Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 9

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10682)
Phần 9

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 9)

 

Pháp Sư Tịnh Không

Cảnh tùy tâm chuyển”, phải cho rằng ngoài chính ta, tất cả chúng sanh tình dữ vô tình đều là chư Phật Như Lai biến hóa độ mình. Kinh Hoa Nghiêm dạy chúng ta làm thế nào tu hành chứng quả, một đời viên mãn thành Phật. Người thiện là Phật biến hiện, người ác cũng là Phật biến hiện. Thuận cảnh là Phật biến hiện, ác cảnh cũng là Phật biến hiện để ngay đó chúng ta tôi luyện. Trải qua các cảnh giới này để luyện thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi cho chính mình. Ta tôi luyện ở ngay đó, gọi là công phu tu hành, trở thành mô phạm, tấm gương cho người tu hành. Thiện Tài Đồng Tử không có bạn học. Nếu có bạn học, cả đời ngài sẽ không thể thành Phật, vì sao? Vì không thể hành được “lễ kính tán thán”. Bạn học là mối quan hệ gần bằng nhau. Người ta không cần cung kính với bạn bè, như vậy trong tánh đức của người đó đã thiếu đi một phần, không viên mãn. Tất cả cần phải được chúng ta cung kính, còn một cái không được cung kính thì chúng ta làm sao có thể thành tựu. Không nên cho rằng chỉ một điểm nhỏ này không quan trọng. Một mê thì tất cả mê, một giác tất cả giác, một cái cũng không được, chúng ta phải cung kính tất cả.

Cho nên thị hiện của Thiện Tài là: “Trên đạo Bồ Đề chỉ có một mình ta là học trò. Ngoài chính mình ra, tất cả đều là Phật, đều là Bồ Tát, là thiện tri thức”. Chúng ta phải có cái thấy như vậy, phải dụng tâm như vậy mới đúng pháp. Cũng như xã hội chúng ta, người biểu hiện tâm thiện làm thiện, Thiện Tài Đồng Tử lễ kính tán thán, chúng ta làm học trò “Lễ Kính Tán Thán”; cũng có người biểu hiện tâm bất thiện, làm bất thiện, biểu hiện cảnh giới ác, người tu học chúng ta lễ kính đối với họ nhưng không tán thán. Thực tế mà nói, kính ý là ở trong tâm, tán thán là ở khẩu nghiệp. Khẩu không tán thán, vì nếu tán thán ác sẽ dẫn dắt xã hội này quan niệm làm ác vẫn không sao.

Thắng Nhiệt Bà La Môn đại biểu ngu si, Thiện Tài đi tham vấn ông, vẫn có lễ kính như thấy được thiện tri thức. Thiện Tài đảnh lễ ba lạy, đi nhiễu ba vòng nhưng không hề có lời tán thán. Cam Lồ Hoa Vương đại biểu sân hận, tánh tình không tốt, rất dễ dàng tức giận. Không luận là người nào, hơi đắc tội với ông thì tâm báo trong ông liền nổi lên vô cùng mãnh liệt. Thiện Tài Đồng Tử tham vấn ông, cũng đảnh lễ ba lạy, đi nhiễu ba vòng nhưng không hề tán thán. Vị thứ ba là Phạt Tô Mật Đa Nữ, ngôn ngữ hiện tại là “kỹ nữ”, biểu thị tham dâm. Thiện Tài Đồng Tử đến tham vấn cũng đảnh lễ ba lạy, đi nhiễu ba vòng, không hề tán thán.

Việc này cho thấy tiêu chuẩn tán thán là tánh đức Như Lai. Người tu Giới Định Huệ, chúng ta có thể tán thán họ, không tán thán người tu tham sân si. Bồ Tát biểu hiện nói với chúng ta rằng, xã hội hiện thực, mặt thiện có ảnh hưởng tốt với mọi người, thì tán thán; mặt tráiảnh hưởng không tốt đối với xã hội thì chúng ta không nói một câu, cũng không tán thán, vậy vì sao còn phải tham vấn? Tham vấn có thể học được rất nhiều thứ. Ngoài sự việc tốt chúng ta phải học tập, còn những việc không tốt, chúng ta cũng phải xem học tập, phản tỉnh kiểm điểm. Nếu mình có lỗi lầm tương tự thì phải thay đổi tự làm mới. Cho nên người thiện, người ác đều là thầy giáo tốt.

Khi tôi còn trẻ đi học, thành thật tôi có rất nhiều cách nhìn không hề giống các bạn học, ngay đến thầy giáo cũng không hề giống. Một lần lên lớp, trong bài văn giảng về “tinh trung báo quốc” nói đến Nhạc Phi, đương nhiên nói cả đến Tần Cối. Mọi người tán thán Nhạc Phi, mắng Tần Cối. Quan niệm của tôi không giống mọi người, tôi nói: “Tần Cối cũng không tệ, cũng là anh hùng của dân tộc”. Mọi người trợn mắt nhìn tôi, cho rằng tôi là người có đầu óc làm phản. Nhạc Phi, Tần Cối đều là anh hùng, đều rất cừ khôi, đều đáng được chúng ta tôn kính. Nhạc Phi dạy chúng ta mặt chánh, phải tinh trung báo quốc, tuy không may bị hãm hại chết nhưng trung nghĩa mẫu mực của ông mãi lưu lại đời sau. Khi nhắc đến ai mà không nghiêng mình tôn kính. Chúng ta phải học tập ông. Còn Tần Cối dạy chúng ta mặt trái. Ông đã làm sai, hãm hại trung lương. Người đời sau thường mắng chửi mỗi khi nhắc đến Tần Cối. Tần Cối dạy chúng ta không nên làm việc xấu, nếu không sẽ có kết cuộc như ông. Ông hiện thân nói pháp cho chúng ta. Hai người đều là thầy giáo, một người dạy ta mặt chánh, một người dạy ta mặt trái. Năm mươi ba vị đồng tham đích thực là như vậy.

Cho nên chúng ta thấy người ác, xem việc ác phải phản tỉnh chính mình, lập tức tu sửa hoặc cảnh giác, nhất định không làm. Năm mươi ba vị thiện tri thức là năm mươi ba vị Phật thị hiện. Thiện ác, thuận nghịch chính là xã hội hiện tại của chúng ta. Chúng ta từ sớm đến tối tiếp xúc tất cả người, việc, vật cũng chính là năm mươi ba tham học. Nếu chân thật học Phật, chân thật tu học Đại thừa, chân thật cầu sanh Tịnh Độ, làm học trò của Phật A Di Đà thì hành giả nên biết phải học như thế nào. Đối với người thiện, chúng ta cung kính tán thán. Đối với người ác, chúng ta cung kính nhưng không tán thán. Học tập với người thiện, nhưng cũng phải học tập với người ác, không phạm lỗi lầm đó của họ. Cổ thánh tiên hiền dạy “có lỗi thì sửa, không lỗi thì khích lệ”. Nếu chúng talỗi lầm phải mau sửa đổi, nếu không thì khích lệ chính mình không phạm những lỗi lầm này. Do đây có thể biết quần chúng xã hội rộng lớn đều là thầy giáo của chúng ta, đều là đại ân đại đức thành tựu công đức viên mãn cho chúng ta, cho nên tán thán thuộc về khẩu nghiệp.

Kinh Địa Tạng nói “địa ngục cắt lưỡi”, tương lai đọa vào địa ngục cắt lưỡi, nước đồng đổ vào miệng, gường sắt dính thân,… đều do khẩu nghiệp đã tạo. Kinh Phật nói những lời này nhất định không phải là lời dự đoán, không phải hù doạ người mà là chân tướng sự thật. Mười pháp giới y chánh trang nghiêm đều là nghiệp lực chính chúng ta biến hiện ra. Thế giới trước mắt hay cảnh giới trước mắt cũng là nghiệp lực chính mình hiện ra. Nếu không tạo nghiệp sẽ không thấy cảnh giới này. Khi tôi mới học Phật, chưa xuất gia, ban đầu tiếp xúc Phật pháp, một người bạn giới thiệu cho tôi lão tiên sinh, cư sĩ Chu Kính Vũ. Ông ấy đồng hương với lão cư sĩ Chu, là người Ôn Châu Chiết Giang. Lúc đó tôi còn rất trẻ, mới 26 tuổi, còn lão tiên sinh lúc đó khoảng 71 tuổi. Ông nhìn tôi như nhìn một đứa bé rất thương yêu. Ông làm công việc in kinh ở Đài Loan. Tất cả kinh sách in ra ông đều tặng tôi. Chuyện kể của ông rất nhiều, chúng tôi thường gặp để nghe ông kể chuyện. Những câu chuyện đó đều có thật. Ông đã từng kể cho tôi nghe một câu chuyện nói rõ không có nghiệp lực này thì địa ngục ở ngay trước mặt chúng ta cũng không nhìn thấy.

Đó là câu chuyện nhạc trượng, nhạc phụ của ông ở Trung Quốc những năm đầu cũng rất nổi tiếng, tên Chương Thái Viêm. Ông là con rể của Chương Thái Viêm, một đại sư trong giới học thuật Trung Quốc. Đầu năm Dân quốc, Chương Thái Viêm ở Bắc Kinh, lúc đó Viên Thế Khải đương quyền phác học đại sư. Chương Thái Viêm nói sẽ không phê phán, bình luận về Viên Thế Khải, vì không đáng được ông mắng. Lời nói này về sau có một số người nịnh bợ kể lại với Viên Thế Khải. Viên Thế Khải nghe tức giận liền cho bắt ông nhốt vào lao ngục hơn một tháng. Một tháng trong lao ngục, ông lại xuất hiện một kỳ tích.

Đông Nhạc Đại Đế, một đại quỷ vương cai quản rất nhiều tỉnh, chức tước thấp hơn vua Diêm La một bậc, mời ông làm phán quan. Địa vị phán quan tương đối cao, tương tự tổng thư ký hiện nay, buổi tối đến nơi đó làm việc. Ông nói gần hoàng hôn sẽ đến. Khi trời tối, có hai quỷ nhỏ mang kiệu đến mời rồi khiêng kiệu đến nơi làm việc. Sáng sớm hôm sau thì đưa ông trở về. Ra khỏi nhà giam, ông vẫn làm phán quan một thời gian dài, có cơ hội thấy được tình hình ở Âm Tào Địa phủ. Có lúc bạn bè nói chuyện với nhau, ông đem việc buổi tối đi làm nói ra cho mọi người nghe. Ở âm gian, tuy chủng tộc, tiếng nói không như nhau nhưng lời nói đều thông. Giao tiếp không có chướng ngại, vẫn có thể hiểu nhau. Ăn uống đi đứng của họ cũng gần giống thế gian này. Tuy nhiên họ không thấy được thái dương, ngày vĩnh viễn tối đen. Cõi ngạ quỹ vĩnh viễn tối, không có ánh sáng mặt trời. Trong địa ngục này có một loại hình phạt gọi là pháo lạc. Đốt cây cột đồng đỏ rực, sau đó bắt người thọ hình phải ôm lấy. Chương Thái Viêm là một Phật tử thuần thành, ông nghe thấy loại hình phạt này quá tàn khốc nên yêu cầu Đông Nhạc đại đế bỏ nó đi. Ông nói: “Ngài có thể bỏ hình phạt ấy được không? Đó là đại công đức”. Đông Nhạc đại đế nghe rồi, mời ông đi tham quan hình trường. Hai tiểu quỷ dẫn ông đi qua rất nhiều con đường, đến hiện trường, tiểu quỷ đứng yên bất động rồi nói: “Đã đến nơi, mời phán quan xem”. Ông không hề thấy gì trước mắt. Bỗng nhiên ông hiểu ra, kinh Phật nói: “Do nghiệp lực biến hiện”. Không phải do vua Diêm La thiết lập mà do nghiệp lực biến hiện.

Nếu chúng ta không có nghiệp lực thì ở ngay trước mặt chúng ta cũng không thấy bất cứ hình phạt nào. Cuối đời, lão cư sĩ Chu đã viết trong trước tác của ông những câu chuyện có thật để minh chứng điều này. Địa ngục trên kinh Địa Tạng chỉ có hai loại người thấy và đi đến được. Một là người tạo tác nghiệp địa ngục, phải chịu hình phạt; hai là Bồ tát vào đó giáo hóa chúng sanh. Ngoài hai loại người này, không ai thấy được cảnh giới địa ngục. Về sau cư sĩ Chương Thái Viêm không nói nữa, mới biết việc này không phải do sức người làm ra mà do nghiệp lực của chính họ biến hiện. Họ đến thọ tội.

Thực tế, những phán quan, tiểu quỷ, ngưu đầu, mã diện, chấp pháp trong địa ngục cũng là nghiệp lực chính mình biến hiện, “tự làm tự chịu”. Cho nên ba nghiệp chúng ta tạo tác, nhất định phải cẩn trọng. Quá khứ đã tạo tội nghiệp thì phải mau hồi đầu để được cứu. Chỉ cần có tâm sợ quá khứ đã tạo ra tội nghiệp thì tương lai chịu báo, như vậy đã được cứu rồi. Còn cứ mờ mịt không biết thì coi như hết cứu. Nhà Phật đại từ đại bi, quay đầu là bờ, chỉ vừa quay đầu thì liền được cứu. Kinh Quán Vô Lượng Thọ, vua A Xà Thế giết cha, hại mẹ, đoạt ngôi vua, cấu kết cùng Đề Bà Đạt Đa phá hoại tăng đoàn. Tội ngũ nghịch đều đã tạo, nhất định đọa vào địa ngục A Tỳ. Nhưng khi lâm chung, ông thành tâm sám hối, chân thật hối cải, dùng tâm sám hối niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Kết quả ông được vãng sanh. Cả đời tạo ra tội nghiệp nặng như vậy còn có thể vãng sanh, mặc dù nhiều người đoán ông chỉ vãng sanh ở bậc hạ hạ phẩm, nhưng kinh Phật nói, phẩm vị vãng sanh của ông là thượng phẩm trung sanh.

Cho nên cần hiểu rõ, vãng sanh có hai phương thức. Một là bình thường tích luỹ công đức, chân thành niệm Phật vãng sanh. Hai là lâm chung sám hối vãng sanh. Phẩm vị của sám hối vãng sanh hoàn toàn phụ thuộc vào lực tâm sám hối. Một người tạo tội nghiệp cực trọng, đến lúc lâm chung nếu chân thật sám hối còn có thể vãng sanh, còn có thể được độ, vậy đây là đạo lý gì? “Vạn pháp do tâm”. Hoa Nghiêm cũng nói “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Một ví dụ tạo tội ngũ nghịch trong kinh mà còn được thượng phẩm trung sanh, ngoài ra còn một ví dụ khác rất rõ ràng.

Trong “Tịnh độ thánh hiền lục” của vãng sanh truyện có kể, vào triều nhà Tống, pháp sư Oánh Kha là một người xuất gia phá giới, đại khái ông thảy đều phạm hết các giới luật thanh qui. Thế nhưng ông còn một điểm tích cực, đó là ông tự biết mình đã tạo tội nghiệp. Chính điểm này đã cứu ông. Ông biết tương lai nhất định sẽ đọa địa ngục, lo sợ những khủng khiếp diễn ra nơi địa ngục. Ông liền thỉnh giáo các bạn đồng tu phương cách cứu giúp. Một bạn đồng tu liền đưa ông xem cuốn “Vãng Sanh Truyện”. Sau khi đọc xong, ông rất cảm động, liền hạ quyết tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Truyện ký ghi chép, ông đóng kín phòng, niệm đến cùng một câu A Di Đà Phật. Ba ngày ba đêm không hề ngủ, không ăn thứ gì, niệm ra được Phật A Di Đà. Phật A Di Đà nói với ông rằng thọ mạng của ông còn đến mười năm, khuyên ông cố gắng tu hành trong mười năm này, đến lúc lâm chung, Phật A Di Đà sẽ trở lại tiếp dẫn. Như vậy, nếu chúng sanh chân thật có cảm, Phật liền có ứng. Pháp sư Oánh Kha nói với Phật A Di Đà: “Tập khí của con quá nặng, không tránh bị mê hoặc, mười năm nữa không biết con sẽ phạm phải bao nhiêu tội. Cho nên tuổi thọ mười năm con không cần nữa, con muốn đi liền với ngài”. Phật A Di Đà đồng ý: “Được! Ba ngày sau ta đến tiếp ông”. Oánh Kha rất vui mừng. Ông liền mở cửa, hân hoan nói với mọi người trong chùa, “ba ngày sau tôi sẽ vãng sanh”. Lúc đó người trong chùa đều nghĩ thần kinh của ông không bình thường, một người ác đến như vậy thì làm gì có thể vãng sanh? Thời gian ba ngày đã đến, mọi người náo nhiệt xem ông có vãng sanh được không. Đến sáng sớm ngày thứ ba, ông tắm qua thân thể, thay bộ quần áo mới, xin các đồng tu thảy đều niệm Phật suốt thời khoá sáng hôm đó để đưa ông vãng sanh. Mọi người làm theo, thay đổi khóa tụng khác với ngày thường, đọc kinh A Di Đàniệm Phật hiệu đưa ông vãng sanh. Ngay khi Phật hiệu niệm được khoảng một giờ đồng hồ, ông liền nói với mọi người, “Phật A Di Đà đến rồi, tôi đi với Phật A Di Đà đây”. Ông liền ra đi, thật sự được vãng sanh, không hề có bệnh.

Cách biểu diễn của ông cho chúng ta thấy, kinh Di Đà đã nói “Nếu một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày…”, không hề sai. Bình thường cố làm việc xấu, một câu Phật cũng không niệm, vậy mà ba ngày có thể vãng sanh. Ngày nay chúng ta đóng cửa phòng, niệm ba mươi ngày cũng không thể vãng sanh, do nguyên nhân gì? Tâm của chúng ta là giả, không phải thật. Trong mỗi câu Phật hiệu, còn có vọng tưởng xen tạp, không biết địa ngụcđáng sợ. Oánh Kha biết địa ngục đáng sợ, không vãng sanh thì phải đọa địa ngục. Hai con đường không còn cách chọn lựa. Ông sợ chịu khổ địa ngục, toàn tâm toàn lực chuyên chú, một ý niệm cầu vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc. Như vậy, đời trước đã tạo tội nghiệp, hoặc giả ngay đời này tạo tội nghiệp, cũng không sợ, chỉ cần chúng ta chân thật đầy đủ ba điều kiệnTín Nguyện Hạnh”, chúng sanh địa ngục cũng có thể ở ngay một đời thành Phật làm tổ, pháp môn không thể nghĩ bàn. Nhiều người mở miệng toàn nói chuyện phiếm. Phải biết, không niệm Phật sẽ liền tạo khẩu nghiệp, phải chịu khổ báo ở ba đường. Mỗi ngày từ sớm đến tối tiếp xúc với người, tốt xấu lẫn lộn, đều nói thị phi nhân ngã. Chúng ta học Phật, đọc kinh, bái Phật, lễ Phật, tu chút công đức đều bị rơi mất từ nơi miệng, tích lũy vô lượng vô biên tội nghiệp. Cho nên phải giác ngộ, phải thông hiểu, mau chóng hồi đầu. Cái miệng này ngày đêm niệm A Di Đà Phật chính là xưng tán Như Lai. Trong lòng nhớ Phật, trên miệng niệm Phật, không xen tạp không gián đoạn mới đạt vô lượng vô biên công đức. Nếu không chịu làm mà đi tạo tội nghiệp, vậy không còn cách nào. Đó là ý nghĩa của xưng tán.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25767)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37943)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19710)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18810)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14397)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20214)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9586)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14443)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35708)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10731)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19812)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23296)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13432)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10817)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20328)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10694)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 10050)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14952)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17782)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17710)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13254)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31280)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25921)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 14051)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17593)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 11057)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12362)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10538)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12349)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11854)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9676)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12429)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9266)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8555)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 10033)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9806)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12109)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14546)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9962)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11266)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8356)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 11053)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14201)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9974)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15303)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13169)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23200)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 24172)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12698)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15532)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17892)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15178)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16666)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16231)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17779)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11686)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11715)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17951)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10884)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10582)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11420)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12142)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11113)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36505)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 9031)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9753)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34819)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17357)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10308)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10537)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12264)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13735)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14756)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9222)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24980)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11711)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10383)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 16037)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15665)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14600)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13089)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12524)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14652)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18452)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9634)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18635)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18720)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19148)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18961)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11880)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13418)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 48059)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11134)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13628)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13120)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11179)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12641)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11101)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31907)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11753)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant