Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 4

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 11014)
Phần 4


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 4)


Pháp Sư Tịnh Không

 

Hựu Hiền Hộ đẳng thập lục chánh sĩ, sở vị Thiện Tư Duy Bồ tát, Huệ Biện Tài Bồ tát, Quán Vô Trụ Bồ tát, Thần Thông Hoa Bồ tát, Quang Anh Bồ tát, Bảo Tràng Bồ tát, Trí Thượng Bồ tát, Tịch Căn Bồ tát, Tín Huệ Bồ tát, Nguyện Huệ Bồ tát, Hương Tượng Bồ tát, Bảo Anh Bồ tát, Trung Trụ Bồ tát, Chế Hành Bồ tát, Giải Thoát Bồ tát

Tổng cộng liệt kê có mười sáu vị Bồ tátthượng thủtại gia. Ý nghĩa chữ “thượng thủ” cũng như vị chủ tọa trong đoàn thể đại chúng, lớp trưởng của một lớp. Số lượng chúng Bồ tát dự hội quá đông, ngoài ra còn có chúng Thanh văn, Tỳ kheo xuất gia, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, tổng cộng đến hai ngàn người. Bồ tát chiếm đa số đặc biệt Bồ tát đến từ thế giới phương khác. Hiền Hộ là vị Bồ tát ở cõi chúng ta, sanh cùng thời đại với Thích Ca Mâu Ni Phật. Vị này là Bồ tát tại gia đã chứng được Đẳng Giác, địa vị các ngài hoàn toàn bình đẳng với Quan Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền.

Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành Phật, tướng xuất gia. Cùng thời đại với Phật, còn có một vị thị hiện thành Phật hình tướng tại gia, rất nhiều đồng tu đều biết đó là tôn giả Duy Ma Cật. Tôn giả Duy Ma Cật là Phật tại gia, Thích Ca Mâu Ni là Phật xuất gia. Kinh Duy Ma Cật cho chúng ta thấy, đệ tử của Phật như ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, A Nan dường như tất cả kinh Đại Tiểu thừa, khi vừa mở đầu đều có mặt, ba vị này mỗi khi thấy Thích Ca Mâu Ni Phật, họ liền “đảnh lễ ba lạy, đi nhiễu phía hữu ba vòng”, rồi chấp tay, cung kính, thưa hỏi. Các ngài đến chỗ của cư sĩ Duy Ma, cũng làm như vậy. Cư sĩ Duy Ma thăng tòa giảng kinh, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, A Nan hình tướng người xuất gia, nhìn thấy cư sĩ Duy Ma cũng đảnh lễ ba lạy, đi nhiễu ba vòng, cũng cung kính chắp tay thưa hỏi, không hề khác nhau. Điểm này chúng ta nhất định phải ghi nhớ, đặc biệt người xuất gia.

Nhiều người trong chúng ta khi vừa xuất gia, vừa mặc trên người áo rộng đầu tròn thì trở nên cống cao ngã mạn, tỏ vẻ ta đây. Cho nên lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ giảng rất hay, thời kỳ mạt pháp đã điên đảo. Ngày xưa người tu hành chứng quả, nhiều nhất và thù thắng nhất là Tỳ kheo xuất gia, thứ hai là Tỳ kheo ni, thứ ba là cư sĩ nam tại gia, và ít nhấtcư sĩ nữ tại gia. Còn hiện tại tu hành chứng quả thể hiệnchân thật vãng sanh thế giới Tây Phương, thì nữ chúng tại gia lại đứng đầu, số lượng rất đông, thật có thành tựu, thứ hai là chúng nam tại gia, thứ ba là chúng nữ xuất gia, sau cùng mới là chúng nam xuất gia, Như vậy có đáng lo không và vì sao lại có hiện tượng này?

Chính là vì khi vừa mặc bộ đồ tu lên người thì không hề biết trời cao đất rộng, cống cao ngã mạn, cầu người cung kính. Khi được cung kính cúng dường, có chút ít phước báu thì xài cho hết. Cho nên tổ sư đại đức từ xưa đến nay luôn khuyên bảo chúng ta phải khiêm tốn, cung kính. Trong sám nghi khóa tụng của tổ sư đại đức, chúng ta thường hay đọc đến “tất cả cung kính, một lòng kính lễ”, Bồ tát Phổ Hiền cũng dạy chúng taLễ kính chư Phật”, ý nghĩa này bao sâu, làm sao có thể cống cao ngã mạn, có thể xem thường người khác?

Bổn kinh này, chúng Tỳ kheo xuất gia chỉ nêu năm vị, Bồ tát xuất gia nêu ba vị, còn Bồ tát tại gia nêu ra đến mười sáu vị, ý nghĩa đã quá rõ ràng. Pháp môn, bộ kinh này chính là độ hành giả tại gia, pháp bảo vô thượng một đời viên mãn thành Phật. Chúng tôi thường khuyên đồng tu: “chúng ta ngày nay phải nương vào ai? phải học với người nào? Chúng ta phải học với Phật A Di Đà vì Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật của chúng ta đã khuyên bảo như vậy”. Thế Tôn tán thán A Di Đà Phật: “Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”, chúng ta học theo vua trong các Phật, đó là Phật A Di Đà, học vua trong các kinh, đó là kinh Vô Lượng Thọ. Chỉ cần y theo một bộ kinh này là đủ. Nói như vậy sẽ có nhiều người cho rằng bộ kinh này quá ít, e không đủ.

Thực tế trong bộ kinh này, mỗi câu mỗi chữ đều là pháp luân viên mãn, không những là tất cả pháp Thế Tôn đã nói suốt bốn mươi chín năm mà mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai nói pháp tạng vô tận cũng không vượt ra khỏi kinh Vô Lượng Thọ này. Chúng ta phải tường tận, phải thông đạt, sau đó mới có thể hết lòng hết dạ một môn thâm nhập, và thành tựu, gọi là “Một kinh thông, tất cả kinh thông”, cũng giống như việc đào giếng lấy nước, căn cứ một điểm rồi cứ đào thẳng xuống, càng sâu thì nguồn nước càng phong phú, nước trong bốn biển lớn, chúng ta đều có được, tùy thuộc độ sâu chúng ta đào. Viên dung tất cả pháp, đào cạn thì mùi vị của giếng cạn sẽ không giống mùi vị của giếng sâu. Mỗi miệng giếng đều có thể đào sâu, mùi vị hoàn toàn khác.

Phật là đạo đồng, chỉ sợ chúng ta không đủ sâu. Nhất định phải một môn thâm nhập, huân tu lâu dài mới thành tựu chân thật. Rõ ràng bộ kinh này độ hành giả tại gia, dù trong hoàn cảnh phức tạp đều có thể một đời viên mãn thành Phật, huống hồ xuất gia lại càng dễ dàng hơn. Đây gọi là phổ độ, không chúng sanh nào không được độ. Điển tích này thực tế vi diệu, thù thắng, cứu cánh viên mãn đến tột cùng.

Mười sáu vị Bồ tát tại gia chỉ có ngài Hiền Hộbản địa, ngoài ra đều là Bồ tát phương khác đến, mười phương thế giới chư Phật, tất cả đều giảng Tịnh Độ. Nếu một vị Phật nào giảng Tịnh Độ, giảng bộ kinh này thì tất cả Bồ tátmười phương thế giới đều sẽ đến tham dự pháp hội, trang nghiêm đạo tràng, làm chúng ủng hộ.

Kinh Vô Lượng Thọ rốt cuộc giảng những nội dung gì? Danh hiệu của mười sáu vị Bồ tát chính là cương lĩnh của toàn kinh. Nếu chúng ta thảy đều tường tận danh hiệu của mười sáu vị Bồ tát thì có thể thể hội được đại ý của bộ kinh. Việc giới thiệu từng vị mục đích là làm thế nào để học tập với các ngài.

1. Hiền Hộ

Trước tiên phải học ngài Hiền Hộ. Hộ là hộ pháp, hộ pháp phải hiền. Trong pháp thế gian, nhà Nho Trung Quốc gọi là thánh nhân, hiền nhân, quân tử.
Ba học vị giáo học của nhà Nho giống như đại học hiện tại của chúng ta, có tiến sĩ, thạc sĩ, học sĩ. Thánh nhântiến sĩ, hiền nhânthạc sĩ, quân tửhọc sĩ. Do đây có thể biết, người hộ trì Phật pháp, hộ trì đại chúng trong xã hội phải tuân theo tiêu chuẩn, đó là người hiền chân thật. Hiền nhân quân tử mới có thể làm được. Phật pháp gọi Hiền là Bồ tát Tam Hiền Vị.

Kinh Vô Lượng Thọ không chỉ là Đại thừaĐại thừa ngay trong Đại thừa, Nhất thừa ngay trong Nhất thừa. Vậy chữ Hiền này có tiêu chuẩn rất cao. Bồ tát Tam Hiền vị của Viên Giáo chính là Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng trong kinh Hoa Nghiêm. Viên giáo sơ trụ phá được nhất phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân, là pháp thân Đại sĩ. Họ có năng lực hộ trì đại pháp Vô Lượng Thọ cũng là hộ trì pháp môn Tịnh Độ. Không phải pháp môn thông thường, mà là pháp môn khiến cho tất cả chúng sanh chín pháp giới bình đẳng thành Phật. Tất cả pháp môn khác đều không thể so sánh được. Pháp môn chí cao vô thượng cứu cánh viên mãn chỉ có thể được ủng hộ bởi pháp thân Đại sĩ, Hiền hộBồ tát Đẳng Giác. Nếu dùng thân phận của Bồ tát Đẳng giác, chữ thánh đó chính là Phật. Phật là Đại thánh, dưới Phật đều là các bậc đại hiền.

Hiền hộ chính bản thân

Hộ trì sai Phật pháp, dẫn sai phương hướng thì vô cùng đáng tiếc. Đó không những không phải là hộ pháp mà là cản trở Phật pháp, chướng ngại Phật pháp. Hiền hộ đặc biệt với chính bản thân, chúng ta phải học Phật pháp, làm thế nào để giữ gìn chính mình. Hiện tại không giống thời xưa. Thời xưathời đại quân chủ chuyên chế, tất cả bá tánh phải nghe lệnh quốc vương, bảo làm thế nào thì phải làm như thế, nếu trái lạiphạm vương pháp. Cho nên con người không ai dám vượt qua, mỗi mỗi đều biết giữ quy củ, giữ gìn phép tắc. Thời đại đó rất dễ dạy.

Chẳng hạn, vào thời nhà Thanh, thậm chí tôi còn nhớ đến những năm đầu Dân quốc, lúc đó tôi rất nhỏ, khoảng bảy tám tuổi, luật pháp có một điều gọi là “Thân quyền xử phân”. Thân quyền là cha mẹ, cha mẹ có quyền phân xử con cái. Gia đình có con bất hiếu có thể thỉnh cầu chính phủ xử tử đứa con này, chính phủ lập tức chấp hành không cần thẩm phán. Một khi cha mẹ không yêu thương con cái, cũng không cần con cái nữa thì đứa con đó còn có thể làm gì được trong xã hội, nó không còn tư cách làm người, cho nên quốc gia lập tức chấp hành mệnh lệnh “Thân quyền xử phân”. Nhưng đến khoảng sau năm Dân quốc thứ hai mươi, luật này đã bị phế bỏ. Lúc đó con người bắt đầu bất hiếu với cha mẹ. Trước đây có luật “Thân quyền xử phân”, không ai dám đắc tội với cha mẹ vì sợ bị xử tử. Hiện tại không còn điều luật này, con cái bất hiếu làm càn làm quấy.

Ngày trước lão sư Lý khi dạy học, nói đến việc này rất cảm thán. Chúng tôi vẫn còn có ấn tượng rõ, thời đại đó là thời đại chuyên chế, còn thời đại dân chủ như hiện nay áp dụng luật này sẽ không có tác dụng. Thực tế cho thấy rất nhiều quốc gia dân chủ, dù phạm trọng tội cũng không tử hình, cho nên mọi người phạm tội làm gian làm trá không hề biết sợ. Chúng tôi ở châu Âu, pháp luật châu Âu không có việc này. “Từ bi đa họa hại, phương tiện xuất hạ lưumang đến cho đại chúng xã hội rất nhiều khổ nạn.

Tầm sư học đạo

Hiện tại, cha mẹ không thể dạy con cái vì chúng không nghe, thầy giáo cũng không thể giúp vì học sinh chỉ làm ra vẻ phục tùng nhưng cũng không nghe lời. Cho nên ngày nay một thầy giáo giỏi muốn có học sinh tâm đắc, dù đi khắp thiên hạ cũng khó tìm ra được một người. Bản thân mỗi người phải nêu cao ý thức cầu học. Tôi theo lão sư Phương, đại sư Chương Gia, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam đều không dễ dàng. Các ngài luôn dùng tâm chân thành từ bi để dạy bảo. Nếu hỏi về học lực, tôi đã nói rất rõ ràng rằng tôi tốt nghiệp sơ trung, không đọc bất cứ sách gì. Thời kỳ kháng chiến tất cả đều chạy nạn, may gặp được những vị hào kiệt đương thời, đại đức đại trí tuệ. Họ chăm sóc, quan tâm, còn tôi không có năng lực gì ngoài lòng chân thành, biết nghe lời. Với hai điều kiện đơn giản như vậy nên được họ tuyển chọn.

Thái độ của ba vị lão sư dạy tôi gần như nhau, đặc biệt dành thời gian để dạy riêng, không cho tôi đến trường học nghe giảng. Nếu tôi đến trường học nghe giảng thì Phương tiên sinh chẳng phải tiết kiệm được rất nhiều thời gian sao, hà tất chủ nhật hàng tuần phải dạy riêng cho tôi hai giờ đồng hồ. Đến sau này tôi vô vàn cảm kích. Ông là hộ pháp bảo hộ tôi. Ông sợ ở trường học, tôi quen biết nhiều lão sư, nhiều bạn học, nghe nhiều học thuyết xen tạp không cần thiết sẽ làm đầu óc rối tung, cho nên ông không cho phép tôi tiếp cận những giáo thọ khác, không cho phép quen biết với các bạn học. Khi tôi tiếp xúc Phật pháp, gặp được Đại sư Chương Gia cũng vậy. Đại sư Chương Gia chỉ dạy một mình tôi vào chủ nhật mỗi tuần trong hai giờ đồng hồ, ở phòng khách nhỏ của ông. Ba năm liền đều như vậy, nền tảng Phật pháp của tôi là do đại sư định đặt. Về sau thân cận lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam thì càng nghiêm khắc hơn. Ngoài ông giảng kinh thuyết pháp ra, ông không cho nghe bất cứ người nào giảng kinh thuyết pháp. Xem kinh Phật, xem sách vở khác phải được sự đồng ý của ông. Không chỉ có thế, trước đó tôi đã cùng với Phương tiên sinh học triết học, cùng Đại sư Chương Gia học Phật ba năm, đến khi gặp cư sĩ Lý, ông nói không thừa nhận những gì tôi đã theo học, bước vào cửa của ông thì phải học lại từ đầu. Giới hạn cho tôi năm năm, nhất định phải tuân thủ.

Bản thân tôi không giỏi gì, chỉ thành thật, nghe lời, nỗ lực học năm năm. Tôi rất tuân thủ phương pháp này của ông, nửa năm có lợi ích, chính mình liền có cảm xúc rất sâu, vọng niệm giảm. Nếu chúng ta không nghe, không thấy bất cứ thứ gì thì vọng niệm ít, sau khi vọng niệm ít thì trí tuệ phát triển, thông minh hơn lúc trước, nghe gì cũng được thông suốt, sâu sắc hơn, nhìn thứ gì cũng khác cách nhìn trước đây. Tôi rất cảm khích lão sư Lý. Ông yêu cầu năm năm, tôi tự tăng thêm gấp đôi, tuân thủ mười năm. Cho nên khi giảng kinh trên giảng đài, mười năm trước hoàn toàn chiếu theo quy củ, sau mười năm thì mới muốn sao làm vậy, tất cả đều trôi chảy. Mọi người hỏi: “Trí tuệ của ông từ đâu mà có?” Từ nền tảng xây tốt, lão sư khéo bảo hộ, tôi chân thật gặp được Hiền Hộ, đồng thời chính bản thân chịu tuân thủ.

Đào tạo lớp kế thừa

Nhiều năm đến nay, tôi hoằng pháp trên thế giới rất khổ cực, chỉ một mình, không có trợ thủ. Cho nên mỗi lần trở về Đài Loan, tôi đều về Đài Trung thăm lão sư. Gặp ông, tôi đều nhắc ông bồi dưỡng thêm vài học trò nữa thì tôi ở bên ngoài hoằng pháp mới có trợ thủ. Lão sư gật đầu nói “đúng, điều đó là cần thiết”. Tôi nhắc ông tổng cộng hơn chục lần, sau cùng lão sư nói với tôi “ông tìm học trò giùm tôi đi”, nghe câu trả lời này, về sau tôi không dám nhắc đến nữa, vì không tìm ra học trò. Tôi biết, tìm được người chịu nghe lời, thành thật phục tùng 100% như bản thân tôi đã từng, thật sự vô cùng khó, cho nên từ đó về sau không bao giờ dám nhắc đến nữa.

Đến khi gặp được lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ ở Washington DC thật như gặp được tri âm. Cả đời cụ ấy hoằng dương bộ kinh này, tôi cũng hoằng dương bộ kinh này, nên khi vừa gặp mặt là vô lượng hoan hỉ, như gặp bạn cũ. Chúng tôi trao đổi về sự gian nan hội tập của Hạ lão, hoằng truyền rất khổ cực. Tôi đem lịch sử của bộ kinh này ở Đài Loan kể với lão Hoàng Niệm Tổ nghe. Hoàng Niệm lão liền khích lệ. Tịnh Tông học hội do Hạ Liên công đề xướng, nhưng không thể gầy dựng ở Trung Quốc. Ông hy vọng chúng tôi ở nước ngoài phát khởi học hội Tịnh Tông. Cho nên học hội Tịnh Tông ngày nay là do lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đề xướng, khuyên bảo. Chúng ta ở nước ngoài có cái duyên này, đến khắp nơi thành lập học hội Tịnh Tông, lão Hạ rất hoan hỉ.

Nhận rõ chánh tà

Việc hộ pháp thật không dễ dàng. Chúng tathời đại này nhất định phải khéo giữ mình, bảo hộ chính mình. Mỗi ngày đọc tụng kinh điển, tư duy nghĩa kinh, y giáo phụng hành, thân khẩu ý ba nghiệp mới không phạm phải lỗi lầm. Khi có định huệ thì không thể bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển. Thế Tôn trong kinh Lăng Nghiêm nói thời đại này là thời kỳ mạt pháp, “tà sư nói pháp nhiều như cát sông Hằng”. Chúng ta có thể nhận biết ai là tà sư hay không? Sáu căn tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài, hễ cám dỗ, mê hoặc chúng ta, khiến chúng ta rời chánh pháp thì đó đều là tà sư. Ra chợ đi một vòng, xem qua một số sản phẩm mới, vừa nhìn thì liền động tâm, lòng tham khởi lên, tâm được mất xuất hiện, đó đều là tà sư. Không phải chỉ người ngồi nói chuyện mới là tà sư, mà những thứ bày ra trước mắt thảy đều là tà sư. Phim ảnh truyền hình, quảng cáo, thậm chí thời trang của giới trẻ với những chiếc áo có in hình yêu ma quỷ quái, đó đều là tà sư, làm cho chúng ta xem và động tâm

Tà sư lớn nhất, ma vương lớn nhất là truyền hình. Những tiết mục biểu diễn trong truyền hình đều bạo lực, sắc tình, yêu ma quỷ quái, khiến trẻ thơ nhỏ tuổi mỗi ngày xem thấy đều bị ma vương thả một lưới gom gọn. Đó là tà sư nói pháp.

Không có phương pháp nào để phòng bị, đặc biệt ở ngoại quốc ngày nay như nước Mỹ. Học sinh tiểu học Mỹ đã biết dùng máy vi tính, mỗi học sinh được trang bị vi tính riêng. Trong vi tính chứa đủ thứ, bất cứ tiết mục gì nó cũng đều có thể truy cập được, cho nên đầu óc nạp vô vàn thứ kỳ quái. Khi tiếp xúc nhiều, cha mẹ thầy cô không cách gì dạy. Nó hiểu nhiều hơn so với bạn, cho nên theo đó mà bắt chước. Mấy mươi năm trước, tiên sinh Đông Phương Mỹ từng nói, hiện nay nước Mỹ là nước mạnh nhất trên thế giới, nhưng tương lai nhất định sẽ bị diệt vong, không có nước nào vĩnh viễn dài lâu. La Mã cũng đã bị diệt vong.

Nhân tố đầu tiên gây ra sự diệt vong là gì? Phương tiên sinh không hề do dự mà nói “truyền hình”, lúc đó chưa có máy vi tính. Vi tính, truyền hình, vừa mở ra là tà sư nói pháp. Cho nên các hành giả, nếu chân thật muốn bảo hộ chính mình thì không xem báo chí, không nghe phát thanh, không xem truyền hình, nơi không cần thiết thì không nên đi. Đại đức xưa thường hay dạy bảoBiết ít phiền não ít”. Những việc không cần thiết để biết thì không nên đến nghe, không cần phải biết, tâm địa thanh tịnh, “người biết nhiều nơi, thị phi nhiều”, quen biết nhiều người thì thị phi sẽ nhiều.

Hoàn cảnh tu học thời xưa thường trong núi sâu. Các đạo tràng xưa ở Trung Quốc đều được xây dựng trong núi. Phải đi mấy ngày mới đến nơi. Nếu khôngthành ý sẽ không thể đi được. Cho nên đạo tràng tu học bấy giờ gọi là “Lan Nhã”, tiếng Ấn gọi là “A Lan Nhã”, dịch là chốn thanh tịnh. Hiện tại giao thông thuận tiện, đạo tràng lớn ở Trung Quốc đều mở lộ để đi, du khách tấp nập không ngừng. Đạo tràng trở nên khó tu hành vì bị biến thành thắng địa tham quan du lịch. Nếu đứng trên phương diện kinh tế, có thể nói rất tốt, đáng tán thành. Tuy nhiên đạo tràng chân thật tu hành cần phải xây dựng ở nơi không có người đi, chúng ta có thể xây đạo tràng, trường học, thôn về hưu cho người già. Từ lâu chúng tôi đã đề xướng đạo tràngthôn Di Đà”, mô hình mới của thế kỷ 21. Cứ để đạo tràng xưa làm nơi tham quan du lịch, nơi giáo dục phổ độ chúng sanh, như vậy mới vô lượng công đức.

Làm thế nào để hộ trì?

Hộ trì phải có định, huệ. Không có định huệ thì không thể nói đến hộ pháp. Phật là bậc đại trí tuệ, đại từ bi, phương pháp ngài dạy bảo chúng ta rất nhiều, chúng ta nỗ lực thể hội tâm ý của Phật hay một mảng khổ tâm của Phật, mỗi ngày đọc tụng thời khóa sớm tối, đọc Tứ Hoằng thệ nguyện để biết làm thế nào bảo vệ chính mình, làm thế nào khế nhập đại đạo Bồ Đề.

Nguyện thứ nhất dạy phát tâm Bồ Đề, “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Chúng ta phải phát ra tâm này, không vì chính mình. Thân thể chúng ta sống ở thế gian là vì ai? Nhiều người thường than trách “Cả đời vì ai mà khổ thế này?”, nghe rất bi ai. Khổ cực cả đời cuối cùng cũng chỉ một mảng không, đều phải cho người khác, không thể mang đi được. Mỗi ngày khổ cực khó nhọc buôn bán, sau cùng cũng rơi vào tay kẻ khác, cảm khái vô hạn. Còn người học Phật chúng ta thì không hề hấn gì. Chúng taPhật pháp, vì chúng sanh, thật nhiều ý nghĩa, nhiều giá trị. Vì tất cả chúng sanh mà sống ở thế gian này, vì Phật pháp, vì chánh pháp trường tồn thế gian, chúng ta làm công tác tiếp nối huệ mạng của Phật. Nếu có tâm niệm vì chính mình thì đó là sớm vãng sanh đến thế giới Tây phương cực lạc. Y chánh trang nghiêm trên kinh đã nói, hà tất phải ở thế gian chịu khổ. Giúp đỡ chúng sanh, tuy làm mà không làm, tuyệt đối không tính công, “phàm hễ có tướng đều là hư vọng”, tâm địa trong sạch thanh tịnh không nhiễm một trần, trong ngoài thông suốt, đó chính là trải qua đời sống của Phật Bồ tát, chúng ta phải phát ra tâm này.

Sau khi phát tâm đức hạnh thứ nhất, thì đức hạnh thứ hai là đoạn phiền não, “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”, nhất là danh vọng lợi dưỡng. Chúng ta phải buông bỏ năm dục sáu trần, tài sắc danh thực thùy, nhà Phật gọi là năm gốc rễ của địa ngục. Chỉ cần vướng một trong năm yếu tố vừa nêu sẽ không thể ra khỏi ba cõi, huống hồ cả năm điều. Mười phương chư Phật có kéo cũng không kéo nổi, cho nên nhất định phải hiểu, hiểu rồi thì đoạn phiền não trước tiên, sau đó đoạn trừ tập khí. Những phương pháp người thầy dạy chúng ta đều phương tiện khéo léo đoạn trừ phiền não tập khí, chúng ta phải vâng giữ và làm theo.

Có lẽ một số đồng tu sẽ cho rằng tôi có vận may gặp được những vị lão sư giỏi, nếu không gặp được, ai sẽ dạy tôi? Kinh Vô Lượng Thọ dạy là đủ, thậm chí còn chu đáo viên mãn hơn so với ba thầy giáo. Chúng ta chỉ cần tỉ mỉ đọc tụng, tìm hiểu, y dạy mà làm theo thì có thể thành đại thánh đại hiền, làm sao có thể nói không gặp được thiện tri thức? Ngày nay chúng ta gặp Phật A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ chính là Phật A Di Đà, kinh có mặt nơi đây cũng chính là Phật A Di Đà ở ngay nơi đây. Chúng ta có thể đọc tụng, y theo dạy mà làm, trở thành đệ tử thứ nhất của Phật A Di Đà. Việc này trên kinh giảng đã nói rất rõ ràng. Đệ tử thứ nhất của Phật A Di Đà rất siêu tuyệt, được tất cả chư Phật đều tôn kính, vì là học trò của Phật A Di Đà nên được đãi ngộ đặc biệt. Các vị Phật tôn kính Phật A Di Đà nên cũng chân thật tôn kính học trò của ngài. Còn tôn kính Phật A Di Đàxem thường học trò của ngài thì là đại bất kính. Sự tôn kính đó là giả. Chúng ta yêu thương một người, món đồ mà người đó thích, chúng ta cũng phải giữ gìn nó. Hiểu rõ đạo lý này mới biết phải làm thế nào, tu học ra sao, phiền não đoạn, trí tuệ lớn. Sau khi trí tuệ thêm lớn mới học pháp môn.

Pháp môn vô lượng thệ nguyện họchay nói cách khác, chúng ta nương theo một bộ kinh Vô Lượng Thọ, phải đem phiền não của chính mình đoạn hẳn. Kinh Phật dạy, việc nên làm thì hãy chăm chỉ nỗ lực mà làm; việc không nên làm, chúng ta nhất định không, đó mới là học trò tốt của Phật A Di Đà. Khi phiền não giảm, trí tuệ tăng thì mới học rộng nghe nhiều. Thực tế hoàn cảnh ngày nay của chúng ta không tốt, sáu căn tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài, không thứ nào không mê hoặc. Sức cám dỗ rất lớn, nếu không bị mê hoặc thì khi tái sanh, người đó nhất định không phải là người thường. Còn người bị mê hoặc, phải biết đó là người bình thường.

Không bình thường có hai loại người. Một là người không còn cảm giác, đần độn, không bị mê hoặc. Loại thứ hai là Phật Bồ tát tái sanh. Chỉ hai loại người này, ngoài ra không ai không bị mê hoặc bởi danh vọng lợi dưỡng, tài sắc danh thực thùy. Chúng ta thấy người bị mê hoặc phải sanh tâm thương xót, không nên trách cứ họ, vì họ là người bình thường, không phải phi thường. Khi chân thật giác ngộ, họ sẽ hồi đầu, bằng không thì sẽ tiếp tục mê, càng mê càng sâu, kinh Phật thường gọi “kẻ đáng thương”.

Chúng tôi thường hay khuyên một số đồng tu, một đời một kiếp này của chúng ta phải ôm chặt lấy bộ kinh Vô Lượng Thọ, một môn thâm nhập. Vậy lúc nào thì mới cần học rộng nghe nhiều? Khi đến thế giới Cực Lạc, học rộng nghe nhiều, vô lượng vô biên pháp môn. Còn chưa đến thế giới Cực Lạc thì chỉ nên một môn thâm nhập. Học tạp, học loạn sẽ không thể đến được Tây Phương Cực Lạc. Hiện nay, điều quan trọng hàng đầu của chúng ta là phải nắm chắc phần đến được Tây Phương Cực Lạc, nhất quyết vãng sanh. Cho nên hai nguyện đầu của Tứ hoằng thệ nguyện, chúng ta phải nỗ lực làm, thì hai nguyện sau đến thế giới Tây Phương Cực Lạc mới hoàn thành.

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành” là việc đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Hiện tại ngay trong đời này, chúng ta chỉ hay làm hai nguyện đầu. Phát đại tâm, đoạn phiền não đó là khéo giữ chính mình.

Chân thật Hộ niệm

Phật trong kinh này, khi vừa mở đầu đã đề ra cương lĩnh vô cùng quan trọng. Phần sau kinh văn, cương lĩnh này là khéo giữ gìn ba nghiệp. Khéo giữ khẩu nghiệp, không nói lỗi người. Chúng ta nhất định phải tuân thủ, người khác nói lỗi lầm của chúng ta, làm nhục, phỉ báng, hãm hại, thậm chí giết hại chúng ta, chúng ta dứt khoát không được oán hận. Không oán trời, trách người, không chút ý niệm oán hận, luôn giữ tâm thanh tịnh bình đẳng mới có thể giác ngộ.

Cũng như Ấn Quang Đại sư đã dạy, trong mạng chúng ta phải chịu nạn này, thì chúng ta nên cam tâm tình nguyện tiếp nhận để tiêu bớt tai ách, nghiệp chướng của chính mình. Người hãm hại, làm nhục, phỉ báng chúng ta không có tội. Không những không có tội mà còn có công đức. Vì sao? Họ thành tựu hạnh nhẫn nhục Ba La Mật cho chúng ta, tiêu tai thay chúng ta, đại ơn đại đức này chúng ta phải hoan hỷ. Nếu có tâm niệm thế gian như thù hận thì thật đáng sợ, oan oan tương báo không bao giờ dứt. Phật và Bồ tát, tâm luân hồitâm đạo, chỉ cách nhau trong một niệm. Chúng ta vừa chuyển thì tất cả thế gian này thảy đều là thiện tri thức, còn nếu không chuyển được thì ngay cả Phật Bồ tát cũng không phải là tri thức. A Di Đà Phật còn bị hủy báng, huống hồ chúng ta chỉ là đệ tử nhỏ của Ngài thì có đáng gì. Nhất định phải hiểu, quyết lấy đức báo oán, thành tựu đức hạnh, đạo nghiệp, đó là chân thật hộ trì chính mình. Cho dù người ta nói thế nào, chúng ta vẫn tán thán, luôn tri ân, báo ân.

Người hủy báng hãm hại chúng ta có ân tiêu nghiệp chướng thay chúng ta. Chúng ta không biết thì làm sao báo ân. Nghiệp chướng từ vô thỉ kiếp đến naychướng ngại tương lai vãng sanh. Sau khi tiêu trừ hết, vãng sanh sẽ không chướng ngại, tương lai có thể đứng mà vãng sanh, ngồi vãng sanh. Thậm chí có người giảng kinh, sau khi vừa giảng xong bộ kinh, chắp tay xá chào mọi người, vừa ngồi xuống thì đi ngay, tự tại vô cùng. Nghiệp chướng tiêu hết, chúng ta cũng có thể làm được như vậy. Do đó có người tiêu nghiệp chướng thay, chúng ta cảm kích còn không hết, báo ân còn không kịp. Không luận họ dùng bất cứ thủ đoạn nào cũng đều là đại ân nhân của chúng ta. Phật không dạy thì làm sao chúng ta biết được những việc này. Đó chính là thọ dụng của học Phật, là công đức lợi ích từ việc học Phật. Có được chút lợi ích, phải chung hưởng với mọi người, đều phải giác ngộ.

Cả đời tâm địa chúng ta thản nhiên, không lo buồn cũng không vướng bận, phiền não, trải qua ngày tháng tự tại, trong khi đó người thế gian, gương mặt mỗi người đều rất khổ. Ý niệm không chuyển đổi thì khổ xuất hiện. Khi đã chuyển đổi ý niệm thì được an vui. Cảnh giới của bản thân tôi mỗi năm một tốt hơn, mỗi năm xả được lại càng thanh tịnh hơn. Trước đây thính chúng cúng dường, mỗi ngày tôi mang về cả đống bao thư cúng dường, dần dần lấy từng cái ra, đếm hết nửa ngày, phiền não chết người. Bắt đầu từ năm ngoái tôi đã không nhận nữa. Tất cả sự cúng dường đều quy về thường trụ, một đồng cũng không lấy, rất tự tại, không cần phải đếm tiền nữa. Không tiền cũng rất hay, không còn ai hỏi quyên tiền xây chùa, đắp tượng Phật. Tôi cũng không có pháp. Nếu ai hỏi “pháp sư có kinh sách, băng thu âm, băng ghi hình không?” Không có, một cuốn cũng không có. Không có tiền làm, nếu ai cần thì đến cư sĩ Lâm, Học hội Tịnh Tông lấy. Bản thân tôi rất tự tại, an vui, vạn duyên buông bỏ, không nhiễm một trần.

Hiểu được hộ pháp, biết được làm thế nào để hộ pháp, chúng ta sẽ biết hộ trì chính mình, chính mình là hiền nhân, vào được Bồ tát vị, ở trong Phật pháp.

Nhìn nhận về hình tượng trong Phật giáo Trung Quốc

Phật pháp Trung Quốc đích thực vượt xa hơn Ấn Độ. Sau khi Phật pháp truyền đến Trung Quốc không những khai hoa kết trái mà còn vượt qua hơn rất nhiều so với Ấn Độ. Tổ sư đại đức nhiều đời Trung Quốc có rất nhiều vị là Bồ tát cổ Phật tái sanh, ứng hóa đến. Gần đây nhất, đại sư Ấn QuangBồ tát Đại Thế Chí từ thế giới Tây Phương Cực Lạc tái sanh. Lịch sử ghi chép đại sư Trí GiảThích Ca Mâu Ni Phật tái sanh, Vĩnh Minh Diên ThọA Di Đà Phật tái sanh, Bác Đại SĩBồ tát Di Lặc tái sanh, hòa thượng Bố Đại cũng là Bồ tát Di Lặc tái sanh. Phật Bồ tát ứng hóa ở khu vực Trung Quốc đời đời đều xuất hiện. Việc ái hộ này cũng có đạo lý.

Người ở khu vực Trung Quốc dễ dàng giác ngộ, hơn nữa người giác ngộ lại rất nhiều, cho nên mới có cảm ứng tương thông với Phật Bồ tát. Đạo tràng của Trung Quốc không giống đạo tràng Ấn Độ. Đến Trung Quốc, bước vào điện Phật giáo được xây dựng chính qui, kiến trúc đầu tiên là điện Thiên Vương. Trong điện Thiên Vương thờ thần Hộ Pháp, dạy chúng ta giữ gìn chính mình. Trong Phật giáo không có một chút mê tín. Giáo dục trăm ngàn năm trước của Phật giáo đã đi đến nghệ thuật hóa cao độ, đem nghệ thuật cùng giáo học tập hợp thành một thể. Giáo dục hiện tại vẫn chưa tròn đầy. Phật pháp chúng ta mấy ngàn năm trước đã làm được, không phải là trí tuệ cao đẳng thì không thể làm được. Nếu chúng ta có thể lý giải, có thể thông đạt, không những không cô phụ khổ tâm của tổ sư đại đức, hơn nữa còn phải đem nó mở mang rộng lớn, phổ độ tất cả chúng sanh trên toàn thế giới. Cho nên giáo học của Phật pháp nhất định không phải dùng lời nói.

Điện Thiên Vương thờ cúng năm hình tượng của Phật Bồ tát.

Thứ nhất là Di Lặc Bồ tát. Vừa bước vào cửa chùa, vị đầu tiên đối diệnBồ tát Di Lặc. Hình tượng Bồ tát Di Lặc không phải là người Ấn Độ, mà tạo hình tượng hòa thượng Bố Đại. Tượng Bồ tát Quan Âm đầu đội mão Tỳ Lư. Nếu đến cung Doanh Hòa ở Bắc Kinh, xem tượng Bồ tát Di Lặc, không ai nhận ra ngài vì thấy giống Văn Thù, Phổ Hiền. Do chúng ta đều quen hòa thượng Bố ĐạiBồ tát Di Lặc, nên ngài biến ra một thân khác thì chúng ta không nhận ra. Ý nghĩa hình tượng hòa thượng Bố Đại biểu thị rất rõ ràng, cái bụng to dạy chúng ta độ lượng phải lớn, phải bao dung. Nhà Phật thường giảng “tâm bao thái hư, lượng khắp pháp giới”. Bồ tát Di Lặc hiện ra ý này, bất cứ thứ gì cũng đều có thể bao dung.

Nếu muốn học Phật, việc thứ nhất phải mở rộng tâm lượng. Tâm lượng nhỏ không thể học Phật. Thứ hai là miệng thường nở nụ cười, mặt cười đón người, đó là biểu thị từ bi, Phật pháp gọi “Từ bi là gốc, phương tiện là cửa”. Di Lặc hòa thượng Bố Đại để ngay ở tâm, chính là dạy chúng ta bước vào cửa Phật lấy từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa. Sanh tâm bình đẳng, thành tựu tướng an vui, không luận đến bất cứ nơi đâu, một mảng hoan hỉ hiển lộ ra đại từ đại bi. Sau hình tượng Bồ tát Di Lặc, hai bên là Tứ Đại Thiên Vương.

Thứ hai là Đông Phương Trì Quốc Thiên Vương. Danh hiệu này là biểu pháp. Trì là giữ gìn, Quốc là quốc gia. Hàm nghĩa trong hai chữ Trì Quốc là làm thế nào có thể bảo trì cả đời này của chính mình, thành tựu đạo đức học vấn của chính mình mà không bị hư hại. Giữ gìn bản thân, giữ gìn cả nhà hạnh phúc mỹ mãn, giữ sự nghiệp được thành công thuận lợi, giữ xã hội an định phồn vinh, giúp quốc gia giàu mạnh, thúc đẩy thế giới hòa bình, ý nghĩa đều bao hàm trong Trì Quốc Thiên Vương. Ý nghĩa đó viên mãn dường nào. Chúng ta nhìn thấy ngài liền nghĩ ngay đến những việc này. Ngài dạy chúng ta then chốt nguyên tắc tu hành, biểu thị ở điểm nào? Trên tay cầm đàn tỳ bà, đó chính là sự biểu thị. Nếu muốn đạt đến mục tiêu trên, nhất định phải học trung đạo. Tỳ bà biểu thị trung đạo, sợi dây đàn nếu chùng thì không kêu, căng thì bị đứt, cho nên nhất định phải chỉnh vừa thích hợp, âm luật mới có thể phát ra, không phải Trì Quốc Thiên Vương mỗi ngày thích đàn tỳ bà, hiểu vậy là sai. Ngài dùng phương pháp biểu thị để nhắc nhở chúng ta hành trung đạo. Nhà Nho gọi là trung dung. Đối nhân xử thế tiếp vật, nhất định phải vừa vặn thích hợp, không nên quá đáng, cũng không được bất cập, đều là biểu thị trên cây đàn Tỳ Bà. Hiểu được ý nghĩa này, chúng ta vừa nhìn thấy ngài thì chẳng phải đã học qua một bài học rồi sao?

Thứ ba là Nam Phương Thiên Vương. Còn gọi là Tăng Trưởng. Tăng trưởng chính là tiến bộ, đức hạnh mỗi năm phải tiến bộ, trí tuệ cũng mỗi năm thêm lớn, thậm chí năng lực, phẩm chất đời sống của chúng ta đều phải nâng cao mỗi ngày. Phật pháp không lạc hậu, Phật pháp luôn cầu tiến, cho nên Nam Phương Thiên Vương đại biểu tinh tấn. Nhà Nho có câu “một ngày mới, ngày ngày mới, lại ngày mới”, Phật pháp gọi là “dõng mãnh tinh tấn”. Có người nghe nói “Phật pháp phải đi kịp thời đại”, cảm thấy rất đau lòng. Phật pháplãnh đạo thời đại thì tại sao phải theo kịp thời đại?. Phật pháptrí tuệ cứu cánh viên mãn, chỉ đạo thế giới này, mãi mãi Phật pháp đứng ở đoạn đầu của thời đại.

Ngày nay Phật pháp hư hại. Bốn chúng đệ tử chúng ta phải chịu trách nhiệm, rất hổ thẹn. Chúng ta chưa dốc hết trách nhiệm, không đem Phật pháp chân chánh truyền bá với mọi người, làm cho xã hội đại chúng sinh ra hiểu lầm nghiêm trọng. Đó là chúng ta chưa dốc hết bổn phận của người học trò. Do đó mỗi ngày chúng ta phải cực lực đề xướng. Hiện tại tuổi tác tôi đã cao, tuy thể lực không tệ, nhưng không thể được như trước. Mười năm trước, một ngày tôi giảng tám đến chín giờ không mệt, hiện tại nếu một ngày giảng bốn giờ đồng hồ thì cảm thấy có chút mệt, ba giờ vẫn còn được. Cho nên Phật pháp quan trọng nhất phải có người tiếp nối. Chúng ta phải toàn tâm toàn lực bồi dưỡng nhân tài, đem mấy mươi năm kinh nghiệm đã học của chính mình cung cấp cho các vị đồng tu làm tham khảo, hy vọng người đi sau vượt hơn người đi trước, mới có thể dẫn dắt thế giới này, khiến cho thế giới chân thật đạt đến bình đẳng an định cùng tồn tại. Phật phápmôn học hữu dụng, là giáo dục chí thiện viên mãn, không phải mê tín dù chỉ một chút.

Trên tay Tăng Trưởng Thiên Vương cầm một cây bảo kiếm. Kiếm biểu thị trí tuệ. Trên tay Bồ tát Văn Thù cũng cầm một cây bảo kiếm. Kiếm huệ đoạn phiền não. Nam Phương Thiên Vương cũng dạy chúng ta ý tương tự. Giáo học của hai vị Thiên Vương này tương đối viên mãn.

Thế nhưng chúng ta phải bắt tay từ đâu? Chính là Tây Phương Thiên Vương cùng Bắc Phương Thiên Vương dạy chúng ta phương pháp hạ thủ.

Thứ tư là Tây Phương Thiên Vương, gọi là Quảng Mục, ngôn ngữ hiện nay là quan sát khảo sát. Chúng ta nhìn người khác, rút kinh nghiệm, sở trường của người khác, cải chính khuyết điểm của họ. Tây Phương Thiên Vương bảo chúng ta xem nhiều, phải có trí tuệ nhìn qua xã hội vốn vô cùng phức tạp, biến hóa khôn lường. Đạo cụ trên tay ngài là rồng hoặc rắn. Rồng rắn biểu thị nhiều biến hóa, liên tục thay đổi. Xã hội thay đổi phức tạp, cho nên một tay ngài cầm con rồng, tay kia cầm hạt châu. Có nghĩa, trong biến hóa chúng ta vẫn vững tâm. Hạt châu biểu thị bất biến, rồng tùy theo hạt châu mà biến đổi. Cũng vậy, chúng ta phải chuyển cảnh giới, không để bị cảnh giới xoay chuyển, vậy là cao minh. Không thể tùy theo nó chuyển mà phải bảo nó chuyển theo mình, có như vậy giáo học của chúng ta mới liền thành tựu. Ngay trong biến hóa biết nắm vững nguyên lý, đó chính là ý nghĩa của hạt châu.

Thứ năm là Bắc Phương Thiên Vương, gọi là Đa Văn Thiên Vương, nghe nhiều hơn nói nhiều. Nếu muốn thành tựu trí tuệ, hành giả phải đạt đến mục tiêu trên, thấy nhiều nghe nhiều. Thực tế hai vị Thiên Vương này biểu thị ý nghĩa mà nhà Nho Trung Quốc thường nói “đọc vạn quyển sách đi vạn dặm đường”, đi vạn dặm đường để tham quan khảo sát, thành tựu học vấn chân thật cho chính mình.

Năm xưa, khi tôi học tập triết học với tiên sinh Đông Phương Mỹ, ngài thường nói: người học triết học nhất định một lần phải ngồi phi cơ bay lên cao, sau đó nhìn xuống thế giới nhỏ bé mà lĩnh ngộ. Hiện tại chúng ta có quá nhiều cơ hội ngồi phi cơ, từ phi cơ nhìn xuống, đích thực mọi thứ quá nhỏ bé. Sâu sắc thể hội đạo lý này, cho nên phải đọc nhiều kinh sách, sách sử, nhằm rút kinh nghiệm cả thành công lẫn thất bại. Quốc gia hưng vượng có đạo lý của sự hưng vượng, quốc gia diệt vong tuyệt nhiên cũng có nhân tố của nó, thịnh suy của một gia đình cũng có đạo lý nhất định, và thành tựu hay thất bại của một cá nhân vẫn có nguyên lý. Đọc lịch sử phải hấp thu được sự thật, có tầm nhìn lịch sử thì chúng ta mới thấy được sâu, được xa. Đọc kinh sách thành tựu học vấn trí tuệ, có năng lực ứng phó vấn đề, giải quyết vấn đề, nhưng đọc lịch sử là để nắm vấn đề, đó là học vấn chân thật.

Bắc Phương Thiên Vương trên tay cầm một cây dù. Dù dùng để phòng ngự ô nhiễm, đặc biệt tâm địa ô nhiễm. Tâm chúng ta vốn dĩ thanh tịnh, khởi tham sân si mạn, thì tâm địa liền bị ô nhiễm. Tinh thần ô nhiễm, tư tưởng ô nhiễm, kiến giải ô nhiễm, cho nên ý nghĩa của cây dù là phòng ngự ô nhiễm. Chúng ta phải tường tận ý nghĩa những tượng được thờ cúng trong nhà Phật. Tượng Phật, Bồ tát, A La Hán, thiên thần thảy đều hàm nghĩa giáo dục, nghĩa thú giáo dục rất sâu. Không phải họ cúng thần, bảo mọi người đến đó bái thần, mà mục đích sau khi nhìn thấy các ngài, chúng ta khai mở trí tuệ, liền biết nên làm thế nào. Nhiều thần tượng Phật Bồ tát Hộ Pháp Chư Thiên bày ra trước mắt nhằm dạy chúng ta mỗi ngày không cần nói câu nào, ngay nơi đó liền được Phật pháp viên mãn tròn đầy.

Cho nên khi vừa mở kinh ra, nhất định phải liệt kê danh hiệu các đại đức. Người thông minh lanh lợi vừa thấy tên của các vị này thì không cần phải xem kinh cũng biết kinh nói gì. Nội dung kinh chính là sự biểu hiện của các vị này. Nếu đã hiểu thì cần gì phải nói câu nào, hơn nữa còn thể hội được vô cùng sâu sắc, đó gọi là Hộ Pháp Thiên Vương. Hộ là hộ vệ chính mình, không phải hộ người khác.

Giáo dục Phật pháp theo mọi hoàn cảnh

Tự viện của Trung Quốc đại lục ngày càng nhiều du khách đến. Nếu có hướng dẫn viên giỏi, hoặc những pháp sư trong đạo tràng thông suốt, tường tận, mỗi ngày có thể giảng giải cho du khách tham quan du lịch thì đó là cơ hội giáo dục tốt. Bình thường nếu tìm đến họ để giảng Phật pháp, chưa chắc họ sẽ nghe. Cơ hội gõ cửa, chúng ta nên cố gắng giáo huấn để khi quay về, họ xuất tiền cúng dường chúng ta cũng không uổng phí vì chúng ta xứng đáng với họ.

Họ cúng dường tài vật cho chúng ta, chúng ta cúng dường pháp cho họ. Những Am Đường Tự Viện cổ xưa đều có thể giáo hóa. Trên toàn thế giới, từ cơ hội này mà giáo dục. Tôi nghĩ tương lai giáo trình Phật học ở những nơi này phải nên xem trọng. Phật giáo có thể lợi dụng cơ duyên mở mang rộng lớn để những người ngoại quốc đến tham quan biết được Trung Quốc đích thực có văn hóa, có học vấn, có trí tuệ. Người ngoại quốc có nằm mộng cũng không nghĩ rằng có hộ pháp.

Tháng năm năm trước tôi đến Bắc Kinh, thăm viếng đại học sư phạm Bắc Kinh, tôi cũng đã nhắc qua các vị đồng tu vài lần. Trong đại học Bắc Kinh có một tấm biển, dựng ngay ở cửa ra vào một phòng của trường học, trên viết “học vi nhân sư, thân vi thế phạm”. Vị hiệu trưởng nói, tám chữ này là tập thể giáo viên của trường đồng tán thành. Tôi xem thấy rất hoan hỉ nói với hiệu trưởng, tám chữ này chính là “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh”. Họ nghe xong đều rất kinh ngạc. Một bộ kinh Hoa Nghiêm chính là giảng nói tám chữ này, dạy người làm thầy, làm mô phạm. Thầy là gì? Thầy là gương mẫu, mô phạm, là tấm gương.

Phật là đại đạo sư, đệ tử Phật là mô phạm cho trời người. Hay nói cách khác, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm của chúng ta, phải đắn đo xem có thể làm gương cho đại chúng trong xã hội hay không? Mỗi niệm nghĩ đến đại chúng xã hội thì chúng ta sẽ không thể làm sai. Sau khi xem thấy tám chữ này, tôi bước vào trong trường học. Tiếp đãi tôi ngòai hiệu trưởng giáo thọ còn có đại biểu của học sinh, họ muốn tôi giảng mấy lời. Tôi vừa xem đề mục này liền nghĩ ngay đến giáo huấn của cổ thánh tiên hiền Trung Quốc. Cho nên ngay lúc đó tôi nêu ra vấn đề.

Hiện tại vấn đề xã hội tương đối nghiêm trọng. Người lớn thường hay oán thán rằng con cái không nghe lời dạy bảo, học trò không nghe lời thầy giáo, công nhân không nghe lời và gây nhiều khó khăn cho ông chủ. Chúng ta nên nhắm vào vấn đề này, tìm hiểu nguyên nhân do đâu. Tôi phân tích cho họ, Khổng Lão Phu Tử dạy học, trong đó có một câu nói rất ấn tượngTác Quân, Tác Thân, Tác Sư”. Khi còn nhỏ, tuổi thơ của tôi ở Phước Kiến, tôi học tiểu học ở Kiến Âu. Vào lúc đó mỗi gia đình ở Phước Kiến đều cúng bài vị tổ tiên. Trên bài vị tổ tiên đều viết “Thiên Địa Quân Thân Sư”. Cho nên nhà Nho dạy chúng taTác Quân, Tác Thân, Tác Sư”. Giáo học này không đặt định đối tượng, mà là phổ biến tất cả. Phật pháp càng như vậy.

Phật pháp dạy tất cả chúng sanh làm Phật, không đặt định người này phải làm Phật, người kia làm Bồ tát, mà là phổ biến dạy người làm Phật, làm Bồ tát. Nhà Nho dạy mỗi người đều phải tác quân, tác thân, tác sư. Thông đạt ý nghĩa này, con cái, học trò của chúng ta sẽ biết nghe lời, công nhân nhất định sẽ biết phục tùng ông chủ. Ngày nay vấn đề xảy ra là do trong ba chữ, chúng ta thường chỉ làm được một, còn hai chữ khác không làm được. Vì sao con cái không nghe lời? Vì chúng ta chỉ làm được chữ Thân. Chúng tacha mẹ ruột của con cái, làm được chữ thân, còn trách nhiệm của Sư là dạy bảo chúng thì chưa làm hết, trách nhiệm của chữ Quân là lãnh đạo chúng cũng chưa làm xong. Làm cha mẹ ruột, chúng ta phải dạy bảo con cái mình, lấy mình làm gương. Trẻ nhỏ đều học từ cha mẹ, tấm gương của chúng. Cha mẹ tâm chánh, việc làm chánh, từ nhỏ chúng đã nhìn thấy gương tốt này, lớn lên làm sao có thể làm càn làm quấy. Cho nên là bậc cha mẹ, khi đối mặt với con cái, làm người thân của chúng cũng phải làm thầy giáo, làm lãnh đạo của chúng. Ba chữ này nếu làm được tròn đầy, gia đình liền được mỹ mãn, vấn đề liền được giải quyết.

Cũng đồng đạo lý như vậy, ở trường học làm thầy giáo, chúng ta chỉ làm được một chữ Sư, không làm được chữ Thân, cũng không làm đến được Quân. Nếu thảy đều làm được ba chữ này, học trò làm gì có chuyện không thương yêu thầy giáo. Chúng tôi là học trò lưu vong vào thời kỳ kháng chiến, đối với thầy giáo hiệu trưởng, cả đời cảm ân đội đức, rời khỏi thầy giáo vài chục năm nhưng lời của thầy không dám trái phạm. Vì thầy giáo làm được cả ba chữ, họ thương yêu học trò như con cái không hề khác, quan tâm, chăm sóc, toàn tâm toàn lực giúp đỡ không luận ở phương diện nào, họ cũng là lãnh đạo tốt nhất của học trò.

Nếu là ông chủ của một xí nghiệp, chúng ta là người lãnh đạo công nhân, có thể xem công nhân như anh chị em hoặc con cái của chính mình, thương yêu chăm sóc, hiệp trợ họ, giúp họ giải quyết khó khăn. Có như vậy, công nhân nhất định tận trung với chúng ta. Chúng ta làm thầy của họ, mỗi cái đều dạy bảo họ, chứ không chỉ riêng là lãnh đạo. Ba chữ này là một thể, không thể phân ra. Chân thật làm đến được “Quân, Thân, Sư”, chúng ta chính là tấm gương tốt cho xã hội, làm thầy, và làm mô phạm.

Tôi xem tám chữ liền nghĩ đến ý nghĩa này, liền đem chút cách nhìn, chút tâm đắc cúng dường cho trường học, do đó trường học có ấn tượng rất tốt đối với tôi. Năm đó là dịp kỷ niệm 95 năm thành lập trường, cũng là dịp kỷ niệm sư phạm Trung Quốc tròn 100 năm tuổi. Trường tổ chức đại lễ long trọng, đặc biệt phát thiệp mời gởi đến tôi. Thế nên đó đều là chân thật hộ trì chính mình, chân thật là thâm nghĩa bao hàm ở trong Hiền Hộ, chúng ta nhất định phải hiểu, phải thực tiễn, cố gắng mà làm.

● “Hiền Hộ Chánh Sĩ”

Chánh Sĩ là tôn xưng Bồ tát. Chánh là chánh tri chánh kiến, Chánh Đẳng Chánh Giác. Sĩ, dùng ngôn ngữ hiện đại mà nói, chính là phần tử tri thức, tôn xưng người có đạo đức, có học vấn. Chánh Sĩxưng hô riêng với Bồ tát. Trong nhà Phật quen gọi Bồ tátĐại Sĩ, như chúng ta gọi Quan Âm Đại sĩ, Văn Thù Đại sĩ, Phổ Hiền Đại sĩ. Bồ tátĐại sĩ, cũng có thể gọi là Chánh Sĩ, Khai Sĩ. Khai sĩkhai ngộ, Minh Tâm Kiến Tánh gọi là Khai Sĩ, đều là tôn xưng với Bồ tát. Tuy nhiên không thể gọi Đại sư, sư của lão sư.

Đại Sư là tôn xưng đối với Phật, không được gọi hàng Bồ tátĐại sư. Chúng ta làm pháp sư, mọi người gọi là Đại Sư, như vậy địa vị chúng ta há trên cả Văn Thù Phổ Hiền, Quan Âm Thế Chí?. Văn Thù Bồ tát phải đảnh lễ ba lạy đi nhiễu phía hữu ba vòng, liệu ai có thể gánh vác nổi hay không? Do đó vạn lần phải ghi nhớ, đó không phải là tôn kính, mà là mắng người. Giả sử người ta đi trên đường nhìn thấy bạn, xá chào một cái, gọi bạn là tổng thống tiên sinh. Bạn không phải là tổng thống mà gọi bạn là tổng thống tiên sinh, chẳng phải mắng bạn hay sao. Cho nên danh xưng không thể quá trớn, cũng không thể bất cập. Thông thường làm gì có thể gọi Đại Sư.

Ấn Quang Đại sư được người sau tôn xưng. Lúc ngài còn ở đời, những năm đầu in Văn Sao đều ghi “Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao”. Tổ sư đại đức các tông phái nhiều đời của Trung Quốc không hề xưng là Đại Sư. Thầy giáo của Hoàng Đế gọi là Quốc sư. Các tông, các phái thì gọi là Tổ sư, không hề xưng Đại sư. Thông đạt Tam Tạng, pháp sư dịch kinh thì gọi Tam Tạng pháp sư, cũng không hề xưng Đại sư. Chúng ta cần phải cẩn thận cách xưng hô này. Mọi người thấy tôi gọi là “Tịnh Không Đại sư”, đó là mắng người, nhất định phải giải thích cho họ rõ ràng. Không nên xưng hô như vậy, cách xưng hô như vậy là sai lầm. “Đại sư” chỉ được xưng hô đối với Phật.

Ngoài ra có một đặc thù, chỉ một người có thể được gọi là Đại sư, đó là tổ sư của Tịnh Độ tông, vì trong Phật môn chúng ta công nhận. Pháp mà tổ sư Tịnh Độ tông truyền ra cùng chư Phật Như Lai không hề khác nhau, khuyên người niệm A Di Đà Phật nhất định vãng sanh bất thoái thành Phật. Việc này cùng với mười phương tất cả chư Phật Như Lai, thủ pháp độ chúng sanh không hề khác. Chỉ có tổ sư Tịnh Độ tông mới có thể gọi là Đại sư. Thế nhưng tổ sư của Tịnh Độ tông đến khi đã viên tịch mới được mọi người trong Phật môn công nhận ngài. Cả một đời tu học hoằng dương Tịnh Độ, có cống hiến vô cùng to lớn nên mới gọi là tổ sư của Tịnh Độ tông. Pháp sư Ấn Quang ở đời, không có người nào gọi ngài là tổ sư của Tịnh Độ tông. Sau khi viên tịch, nhà Phật mới tôn xưng ngài là tổ sư đời thứ mười ba của Tịnh tông. Nếu khi còn sống gọi ngài là Đại sư thì không được. Sau khi viên tịch, do người thế gian công bình mới gọi ngài là Đại sư.

Tổ sư Tịnh tông khác với các tổ sư tông phái khác. Tổ sư các tông phái khác là đời đời nối nhau, một đời truyền lại một đời. Còn Tịnh Độ tông là toàn thiên hạ dân chủ chọn ra, cho nên họ không giống nhau. Họ là dân chọn, được dân công nhận, không phải một đời truyền lại một đời. Ít thường thức này, chúng ta phải biết.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25764)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37940)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19704)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18803)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14389)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20209)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9580)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14439)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35705)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10729)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19808)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23291)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13431)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10806)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20320)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10691)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 10040)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14945)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17773)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17704)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13249)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31262)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25894)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 14043)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17587)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 11051)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12360)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10530)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12346)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11851)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9675)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12422)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9260)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8548)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 10028)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9803)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12108)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14543)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9959)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11264)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8356)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 11052)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14196)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9971)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15291)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13164)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23186)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 24141)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12678)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15529)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17889)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15158)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16647)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16223)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17769)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11683)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11711)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17946)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10881)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10568)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11413)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12140)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11111)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36498)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 9028)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9750)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34815)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17356)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10307)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10536)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12259)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13729)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14754)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9216)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24959)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11707)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10382)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 16035)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15663)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14600)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13086)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12522)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14649)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18443)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9634)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18629)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18713)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19145)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18954)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11876)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13413)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 48046)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11128)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13625)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13116)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11171)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12640)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11098)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31899)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11751)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant