Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 12

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10105)
Phần 12


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 12)

 

Pháp Sư Tịnh Không

Thứ tư “Đại chúng sanh khổ cúng dường”, kinh Phật đã nói, tất cả chúng sanh thọ dụng của cả một đời đều là tự làm tự chịu. Không ai có thể thay thế cho ai. Thế nhưng ngay trong “không thể thay thế”, cũng có điểm gần giống thay thế. Chư Phật Như Lai, pháp thân đại sĩ, các ngài đã siêu việt mười pháp giới, có thể không cần đến, nhưng vì sao còn trở lại mười pháp giới, còn trở lại sáu cõi, thậm chí trở lại ba đường? Đó là tùy loại hoá thân, như trong Phổ Môn Phẩm đã nói: “đáng dùng thân gì để độ, ngài liền hiện thân đó để độ; đáng dùng thân người để độ, ngài liền hiện thân người; đáng dùng thân Phật, ngài liền thị hiện thân Phật; đáng dùng thân súc sanh, ngài liền hiện thân súc sanh; thậm chí đáng dùng thân cỏ cây thì ngài liền hiện thân cỏ cây”. Vậy khi thọ thân này, ví dụ, Phật Bồ Tát đến thế gian thọ thân người, cũng trụ thế mấy mươi năm như Thích Ca Mâu Ni Phật, giảng kinh nói pháp suốt 49 năm.

Thế Tôn ở đời cũng có đời sống giống y chúng ta, thậm chí còn khổ cực hơn, mỗi ngày phải ra ngoài khất thực. Ngài có thể không cần phải chịu như vậy, nhưng ngài bằng lòng nhận chịu đời sống này, làm ra một tấm gương để chúng ta xem, “thay chúng sanh chịu khổ”. Đó đều là mong muốn cho tất cả chúng sanh giác ngộ. Trong thế gian, chúng sanh mê hoặc điên đảo không hiểu rõ chân tướng sự thật, ngày ngày tranh danh đoạt lợi, tạo tác vô lượng vô biên tội nghiệp, về sau rơi vào ba đường chịu khổ, thử hỏi có oan uổng không. Cho nên Thế Tônchúng ta thị hiện, người ta muốn danh, muốn quyền lực, muốn địa vị, còn ngài là một vương tử, thứ nào mà chẳng có. Địa vị quốc vương, quyền lực lớn nhất trong một nước, không ai sánh bằng, tài sản của ngài, người xưa thường nói “quý vi thiên tử, phú hữu tứ hải”. Những thứ người khác muốn tranh giành thì ngài đã có đầy đủ, ấy vậy mà ngài xả bỏ tất cả. Đó chính là nói với chúng ta, những thứ đó đều là giả, không phải thứ tốt. Thứ tốt nhất là tu hành. Ngài chân thật làm ra tấm gương dạy bảo chúng ta. Nếu bản thân ngài không làm được, thì có dạy chúng ta nhìn thấu buông bỏ, làm sao chúng ta tin tưởng. Ngài đã làm được, thậm chí viên mãn, chúng ta không thể không tin tưởng, học tập theo.

Ngày nay, không ít người giàu có, nếu như bạn có thể đem đời sống giàu có của mình hạ thấp xuống một bậc, bạn đem tiền của đi bố thí, đi giúp đỡ chúng sanh khổ nạn, đời sống của bạn hạ xuống một bậc đồng nghĩa với khổ hơn, nhưng đó là hạnh “thay chúng sanh chịu khổ”. Cư sĩ Liễu Phàm trong Liễu Phàm Tứ Huấn đã viết, vợ chồng Viên Liễu Phàm cứ mỗi mùa đông, họ may quần áo cho con cái nào là áo bông, áo len,… ông liền nghĩ đến những người nghèo không có áo ấm mặc. Ông đem bán áo bông để làm áo gòn, như vậy thì một bộ có thể đổi được ba bốn bộ, người trong nhà không thiếu mà còn có thể dư ra bố thí cho người khác, “thay khổ cho chúng sanh”. Cho nên chúng ta ở trong cuộc sống, tiết kiệm một chút, chịu khổ một chút thì có thể giúp đỡ chúng sanh một chút. Người hay giữ tâm này chính là người có hạnhh “thay chúng sanh chịu khổ”. Chúng ta cũng phải luôn giữ tâm này. Thế gian người khổ rất nhiều, đời trước chúng ta tu được chút phước, không nên hưởng hết ngay trong đời này, phải biết không ngừng tiếp tục tu phước thì phước báu của chúng ta không thể cùng tận, ngược lại phước báu sẽ kéo dài.

Thời xưaẤn Độ, Trung Quốc, đệ tử nhà Phật không luận tại gia xuất gia, rất nhiều người tu khổ hạnh. Không phải họ không thể cải thiện đời sống của chính mình, mà chính là mỗi niệm họ đều nghĩ đến thế gian vẫn còn nhiều chúng sanh khổ. Trong số người xuất gia đầu năm Dân quốc, lão hòa thượng Hư Vân, đại sư Ấn Quang là tấm gương tốt của người xuất gia chúng ta. Hai vị đại đức này đều rất tuyệt vời, tín đồ của các ngài rất đông, cúng dường các ngài rất phong phú. Thế nhưng lão hòa thượng Hư Vân chưa từng may một bộ quần áo mới nào. Hiện nay còn lưu giữ nhiều hình chụp của lão hòa thượng, quần áo mặc trên người đều đắp vá rất nhiều chỗ. Tôi chưa từng thấy tấm hình nào của ngài mà quần áo không đắp vá. Thực ra ngài có nhiều quần áo mới, người ta nhìn thấy lão hòa thượng mặc quần áo rách liền lập tức đưa quần áo mới đến, chất liệu tốt, vải đẹp, kỹ thuật may cao, nhưng lão hòa thượng đã làm gì với số quần áo mới đó? Xem cũng không xem qua, khi tín đồ đi, lão hoà thượng liền đem cúng dường người khác, những bậc sơ học, người mới tu không có ai cúng dường. Còn bản thân lão hòa thượng, ngài vẫn mặc đồ rách cũ, “chịu khổ thay cho chúng sanh”.

Đại sư Ấn Quang nhận cúng dường cũng nhiều, lão hoà thượng cũng đem tất cả đồ cúng dường phục vụ công việc hoằng pháp lợi sanh. Cả đời đại sư chỉ làm công việc như vậy, thật gọi là một môn thâm nhập. Ngài ở chùa Báo Ân Tô Châu thành lập một Hoằng Hóa Xã, là nơi lưu thông kinh Phật. Ngài đem cúng dường của mười phương xây dựng thành nguồn vốn in sách biếu tặng, rồi đến khắp nơi kết duyên với người. Sách của Hoằng Hóa Xã in rất đẹp, có thể gọi là sách thiện, hiệu đính kỹ lưỡng, rất ít chữ sai, rất rõ ràng, khổ sách rộng, đẹp mắt. Cả đời ngài chỉ làm một việc như vậy, làm sao chúng ta biết? Đó là lúc ngài ở Thượng Hải “Hộ Quốc Tức Tai Pháp Hội”, trong lúc diễn giảng, lão hòa thượng nhắc đến phương Bắc vừa gặp tai nạn, ngài trích từ tài khoản in kinh ra 3000 tiền đại dương đi cứu trợ. Cứu trợ của ngài lấy từ quỹ in kinh, do đây có thể biết tất cả tiền của ngài, từng li từng tí đều phục vụ công việc in kinh bố thí, không hề đem đi làm việc khác. Đời sống của lão hòa thượng vẫn y như mọi người, không hề cải thiện. Không hề ăn một chút gì đó ngon hơn, không hề may một bộ đồ mới nào, cũng không hề chỉnh lý hoàn cảnh nơi ở của mình. Người cúng dường tiền rất nhiều, nhưng ngài vẫn trải qua ngày tháng cực khổ, vĩnh viễn không quên “thay chúng sanh chịu khổ”.

Chúng ta giảm bớt một phần hưởng thụ liền giảm bớt một phần chúng sanh khổ, đó là điều chúng ta nên học tập. Nếu thường giữ tâm này, thường làm việc này, chúng ta đời đời kiếp kiếp đều sẽ không có khổ nạn. Bạn có thể “thay chúng sanh chịu khổ” thì làm sao bạn có cái khổ. Xã hội hiện tại nhiều người khổ nạn, người bệnh khổ càng đáng thương, và nhất là những người cùng khổ bị bệnh, cho nên không ít đoàn thể tôn giáo làm từ thiện, xây bệnh viện, bố thí thuốc men. Xã hội hiện đại giàu có, quốc gia luôn có những chính sách chăm sóc điều trị đối với nhân dân, ngoài ra mỗi người đều chú ý việc dự phòng bệnh tật cho chính mình. Họ thủ một ít tài vật phòng khi bị bệnh, khi có khổ nạn thì dùng. Tuy nhiên, người chân thật thông minh sẽ đem những tiền này bố thí hết, đem tất cả phí chuẩn bị thuốc thang của ta bố thí cho những người bệnh.

Có lẽ bạn muốn hỏi: “Vậy đến khi chính mình bị bệnh thì phải làm sao?” Xin thưa với các vị, nhất định bạn sẽ không bị bệnh, vì sao? Vì phí thuốc men bạn đã bố thí hết. Còn bạn cứ cất giữ tiền chuẩn bị bệnh thì nhất định sẽ bị bệnh, không bệnh thì tiền đó làm sao dùng. Cho nên không thể không bệnh. Muốn chuẩn bị tiền cho tương lai có tai nạn gì thì bạn nhất định sẽ gặp nạn. Phật pháp nói rất hay “Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”, bạn không có bệnh nhưng nghĩ bệnh thì phải bị bệnh; cũng vậy, không có nạn nhưng luôn chuẩn bị tương lai có nạn, cho nên tai nạn cùng tật bệnh nhất định không thể tránh khỏi. Nếu bạn đem đi bố thí hết, trong lòng thản nhiên, bạn cũng sẽ không gặp nạn, sẽ không bị bệnh, tự tại dường nào, thế thì tại sao còn không xả hết?

Trồng nhân như thế nào, thì sẽ gặp quả báo như thế đó”, nhất định không hề sai. Chúng ta phải hiểu được “thay chúng sanh chịu khổ”, phải có thực lực, tận sức mà làm, đặc biệtchúng sanh cử thế ngày nay. Bạn phải nên biết, khổ nạn lớn nhất là gì? Đó là không nghe được Phật pháp, bao gồm cả chúng sanh khổ nạn. Không có gì lớn hơn so với khổ nạn này. Sau khi nghe Phật pháp, họ giác ngộ, còn không nghe Phật pháp, vĩnh viễn mê hoặc điên đảo. Ngày tháng của họ càng ngày càng khổ, càng mê càng sâu. Cho nên hôm nay chúng ta bố thí Phật pháp, đó chính là một trong những điều “thay chúng sanh chịu khổthù thắng nhất. Có thực lực thì xây đạo tràng, thỉnh pháp sư giảng kinh nói pháp, giúp đỡ chúng sanh một địa phương phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Đạo tràng như thế nào? Phải xây dựng một đạo tràng mô phạm, đạo tràng thúc đẩy giáo dục của Phật đà. Đạo tràng này không làm kinh sám, không làm pháp sự, và không làm pháp hội. Đạo tràng Tịnh Tông phải thuần Tịnh Tông, buổi tối giảng kinh, ban ngày niệm Phật.

Có lẽ các vị muốn hỏi: “Đạo tràng như vậy ở địa phương, nếu khôngpháp hội, không có pháp sự, thì thu nhập làm sao?”. Nếu thật sự dấn thân vào công cuộc thúc đẩy giáo dục của Phật đà mà còn bị chết đói thì chúng ta không cần tin Phật nữa, vì Phật pháp là giả. Bạn hãy chân thật tu hành đúng pháp, không cần phải đi phan duyên một người nào, không cần phải nịnh bợ bất cứ ai, cũng không cần phải xin tín đồ một xu nào, nếu bạn chết đói, Phật pháp đã có vị thần hộ pháp thứ nhất là Bồ Tát Di Đà. Bồ Tát Di Đà sẽ là vị cuối cùng phải xuống điều tra. Cho nên đạo tràng này nhất định được chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần bảo hộ, tuy bạn có thể sẽ không dư giả nhưng đời sống của bạn nhất định không có vấn đề, lương thực của bạn hết, Bồ tát Di Đà sẽ tìm người đưa lương thực đến cho bạn, không để bạn thiếu hụt, đói khát, cũng không để bạn lạnh rét. Chỉ cần một lòng niệm Phật, một lòng làm đạo thì tốt, danh vọng lợi dưỡng thảy đều buông bỏ, tâm địa Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, đó gọi là đạo tràng chánh pháp.

Nếu bạn có thể xây dựng một đạo tràng như vậy, thì đó là đạo tràng mô phạm. Không luận đạo tràng lớn nhỏ, ở đó cộng tu, bốn chúng đồng tu đều tuân theo sáu phép hòa kính, đạo tràng này của bạn sẽ là đạo tràng đệ nhất thế gian, công đức đó thù thắng không gì bằng. Bạn đem một phần phước báu của chính mình xây dựng đạo tràng, lễ thỉnh pháp sư giảng kinh nói pháp, lãnh đạo đại chúng niệm Phật, giải hành tương ưng, chân thậtthay chúng sanh chịu khổ”. Cho nên khi mình có phước, không nên ở ngay đời này tận hưởng hết, đời sau sẽ không còn phước báu nữa. Hiểu tu phước như thế, phước báu đời sau sẽ không thể nghĩ bàn.

Thứ năm, “Cần tu thiện căn cúng dường”, đây là điều then chốt. Thiện căn chính là tất cả thiện pháp từ nơi gốc sanh ra. Kinh Phật nói, thiện căn của thế gian pháp có ba điều “không tham, không sân, không si”, chúng ta phải nỗ lực tu ba điều này. Ngược lại, tham sân si gọi là ba độc phiền não, những thứ luôn gây sự bất an. Trong lòng bạn có ba độc tham sân si, loại bệnh độc nghiêm trọng nhất trong tất cả bệnh độc thế gian thì hậu quả sẽ khôn lường. Bệnh độc thế giannghiêm trọng đến mấy cũng chỉ chết một mạng này, có gì đáng sợ, nhưng tham sân si là bệnh độc rất phiền phức. Tham mang đến quả báo đường ngạ quỷ, sân hận quả báo đường địa ngục, ngu si quả báo đường súc sanh. Khi mất đi thân người nhưng không thể có lại được thân người, mà đi đến ba đường ác, lúc đó bạn mới biết được sự nghiêm trọng của thứ bệnh độc này.

Thế gian tất cả ác chính là từ tham sân si mà ra, ngược lại tất cả việc thiện thế gian đều từ không tham, không sân, không si mà ra. Cho nên Phật thường nói “Cần tu Giới Định Huệ, diệt trừ tham sân si”. Tịnh Độ tông tuy không bảo bạn đoạn phiền não hay phục phiền não, nhưng một câu A Di Đà Phật rất có sức mạnh có thể áp chế được tham sân si, khiến nó không khởi tác dụng, như vậy mới đới nghiệp vãng sanh. Nếu bạn có thể tiêu trừ ba độc phiền não, vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, xin thưa chẳng những là cõi phàm thánh đồng cư mà mức thấp nhất cũng là cõi Phương Tiện Hữu Dư, cao hơn đến cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Thời gian đi đến đó thành Phật sẽ rất ngắn. Ở thế giới cực lạc tu hành thành tựu cũng có thể đến thế giới phương khác làm Phật. Đồng tu chân thật học Phật phải hạ công phu đoạn tham sân si, nhất định tu Giới Định Huệ.

Giới là tâm thanh tịnh, Định là bình đẳng, Huệ chính là giác. Tâm thanh tịnh có thể phá tham, tâm bình đẳng có thể phá sân hận, giác có thể phá ngu si. Chỉ cần trong cuộc sống thường ngày, mỗi giờ mỗi lúc chúng ta đều lưu ý giữ tâm địa thanh tịnh, tâm địa bình đẳng, giác mà không mê thì đó chính là “Cần tu thiện căn cúng dường”. Một người niệm Phật, bốn chúng đồng tu tu học tịnh độ, mỗi niệm đều phải tương ưng với thanh tịnh bình đẳng giác.

Thứ sáu, “Bất xả Bồ tát nghiệp cúng dường”, sự nghiệp của Bồ tát là gì? Hiện tại các vị không luận nghề nghiệp nào, chỉ cần giác mà không mê thì nghề nghiệp đó của bạn chính là nghiệp của Bồ tát. Sự nghiệp Bồ tát cùng sự nghiệp của chúng ta không hề phân biệt. Ví dụ, chúng ta mở tiệm, mỗi ngày buôn bán, đó là sự nghiệp của bạn khi bạn chưa học Phật. Mục đích mở tiệm là để kiếm tiền, cái lợi này của riêng mình. Đến khi đã học Phật, làm Bồ tát, bạn mở tiệm không phải vì chính mình nữa mà vì xã hội, vì đại chúng, vì thuận lợi mọi người. Vậy cái tiệm đó của bạn chính là Bồ tát nghiệp. Không luận nghề nghiệp nào, chỉ cần ta lợi dụng nghề nghiệp đó để phục vụ xã hội, phục vụ chúng sanh thì gọi là Bồ tát nghiệp. Phật Bồ tát cùng chúng sanh khác biệt ở chỗ này, chính là giữa khoảng một niệm, ngoài ra không có khác biệt gì. Dù chúng ta còn trẻ, khi còn học ở trường thì là Bồ tát học trò, tức là người học trò ngay trong quan niệm của nó phải cố gắng học tốt khóa học, lấy được học vị, tương lai từ nghề nghiệp phát huy những cái chính mình đã học để phục vụ đại chúng xã hội, không nên vì cá nhân chiếm danh lợi, đó mới xứng đáng là học trò Bồ tát.

Phải nên hiểu sự nghiệp Bồ Tát trong đời sống hiện tại của mình. Nếu bạn là người chủ gia đình, gìn giữ gia đìnhsự nghiệp của bạn. Trong gia đình, bạn sắp đặt mọi thứ rất tốt, có trật tự làm cho người nhà thoải mái, tự tại, hoan hỉ thì gia đình bạn trở thành tấm gương tốt cho các gia đình khác, sẽ ảnh hưởng tích cực đến những người hàng xóm, khi đó bạn là người chủ Bồ tát. Cho nên sự nghiệp cuả Bồ tát không nhất thiết phải vào tự viện mà chính ngay đời sống hiện tại của bạn, ngay trong công việc trước mắt của bạn, thậm chí đến cách đối nhân xử thế tiếp vật. Chỉ cần mỗi niệm của bạn vì lợi ích chúng sanh, mỗi niệm giúp đỡ tất cả chúng sanh giác ngộ, dẫn dắt chúng sanh học Phật đều gọi là Bồ tát nghiệp.

Thứ bảy, “Bất ly bồ đề tâm cúng dường”. Trong bảy việc vừa nêu thì đầu và đuôi là quan trọng nhất. Phật trong kinh Quán Vô Lượng Thọ đã giảng cho chúng ta về tâm Bồ Đề. Thể của tâm Bồ Đềchân tâm của chính mình, là bản tánh của chính mình. Không ai không có tâm Bồ Đề, mỗi mỗi đều có tâm Bồ Đề. Đáng tiếc mê rồi thì không được gọi là tâm Bồ Đề, chỉ khi giác ngộ mới được gọi là tâm Bồ Đề. Do đó bạn nhất định phải giác ngộ, không thể mê hoặc nữa. Thể của tâm Bồ Đềtâm chân thành, đối với người, với việc và với vật nhất định phải dùng tâm chân thành, không thể dùng hư vọng. Phải nói lời thành thật, không gạt mình gạt người. Hiện nay, pháp luật trên toàn thế giới đều chú trọng đến quyền riêng tư, nghĩa là cá nhân có thể có bí mật, không cho người biết. Bí mật thì làm gì có bí mật tốt. Phải nên hoàn toàn phơi bày, không chút bí mật. Các vị phải biết, khi bạn có bí mật thì bạn sẽ sống rất khổ sở, phải thường bảo mật. Người không có bí mật sống tự tại, thoải mái, đối với bất cứ người nào cũng đều trung thực, không có gì che giấu.

Tôi ở Hoa kỳ, một số đồng tu trách tôi: “Vì sao ngài không có một chút bí mật nào hết vậy?” Tiền gửi ngân hàng, mọi người đều biết ngân hàng tôi gửi tiền, số tiền có bao nhiêu, không một người nào không biết. Họ nói: “Không thể để người khác biết”. Tôi nói: “Tại sao không thể để người khác biết? Số tiền đó không phải của tôi, tôi cũng sẽ không dùng đến nó. Số tiền đó do mọi người cúng dường, hiện tại không dùng thì đành phải để ngân hàng”. Từ trước đến giờ tôi không dùng đến, nên hiện tại số tiền đó phần lớn chi ra cho việc cung cấp học bổng, ngoài ra còn một số khổ nạn.

Lần trước ở HongKong, pháp sư Minh Tinh, học sinh khóa trước chúng ta, ông nói khi về quê hương, ông gặp một học trò trẻ tuổi, tính tình và việc học tập đều rất tốt, nhà anh ta nghèo khổ, không đủ tiền đi học, trong trường bằng lòng miễn học phí, nhưng sinh hoạt phí của anh ta cũng rất khó khăn. Tôi hỏi ông ấy: “Một tháng sinh hoạt phí phải tốn bao nhiêu tiền?” Hai trăm nhân dân tệ. Tôi liền bảo với ông ấy cố gắng giúp anh ta đi học thẳng đến đại học, tất cả phí dụng của anh ta, tôi sẽ trả. Một thanh niên tốt như vậy, chỉ vì hoàn cảnh sinh hoạt bức bách mà không thể đi học thì thật đáng tiếc. Khi anh ta học xong sẽ trở thành nhân tài của quốc gia, vì địa phương đã tạo phước.

Chúng ta đối với người một lòng chân thành, nhất định không một câu vọng ngữ. Tâm chân thành khởi tác dụng chính là thâm tâm cùng tâm đại bi. Thâm tâm là hiếu thiện, hiếu đức; tâm đại bi là giúp tất cả chúng sanh, đại từ đại bi. Trong tịnh tông chúng ta đã nói “Hồi hướng phát nguyện tâm”, tất cả công đức tu được, chính mình không cần hưởng thụ mà hoan hỷ cho tất cả chúng sanh hưởng thụ, bạn nghĩ xem có tự tại hay không? An lạc dường nào. Có rất nhiều người trải qua ngày tháng hạnh phúc an vui, đó mới là an vui chân thật, hạnh phúc chân thật. Kinh Hoa Nghiêm, Bồ tát Phổ Hiền nói về bảy loại pháp cúng dường, chúng ta phải quảng tu, phải dùng tâm chân thành mà tu, tận tâm tận lực mà tu, phước báu bạn có được cũng giống như trên quả địa Như Lai viên mãn đến như vậy.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25757)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37937)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19685)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18798)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14378)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20199)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9579)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14432)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35690)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10717)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19797)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23287)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13424)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10805)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20315)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10679)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 10035)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14942)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17770)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17697)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13246)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31257)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25888)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 14039)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17581)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 11041)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12360)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10528)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12344)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11837)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9673)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12415)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9257)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8538)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 10014)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9803)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12104)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14539)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9953)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11258)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8356)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 11041)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14194)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9969)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15288)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13159)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23180)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 24130)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12676)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15511)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17883)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15154)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16642)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16220)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17762)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11677)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11701)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17943)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10868)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10566)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11407)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12137)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11109)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36495)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 9025)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9737)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34805)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17350)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10290)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10529)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12249)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13722)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14752)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9213)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24955)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11706)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10379)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 16029)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15654)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14597)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13073)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12513)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14647)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18439)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9625)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18622)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18699)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19135)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18945)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11873)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13409)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 48038)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11123)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13620)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13107)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11158)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12635)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11097)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31890)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11744)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant