp nhặt. Một khi đã vào túi không đáy rồi, mỗi mỗi đều rơi chỗ ấy, không rơi chỗ khác; và tất cả đèu là chân thật bất hư. Cứ như thế đã mấy chục năm qua. Gần đây, bỗng nhiên hứng khởi, liền dùng mắt lửa tròng vàng của Tôn Hành Giả làm cho người vật trong túi kia hiện ra chốc lát để người cùng sở thích liếc mắt xem qua, tùy duyên lựa ngắm. Sau khi ngắm qua, ảnh có lưu lại hay không là tùy người ngắm.
Nếu có người hỏi:
- Người vật hoa lá trong các vườn ấy là giống hay là khác? Mỗi vườn có đặc điểm gì?
Xin đáp rằng:
- Giống thì chẳng giống, khác cûng chẳng khác. Trái chín ở vườn Tàu, cây phát triển ở vườn Nhật, hạt nảy mầm ở vườn Mỹ. Vườn Tàu và vườn Việt là vườn thiên đàng, có Tam Tạng, Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng...sinh hoạt. Vườn Nhật là vườn địa đàng, có thêm ông A-đam, bà E-và, con rắn và quả táo... hành tác. Vườn Mỹ lại có thêm máy điện tử cạnh tranh.
- Tôi nghe nói có các Thiền sư làm chủ vườn. Họ đâu cả rồi?
- Tịch cả rồi!
- Sao lại tịch hết? Tịch hồi nào ?
- Khi anh bắt đầu hỏi, họ liền tịch.
- ? ? ? !
- Ðừng lo. Khi nào hoa vườn nhà anh tự nở, tất cả sẽ sống lại.
Lại hỏi:
-Hình ảnh từ trong túi không đáy của anh do mắt lửa tròng vàng hiện ra có thật không?
- Ảnh chỉ giống hình, chẳng phải vật thật. Mỗi ảnh chỉ cho thấy một khía cạnh, chẳng phải toàn thể, chẳng phải vật thật. Muốn được vật thật, hãy trở lại vườn nhà mình, nhìn vào trong, không để gián đoạn, đến kỳ hoa vườn nhà mình sẽ tự nở ra, liền là hoa thật, chẳng có chi khác với hoa xưa trong các vườn kia.
- Anh nói nhìn vào trong là nhìn như thế nào?
- Hãy nhìn như người đàn bà trong câu chuyện sau đây:
Một hôm, một người đàn bà, tên gì không ai biết, đến nghe Bạch Ẩn thuyết pháp. Trong bài pháp, có đoạn sư nói, “Tịnh tâm Tịnh độ, Phật ở nơi mình: một khi Phật hiện, mọi vật trên thế gian liền chiếu hào quang. Nếu ai muốn thấy được như thế, hãy quay vào tâm mình, nhất tâm tìm kiếm.”
“Vì là Tịnh tâm Tịnh độ, làm sao Tịnh độ được trang nghiêm? Vì là Phật ở nơi mình, Phật có tuớng tốt gì?”
Nghe vậy, người đàn bà suy nghĩ, “Cái đó có khó gì lắm đâu.” Trở về nhà, bà nhìn vào đó ngày đêm, mang nó trong lòng, dù thức hay ngủ. Rồi một hôm, trong lúc đang rửa nồi, bỗng nhiên bà thông suốt.
Ném cái nồi sang một bên, đến gặp Bạch Ẩn, bà nói: “Tôi đã qua đến ông Phật trong chính thân tôi đây. Mọi vật đều chiếu sáng. Kỳ diệu quá! Thật là kỳ diệu!” Bà sung sướng nhảy múa vì vui.
Bạch Ẩn nói, “Ðó là bà nói, còn cái hầm chứa phân thì thế nào?”
Bà liền bước lên tát Bạch Ẩn một cái, nói, “Cái lão này chưa thông rồi.”
Bạch Ẩn cười rống lên.
(Dạo Bước Vườn Thiền, trg. 23)
Rồi nếu có ai hỏi:
- Thế nào là Thiền?
Xin đáp rằng:
- Đi đường thấy đèn đỏ, chớ vượt qua.
- Cái đó ai chẳng biết.
- Biết mà vẫn phạm.
Xin thêm một lời. Ða số các câu chuyện trong túi không đáy vốn không có tên, nhưng khi quí vị đọc liền thấy mỗi mỗi đều có tên, ấy là do người góp nhặt thêm vào cho tiện gọi. Thường là lấy từ trong câu chuyên ra. Các tài liệu dùng lấy ảnh, phần lớn bằng tiếng Anh, phần nhỏ là tiếng Việt, chút ít là chữ Hán. Cuối mỗi chuyện có ghi xuất xứ, và cuối sách có thư mục.
Sách này phát xuất từ Sa Thạch Tập (Shaseki-shu) của Thiền sư Vô Trụ (Muju), người Nhật sống vào thế kỷ mười ba. Vào năm 1971, người góp nhặt đã dịch sách này lần đầu tiên, lấy tên là Góp Nhặt Cát Ðá, do nhà Lá Bối ấn hành tại Sài Gòn. Rồi từ khi nhiều đồng bào rời quê hương đi khắp ta bà thế giới, đến đâu có điều kiện, họ liền cho in lại để đọc. Nay trước khi làm ấn bản điện tử (e-book), thấy có đôi chỗ sai, liền dịch lại toàn bộ, sửa chỗ sai, bỏ cũ một phần, thêm mới bội phần. Tinh thần vẫn vậy nhưng nội dung thay đổi nhiều, nên không tiện giữ tên của Thiền sư Vô Trụ nữa và tên sách cũng thay đổi, mong độc giả lượng thứ và vui lòng chỉ cho những chỗ sai lạc để có thể sửa lại khi có dịp. Xin đa tạ.
Frederick, ngày 20 Tháng 03 Năm 1999
Đỗ Đình Đồng
MỤC LỤC
Tựa,
Mục Lục,
1. Ðường Vào Cổng Thiền, trg. 18
2. Một Tách Trà, 18
3. Không Biết, 19
4. Biết Ðể Làm Gì?, 19
5. Cây Bách, 20
6. Mây Trắng, 21
7. Bát Nhã, 21
8. Mẹ của Chư Phật, 22
9. Tịnh Tâm Tịnh Độ, 23
10. Uống Trà Ði!, 24
11. Im Lặng, 24
12. Vô Ngôn Thông, 25
13. Mỗi Ngày Là Một Ngày Tốt, 26
14. Trồng Tùng, 26
15. Hoa Núi Nở Như Gấm, 27
16. Không Sinh Không Tử, 27
17. Mặt Trăng Lặn Chẳng Lìa Bầu Trời, 28
18. Núi Là Núi, Nước Là Nước, 28
19. Ðược Viên Kim Cương Trên Quãng Ðường Lầy, 29
20. Thế À?, 31
21. Vâng Lời, 32
22. Không Chút Từ Bi, 33
23. Ðại Ba, 33
24. Không Thể Ăn Cắp Mặt Trăng, 34
25. Kệ Phó Pháp của Hoshin, 35
26. Người Trung Hoa Hạnh Phúc, 36
27. Một Ông Phật, 37
28. Ðoạn Ðường Lầy, 38
29. Shoun và Mẹ, 38
30. Không Xa Phát Tánh, 40
31. Hà Tiện Lời Dạy, 40
32. Ngụ Ngôn, 42
33. Lâu Ðài Cát, 42
34. Ðệ Nhất Ðế, 43
35. Lời Khuyên của Mẹ, 44
36. Tiếng Vỗ Một Bàn Tay, 44
37. Tim Tôi Bừng Cháy Như Lửa, 46
38. Eshun Qua Ðời, 47
39. Tụng Kinh, 47
40. Ba Ngày Nữa, 48
41. Cuộc Ðối Thoại Mặc Cả Chỗ Ở, 48
42. Giọng Nói của Hạnh Phúc, 50
43. Không Nước Không Trăng, 50
44. Danh Thiếp, 51
45. Miếng Nào Cũng Ngon Nhất, 51
46. Bàn Tay của Mặc Tiên, 52
47. Nụ Cười Trong Ðời, 52
48. Mọi Phút Thiền, 53
49. Mưa Hoa, 53
50. Xuất Bản Kinh, 54
51. Việc Làm Trong Ðời Gisho, 55
52. Ngủ Ngày, 56
53. Trong Cõi Mộng, 56
54. Thiền của Triệu Châu, 57
55. Người Chết Trả Lời, 57
56. Thiền Trong Nếp Sống Ăn Mày, 58
57. Ăn Cắp Trở Thành Ðệ Tử, 58
58. Ðúng và Sai, 59
59. Cỏ Cây Giác Ngộ Thế Nào?, 60
60. Nghệ Sĩ Bần Tiện, 61
61. Ðiểm Cân Ðối Chính Xác, 62
62. Ông Phật Mũi Ðen, 63
63. Ryonen, 63
64. Diệu Nhân, 64
65. Vị Tương Chua, 66
66. Ánh Sáng Có Thể Biến Mất, 66
67. Người Cho Phải Cảm Ơn, 67
68. Di Chúc và Ước Mong, 67
69. Trà Sư và Kẻ Ám Sát, 68
70. Chánh Ðạo, 69
71. Cửa Thiên Ðàng, 70
72. Bắt Ông Phật Ðá, 70
73. Những Người Lính của Lòng Nhân Từ, 71
74. Con Ðường Hầm, 72
75. Ngu Ðường và Hoàng Ðế, 73
76. Sinh Từ Ðâu Ðến, Chết Ði Về Ðâu?, 74
77. Trong Bàn Tay Ðịnh Mệnh, 75
78. Sát Sinh, 75
79. Mồ Hôi Kasan, 76
80. Hàng Phục Ma, 76
81. Những Ðứa Con của Ðức Hoàng Thượng, 77
82. Ngươi Làm Gì Vậy? Thầy Nói Gì Vậy?, 78
83. Một Nốt Nhạc Thiền, 79
84. Ăn Lời Trách Mắng, 80
85. Vật Có Giá Trị Nhất Trên Thế Gian, 80
86. Học Im Lặng, 81
87. Lãnh Chúa Ðầu Bò, 81
88. Mười Người Thừa Kế, 82
89. Sự Cải Hóa Chân Thật, 82
90. Tánh Tình, 83
91. Cái Tâm Ðá, 84
92. Không Vướng Bụi Trần, 84
93. Giữ Mình Trong Sạch, 85
94. Sự Phát Ðạt Chân Thật, 86
95. Cái Lư Hương, 87
96. Phép Lạ Chân Thật, 88
97. Hãy Ngủ Ði, 88
98. Không Có Gì Hiện Hữu, 89
99. Bắt Chim, 89
100. Ðã Ðến Lúc Chết, 90
101. Ông Phật Sống và Người Ðóng Thùng Gỗ, 91
102. Ba Loại Ðệ Tử, 91
103. Bốn Hạng Người Tu, 92
104. Ðối Thoại Thiền, 92
105. Cái Cốc Cuối Cùng, 93
106. Thiền Chiếc Kẹp Gắp Than, 94
107. Thiền của Người Kể Chuyện, 94
108. Lá Thư Gửi Người Hấp Hối , 95
109. Lời Dạy Tối Hậu, 95
110. Không Ràng Buộc, 96
111. Dấm của Tosui, 97
112. Ngôi Chùa Im Lặng, 98
113. Thiền của Phật, 98
114. Niệm Phật, 99
115. Cảm Ơn Lòng Tốt, 99
116. Mây Trên Trời, Nước Trong Bình, 100
117. Thế Nào Là Diệu Pháp, 100
118. Kho Báu Trong Nhà, 101
119. Nếu Biết Ðèn Là Lửa, 101
120. Thế Nào Là Ðạo?, 103
121. Tìm Thầy Học Ðạo, 103
122. Giận Dữ Là Của Quí Trong Nhà, 105
123. Khi Gặp Cảnh Sống Chết Thì Sao?, 105
124. Tôi Không Muốn Chêt, 106
125. Một Giọt Nước, 106
126. Không Lãng Phí, 107
127. Lạc Thú Trong Núi Sâu, 108
128. Vẽ Rồng, 109
129. Ông Không Ho Ðấy Chứ?, 110
130. Lễ Bái, 111
131. Phước Ðức Trong Ðời, 111
132. Hai Con Thuyền, 112
133. Lông Trắng Phơi Dòng Biết, 113
134. Dự Tiệc, 114
135. Cảnh Cáo, 114
136. Còn Mùi Thiền, 115
137. Cẩn Thận! Cẩn Thận!, 115
138. Sao Chẳng Nói Con Biết, 116
139. Người Trí Không Ngộ Ðạo, 116
140. Chớ Phỉ Báng Tiên Sư Tôi, 117
141. Dạy Con Hồi Nào?, 118
142. Dùng Hằng Ngày Nhưng Chẳng Biết, 119
143. Chỉ Tệ Bằng Một Nửa, 119
144. Ai Trói Ông, 120
145. Ðói Ăn, Mệt Ngủ, 120
146. Ngộ Rồi Ðồng Chưa Ngộ, 120
147. Hãy Về Nhà Ðóng Cửa Lại, 121
148. Ông Tăng Thất Bại, 122
149. Hãy Xem Con Ong, 123
150. Ngộ Không Phải Là Mặt Trời, 124
151. Khuyến Cáo Các Thiếu Nữ, 124
152. Bất Cứ Quyền Hạn Nào, 125
153. Hãy Nói Chuyện Từ Bi Trước Ðã, 125
154. Tôi Không Mua Chuyện Nghiệp Này Ðâu, 127
155. Phân Trâu Cũ Ði Ðâu Cũng Vậy, 128
156. Tại Sao Tôi Phải Ngồi Thiền, 129
157. Ðêm Qua Tôi Là Khách, 129
158. Chúng Ta Hãy Cứ Như Vậy Ði, 130
159. Lời Mời của Ðịa Ngục, 130
160. Ðàn Bà Là Kho Tàng của Phật Giáo, 131
161. Tôi Không Muốn Nữa, Cảm Ơn, 132
162. Nếu Anh Thật Yêu Tôi, Hãy Ôm Tôi Ði, 132
163. Cái của Bổn Ni Sâu Không Có Ðáy, 133
164. Công Án của Shosan, 134
165. Gốc của Sanh Tử, 134
166. Làm Sao Dứt Bỏ Ðam Mê Tình Dục, 135
167. Người Tu Không Nên Gần Ðàn Bà, 136
168. Thật Là Một Thử Thách Gian Nan, 136
169. Ði Chơi Ðêm, 137
170. Ở Hoàn Cảnh Nào Cũng Ngộ Ðược, 137
171. Ông Có Cô Con Gái Khá Sắc Sảo Ðấy, 138
172. Ðam Mê và Giải Thoát, 139
173. Thể Hiện Cái Dụng của Phật Tánh, 140
174. Bài Học Từ Bi, 141
175. Hoa Sen Ðêm, 143
176. Ðôi Khi Con Nghĩ Kinh Nghiệm Tình Dục Còn Thực Hơn Kiến Tánh, 149
177. Không Là Gì?, 156
178. Ðọc về Ngộ Cũng Như Gãi Ngứa Ngoài Giày, 157
179. Ðọc Hay Không Ðọc, 158
180. Nếu Tôi Nói Thiền, Ðấy Chẳng Phải Là Thiền Tôi Nói, 162
181. Tại Sao Các Thiền Sư Trả Lời Bằng Giọng Khó Ưa?, 163
182. Cái Gì Thực Sự Có?, 164
183. Thế Nào Là Phật Tâm?, 165
184. Không Có Thiền Sư, 165
185. Thiền Ðịnh Siêu Việt: Ai Siêu Việt Cái Gì?, 167
186. Máy Ðiều Khiển Tâm Sinh Lý: Thiền Ðiện Tử?, 169
187. Tôi Có Thể Vừa Tu Thiền Vừa Là Tín Ðồ Do Thái (hay Ky-tô) Giáo Tốt Không?, 171
188. Thế Nào Là Ngộ?, 173
189. Lão Sư Ðã Ngộ Chưa?, 173
190. Ngộ Giống Cái Gì?, 174
191. Thế Nào Là Ngã Mạn?, 174
192. Tám Gió Thổi Chẳng Ðộng, 175
193. Bà Lão Hay Khóc, 176
194. Tôi Ðã Diệt Hết Tật Xấu Rồi, 177
195. Con Nhện và Thiền Tăng, 177
196. Giàu và Nghèo, 178
197. Núi Tu Di Chứa Trong Hạt Cải, 179
198. Trúc Cao Trúc Thấp, 179
199. Tôi Không Có Gì Dấu Ông, 180
200. Không Ta Không Người, 181
201. Vì Có Tôi Ở Ðây, 181
202. Tiếng Mưa Rơi, 182
203. Trở Về Tay Không, 182
204. Ði Trong Mưa, 183
205. Có và Không, 183
206. Theo Dòng Mà Ði, 184
207. Tới Lui Ðều Khó, 185
208. Không Bằng Thằng Hề, 185
209. Cái Gì Chẳng Phải Phật Pháp?, 186
210. Bắt Hư Không, 187
211. Ðường Ðến Nết Bàn, 187
212. Lạnh Khi Lạnh, Nóng Khi Nóng, 188
213. Nơi Không Sinh Tử, 188
214. Ai Biết Cô?, 189
215. Ba Cân Gai, 189
216. Tuyết Rơi Mảnh Mảnh, 190
217. Cầu Ðá Triệu Châu, 191
218. Rửa Chén Ði!, 191
219. Triệu Châu Hỏi Ðường, 192
220. Ðiểm Cái Tâm Nào?, 192
221. Anh Có Phải Là Phật Tử Không?, 193
222. Vì Tôi Là Y Sĩ, 194
223. Không Cầu Không Mong, 195
224. Sống Ư? Chết Ư?, 196
225. Chỉ Mặt Trăng, 197
226. Khỉ Trong Chuồng, 197
227. Vô Tâm, 198
228. Ðứa Trẻ Ba Tuổi Cũng Biết, 199
229. Tôi Chỉ Ðứng Ðây Thôi, 200
230. Trên Ðỉnh Cô Phong, 201
231. Ðan Hà Ðốt Tượng Có Ý Gì ?, 201
232. Cười Với Ðất Trời, 202
233. Hương Nghiêm Leo Cây, 202
234. Ý Kinh Và Ý Tổ, 203
235. Nhìn Mà Không Thấy , 203
236. Tâm Bình Thường, 203
237. Cậu Bé Bính Ðinh Ðến Xin Lửa, 204
238. Hư Không Có Ðể Mắt Nhìn Hoàng Thượng Không?, 205
239. Ông Biết Bắn Không?, 206
240. Bay Mất Ðược Sao?, 207
241. Phật Mặt Trời, Phật Mặt Trăng, 207
242. Qui Củ Thiền Ðường của Bách Trượng, 208
243. Ma Ngôn Ngữ, 209
244. Triệu Châu Ðội Dép Rơm, 210
245. Bị Lừa Ðá , 210
246. Cớ Sao Lại Có Bụi, 211
247. Chỗ Có Phật Chớ Ðứng Lại, 212
248. Không Mắt Tai Mũi Lưỡi, 212
249. Nước Con An Ổn, 214
250. Không Chỗ Nào Không Ðến, 216
251. Là Người Hay Là Phật, 216
252. Ðầy Mắt Núi Xanh, 217
253. Tấm Lòng Trong Sạch, 218
254. Thiền và Thuật Trị Nước, 218
255. Giấy Ði Cầu, 219
256. Tỉnh Ngộ, 219
257. Gan Ruột, 220
258. Chớ Lo Lắng, 220
259. Ẩn Cư, 222
260. Ðẹp Hơn Hoa, 222
261. Hét Trống Ðịa Ngục, 223
262. Lời Cuối Cùng, 224
263. Kinh Một Chữ của Ðại Giác, 225
264. Kinh Không Chữ của Phật Quang, 225
265. Ðịa Tạng Nguyên Hình, 226
266. Tham Vấn Ban Ðêm, 227
267. Bức Tranh Người Ðẹp, 229
268. Tiếng Hét của Toden, 229
269. Thanh Kiếm Giấy, 231
270. Ðất Trời Tan Vỡ, 231
271. Vẽ Tánh, 232
272. Bản Sao, 233
273. Bài Pháp của Ni Sư Shido, 234
274. Tổ Sư Hiệp Sĩ Từ Phương Tây Ðến, 234
275. Thiền Một Chiếc Áo của Ðại Giác, 235
276. Thiền Cái Khố của Phật Quang, 236
277. Ðịa Tạng Ra Khỏi Chánh Ðiện, 237
278. Vây Rồng, 238
279. Vật Dưới Rốn của Thời Tông, 239
280. Cổng Ra Vào Thế Giới Chư Phật, 240
281. Chiếc Y Niệm Phật, 241
282. Thuyết Pháp, 242
283. Múa Thương Tay Không, 242
284. Ðánh Chuông, 243
285. Sao Không?, 244
286. Ăn Cá Thịt Làm Sao Thành Phật?, 245
287. Mưa Ðêm, 246
288. Thiền Sư Thông Thái, 247
289. Ông Phật Say, 247
290. Ðại Sư Vi Tế, 250
291. Phật Trong Ðời Này, 251
292. Ấn Khả Quá Sớm, 252
293. Ðại Sự, 253
294. Sai Lầm, 255
295. Một Ngày Không Làm, Một Ngày Không Ăn, 256 `
296. Yêu Hoa, 257
297. Cỏ Thơm, Hoa Rụng, 258
298. Ba Chuyển Ngữ, 259
299. Ai Ở Trong Giếng, 259
300. Nên Cười Hay Nên Khóc, 260
301. Tổ Phật Lừa Người, 261
302. Dứt Bỏ Thế Tình Mê Hoặc, 262
303. Lưới Tình Thế Gian Không Có Ngày Dứt, 262
304. Gọi Trâu Ði Tắm, 263
305. Hai Mảnh Ngọc Hợp, 264
306. Ăn Cơm Mặc Áo, 265
307. Ai Là Kẻ Không Cùng Muôn Pháp Làm Bạn, 266
308. Câu Hỏi Nhất Thừa Ðã Mất, 267
309. Cư Sĩ Có Ðây Không?, 267
310. Một Câu Sau Cùng Chẳng Ai Nói Ðược, 270
311. Làm Sao Quên Ðược, 270
312. Hãy Còn Câu Thứ Nhì, 272
313. Ai Nhờ May Mà Thua, 272
314. Lão Già Ganh Tị, Chẳng Phân Tốt Xấu, 273
315. Bàng Cư Sĩ Ðọc Kinh, 274
316. Mai Ðã Chín Chưa?, 274
317. Một Câu Cũng Chẳng Cần, 275
318. Miệng Câm Mắt Mù, 276
319. Ðường Ấy Ði Ðâu?, 276
320. Chuyển Y Công Ðức, 277
321. Bàng Cư Sĩ Cùng Vợ Và Con Gái , 277
322. Kẻ Không Hiểu Là Ai?, 278
323. Bởi Vì Tôi Coi Ðó Là Kẻ Thù, 279
324. Vướng Mắc Thân Tâm, 279
325. Thoát Lạc Thân Tâm, 280
326. Ðọc Ngữ Lục Thiền Ðể Làm Gì?, 281
327. Tìm Ngộ, 282
328. Ngộ Là Gì?, 282
329. Bằng Chứng, 283
330. Hãy Ở Trong Tâm Phật Bất Sanh , 283
331. Còn Gì Ðể Truyền, 284
332. Ông Núi, 285
333. Ông Tăng Trì Ðộn, 285
Thư Mục, 287
Triệu Châu Tòng Thẩm là một Thiền sư sáng ngời của Trung quốc. Một hôm có ông tăng hỏi, “Thế nào là Đạo?” Triệu Châu liền đáp, “Ngoài hàng rào đó.” Đạo ư? Ồ vâng, kìa, nó đó! Ngoài hàng rào đó. Nhưng về phía ông tăng--đó chẳng phải cái mà tôi đang hỏi, con đường nhỏ ngoài hàng rào. Ông tăng nói, “Cái gì thế, con muốn nói Đại Đạo kià.” Ông ta muốn nói Đại Đạo của vũ trụ.
Bây giờ Triệu Châu nói: “Đại đạo đến Trường an.”
Đại đạo ư? Nếu là đại đạo mà ông muốn nói, đó là con đường dẫn đến kinh đô Trường an. Đây sẽ là xa lộ chính và trong thời hiện đại này chúng ta có thể đi đến kinh đô bằng tàu suốt. Đại đạo đến Trường an, đó là câu trả lời của sư.
GS001: Nói chuyện đạo mà ba xàm như thế này thì ghi nhớ làm cái gì? Lợi ích gì? Trí tuệ để ở đâu mà ca ngợi những chuyện ba xàm như thế này?
GS001: Kiến thức nào có CHÁNH KIẾN (đúng với sự thật) ví dụ LUẬT NHÂN QUẢ, thì vẫn thuộc về BÁT NHÃ.
ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG: Mặt khác, có thể hiểu bát nhã bằng thái độ ngược lại, nghĩa là, bằng cách gột sạch tất cả kiến thức đã có. Hành động tinh thần và thể xác đặt căn bản trên trực giác bản hữu là bát nhã. Chẳng hạn như một người bị đánh kêu, “Ui cha!” -- không nghĩ tốt hay xấu, chỉ “Ui cha!” thôi. Đây là bát nhã.
GS001: Thế với các bậc đã giải thoát như PHẬT hay các vị A LA HÁN, khi nhập DIỆT THỌ TƯỞNG ĐỊNH, không kêu lên UI CHA! thì các ngài không có BÁT NHÃ sao?
Khi Bồ-đề Đạt-ma (532 d.l.), Thiền Tổ thứ nhất, từ Ấn độ đến Trung quốc, Lương Vũ Đế (502-550 d.l.) muốn gặp Tổ. Hoàng đế hỏi Tổ, “Thế nào là nghĩa tột cùng của Thánh Đế?” Tổ đáp, “Rỗng thênh, không thánh.”
Hoàng đế lại hỏi, “Ai đang ở trước trẫm đây.”
Tổ đáp, “Không biết.”
Một bậc giác ngộ làm gì có câu trả lởi như "KHÔNG BIẾT" giống kẻ u mê như thế. Tổ phải trả lời rằng: "KHÔNG LÀ AI CẢ". Đó mới khế hợp với sự giác ngộ VÔ NGÃ của những bậc giải thoát. Kẻ nào kể lại câu chuyện như trên là đã phỉ báng tổ ĐẠT MA.
Thiền sư Đạo Nguyên (1200-1253) nói:
1. Học Phật pháp là học chính mình.
2. Học chính mình là quên chính mình.
3. Quên chính mình là trở thành một với Đại Tâm vô biên.
GS001:
Câu số 1, ĐÚNG!
Câu số 2, SAI! (Học chính mình để thấy mình không có, VÔ NGÃ).
Câu sô 3, SAI! Rơi vào ĐẠI NGÃ của Bà la Môn.
Xin đáp rằng:
- Đi đường thấy đèn đỏ, chớ vượt qua.
- Cái đó ai chẳng biết.
- Biết mà vẫn phạm.
GS001: Qúi vị biến Đạo Phật như trò chơi của những kẻ trà dư tửu hậu. Qúi vị chỉ biết bắt chước những ông thiền sư Tàu và Nhật nói những lời vô nghĩa. Đức Phật xa xưa khi ra đi từ bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con thơ đâu phải chỉ để tìm được những thứ rởm đó. Nó chả giúp gì để cho cuộc đời bớt khổ đau một chút nào cả.
Hãy vào trong nhà thương để thấy những rên la đau đớn của bao nhiêu người để xem mấy thứ thiền mà quí vị đã học có áp dụng được chút nào không? Ngoại trừ khi quí vị cho rằng "BÌNH THƯỜNG TÂM LÀ ĐẠO" để che dấu một sự ĐẦU HÀNG trước những khổ đau của cuộc đời, thì tôi khỏi cần bàn cải nữa.