Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

06. Có một cô đơn

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 7568)
06. Có một cô đơn

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

6

Có một cô đơn

C

ơ hội nảy ra trong tháng hai kế tiếp khi mua Pine Cottage và sáu mẫu đất chung quanh nó, gồm cả một ngôi nhà khác lớn hơn. Khi Krishna bày tỏ một ước nguyện có được khu đất này, vạch rõ ra nơi này đã trở thành thiêng liêng biết chừng nào sau tất cả mọi điều đã xảy ra ở đó, tiền bạc được biếu tặng bởi Miss Dodge. Krishna gọi ngôi nhà lớn hơn là Arya Vihara (Tu viện Cao quý), và chẳng mấy chốc sau bảy mẫu đất khác đã được mua và Brothers’ Trust được thành lập để quản lý khu đó. Suốt sống của Krishna tiền bạc, trong hình thức những quà tặng và tài sản thừa kế, tuôn vào khi được cần đến, và sau đó anh kiếm được tiền từ những quyển sách của anh; dẫu vậy, anh không bao giờ giữ bất kỳ thứ gì cho riêng anh, ngoại trừ số tiền £500 hàng năm của Miss Dodge.

 Từ đầu năm 1923 Krishna bắt đầu làm việc nhiều ở Ojai, trả lời hàng tá thư từ chính thức, viết những bài hàng tháng của anh cho tờ Herald, tái tổ chức Star ở California, thực hiện những nói chuyện trong những vùng chung quanh và gây quỹ cho một trường học ở Ấn độ. Tháng năm anh và Nitya mà, do sự điều trị thêm của Abrams một lần nữa được nói đã khỏi bệnh, đi vòng quanh nước Mỹ, chấm dứt ở Chicago cho Hội nghị Theosophy. Tháng sáu hai anh em đến nước Anh. Người ta đã sắp xếp cho hai anh em tham dự Đại hội Theosophy và Star ở Vienna vào tháng bảy. Lady Emily gặp họ tại Plymouth và thông báo cho Mrs Besant rằng bên ngoài Krishna có vẻ chẳng thay đổi bao nhiêu, mặc dù có lẽ đẹp hơn nhiều, ‘nhưng tại từng khoảnh khắc người ta nhận biết được nguồn năng lượng được tập trung lại mãnh liệt nhưng có kiểm soát đang chảy qua anh’. Sau Đại hội, nơi Krishna sẽ gặp lại Helen Knothe (chị vẫn ở Amsterdam), anh hỏi liệu anh được phép có một kỳ nghỉ ‘gia đình’ trong nơi yên tĩnh nào đó mà anh chưa bao giờ biết. Một người bạn của John Cordes sắp xếp một biệt thự nhỏ, Villa Sonnblick, trong toàn quyền sử dụng của anh bên ngoài ngôi làng Ehrwald ở Austrian Tyrol, và tại đó anh và Nitya trải qua bảy tuần lễ cùng một nhóm bạn gồm có Lady Emily, chị tôi Betty và tôi, Helen, Mar de Manziarly, Rajagopal (bây giờ đang ở Cambridge), Cordes, và Ruth Roberts, một cô gái người Anh mà Krishna đã yêu đương lăng nhăng hồi ở Sydney. Krishna, Nitya, Lady Emily, Helen và Rajagopal ở trong Sonnblick, nơi tất cả chúng tôi ăn uống, trong khi số người còn lại của chúng tôi ngủ trong một biệt thự nhỏ khác. Mười lăm ngày đầu tiên là một kỳ nghỉ rất hạnh phúc, đó là một nơi lý tưởng cho những chuyến dạo bộ vùng núi và có một cánh đồng bằng phẳng mà chúng tôi có thể chơi rounders ở đó. Vào những buổi picnic trong núi, Krishna, Nitya và Rajagopal thường hát những bài thánh ca của Ấn độ, nghe hay lạ lùng.

 Sau đó, vào giữa tháng tám, ‘cái tiến trình’ bắt đầu lại rất khẩn cấp, mỗi buổi tối, và tiếp tục đến ngày 20 tháng chín. Krishna, hay nói khác đi ‘phần cơ bản của thân thể’, lúc này đã lầm lẫn Helen với người mẹ của anh khi anh ‘đi khỏi’. Lady Emily gửi những lá thư nhật ký cho Mrs Besant kể lại tất cả điều gì đã xảy ra. ‘Nhìn cậu (Krishna) nhảy xuống những quả đồi, đầy duyên dáng và vẻ đẹp và sức sống,’ bà viết, ‘hầu như không thể tin được rằng thân thể tội nghiệp của cậu đã phải chịu đựng mỗi buổi tối.’ Sau một buổi tối bị hành hạ anh gào lớn, ‘Nó đã chưa bao giờ tồi tệ như thế này.’ Nitya đã viết sau đó, ‘Trong suốt những ngày cuối cùng tại Ehrwald họ cố gắng thử nghiệm để Krishna tỉnh táo trong khi cơn đau đớn vẫn còn khá mạnh, nhưng sự tỉnh táo này chỉ kéo dài được 10 hay 20 giây tại mỗi lần, và ngay khi cơn đau đớn quá mạnh, Krishna sẽ rời thân thể.’

 Vào chiều tối ngày 20 tháng chín, Krishna ‘mang qua’ một thông điệp cho Nitya, được cho là từ Bậc Thầy Kuthumi, mà Nitya viết ra:

 

Nitya. Lắng nghe. Công việc này được hoàn tất ở đây, đây là đêm cuối cùng, nhưng nó sẽ được tiếp tục ở Ojai. Nhưng điều này phụ thuộc vào hai con. Cả hai con nên có năng lượng nhiều hơn. Sự thành công sẽ phụ thuộc vào điều gì các con làm trong tháng kế tiếp. Đừng để bất kỳ điều gì ngăn cản nó. Nó đã là một thành công ở đây. Nhưng Ojai phụ thuộc toàn bộ vào hai con, ở đó nó sẽ được tiếp tục với nhiều mãnh liệt hơn nếu hai con sẵn sàng.

Khi hai con rời nơi này hai con phải cẩn thận vô cùng. Nó giống như cái bình mới vừa ra khỏi khuôn, và bất kỳ rung động mạnh nào có lẽ sẽ làm rạn nứt nó, và điều này có nghĩa là sửa chữatu bổ lại và việc này sẽ mất một thời gian dài, nếu hai con thất bại nó sẽ có nghĩa là khởi sự mọi thứ lại từ ngay lúc đầu.

 

Thông điệp này đặc biệt lý thú vì văn phong hoàn toàn không giống như văn phong của Krishna hay của Nitya.

 Ngay khi rời Ehrwald, gần hết nhóm người đến ở tại Castle Eerde ở Hà lan cùng Baron van Pallandt mà đã cống hiến tài sản cho Krishna. Đây là lần cuối cùng nó được sử dụng như một ngôi nhà riêng. Một Trust được thành lập, với Krishna làm Chủ tịch, người mà bất động sản này được chuyển qua và Eerde trở thành Bộ Chỉ huy quốc tế của The Order of The Star in The East.

 Vì tin rằng ‘cái tiến trình’ sẽ được tiếp tục ở Ojai, Nitya cảm thấy rất cần thiết phải có một người khai tâm khác ở đó, vậy là Rajagopal (người đã trở thành một người khai tâm trước khi đến nước Anh) xin nghỉ học tại Cambridge một năm để theo cùng họ. Lúc này họ sống tại Arya Vihara trong khi Rosalind sống tại Pine Cottage cùng người mẹ của em ấy. (Helen đã phải về nhà ở New York.)

 Ngay khi họ đến, ‘cái tiến trình’ đã bắt đầu lại và nặng nề đến độ lần đầu tiên Nitya bị bối rối và viết cho Leadbeater đầy lo âu để hỏi liệu mọi thứ có ‘trôi chảy’ hay không. Tại thời điểm này, Krishna đang bị bắt buộc phải tự chịu đựng sự đau đớn mà đang gia tăng mỗi lúc một mạnh mẽ. Nitya kể cho Leadbeater, ‘Lúc này không có Helen cùng anh và dù Rosalind ở phòng bên cạnh chúng con, anh dường như không cần em ấy; sau khi cơn đau đớn chấm dứt, Krishna rời thân thểthân thể khóc rất đau buồn vì kiệt sức. Anh gọi người mẹ của anh, và con phát giác anh cần Helen, không phải Rosalind. Từ điều gì thân thể của Krishna thỉnh thoảng nói, con có thể nhận thấy rằng vẫn còn có nhiều công việc phải được làm trên thân thể, có lẽ nó có nghĩa phải mất vài tháng.’

Ngày 26 tháng mười một, thân thể của Krishna ‘mang qua’ một thông điệp mà Nitya đính kèm trong lá thư gửi Leadbeater : ‘Công việc đang được làm lúc này có sự quan trọng vô cùngtinh tế cực kỳ. Đây là lần đầu tiên sự thử nghiệm này đang được thực hiện trong thế giới. Mọi công việc trong nhà phải nhường cho công việc này, và không người nào được nghĩ đến lợi ích riêng của mình, ngay cả Krishna.’

Lạ thay Leadbeater không muốn đến Ojai để chứng kiến hiện tượng lạ thường này cho ông. Ông chỉ viết cho Mrs Besant nói rằng ông ‘bị băn khoăn nhiều về toàn công việc đó . . . hoàn toàn trái ngược điều gì chính tôi đã được dạy. Tôi hy vọng bà có thể cam đoan với tôi rằng tất cả đều tốt lành.’ Mrs Besant, mặc dù bây giờ đã gạt đi quyền năng siêu nhiên của bà, rõ ràng có thể cam đoan với ông, và từ đó trở đi Leadbeater giao lại cho bà tất cả trách nhiệm chăm sóc Krishna. Với Nitya ông viết: ‘Tôi không hiểu những biến cố kinh hoàng đang xảy ra trong Krishna thương yêu của chúng ta.’

Đầu năm 1924, Krishna viết cho Lady Emily sau khi ‘cái tiến trình’ đã và đang xảy ra được hai tháng:

 

Càng ngày con càng cáu kỉnh và càng ngày con càng mệt mỏi, con ước mẹ và những người khác ở đây. Những ngày này con thường xuyên cảm thấy muốn khóc và hồi trước con không có như vậy. Thật là khủng khiếp cho những người khác và cho con . . . con ước Helen ở đây nhưng đó là một điều không thể được và cũng có thể họ không muốn bất kỳ ai giúp đỡ con. Vì vậy con phải làm tất cả mọi việc một mình . . . Dù người ta có lẽ cố gắng như thế nào chăng nữa, có một cô đơn, cô đơn của một cây thông đơn chiếc trong vùng hoang vu . . . Mười ngày vừa qua thật là vất vả, xương sống và cổ của con cứng ngắt, và ngày hôm kia con trải qua một buổi tối lạ thường. Dù nó là gì, cái nguồn hay bất kỳ từ ngữ nào người ta gọi cái vật chết tiệt đó, đến thẳng lên xương sống của con, thẳng lên gáy của cổ con, sau đó nó tách thành hai, một đi đến phía bên phải và cái còn lại đi đến phía bên trái của bộ đầu con cho đến khi chúng gặp nhau giữa hai mắt, ngay trên mũi của con. Và con thấy Chúa và Bậc Thầy. Đó là một buổi tối kỳ diệu. Dĩ nhiên toàn sự việc này đau đớn cực độ . . . Con chắc chắn chúng con sẽ có một kỳ nghỉ mau thôi.

 

Krishna cũng diễn tả trải nghiệm này cho Mrs Besant, và cũng vậy Nitya kể cho bà một câu chuyện về nó. Nitya đoán chừng nó có nghĩa ‘mở mắt thứ ba’. Trong chuyên luận về yoga ‘mắt thứ ba’ thường được gọi là The Eye of Shiva. Nó ở giữa trán và, giống như kundalini, được kết hợp với khả năng siêu nhiên. ‘Khả năng siêu nhiên của Krishna vẫn chưa bắt đầu,’ Nitya thêm vào, ‘nhưng con nghĩ lúc này nó chỉ còn là vấn đề thuộc thời gian. Từ khi chúng con ở đây đến bây giờ, chúng con đã trải qua 110 đêm của ‘cái tiến trình’.

Cuối tháng ba Dr Rocke đến Ojai, được gửi đi bởi Leadbeater từ Sydney, nơi hiện nay bà sống, để theo dõi về trường hợp của Krishna. Bà ở lại mười lăm ngày, quan sát ‘cái tiến trình’ mỗi buổi tối. Krishna viết cho Lady Emily rằng ‘bà bị ấn tượng khủng khiếp bởi toàn sự việc và chúng con hoàn toàn không điên khùng’. Dr Rocke vẫn ở đó vào ngày 11 tháng tư – ‘một buổi tối kỳ diệu cho tất cả chúng con’, như Nitya kể cho Mrs Besant, khi Krishna ‘mang qua’ một thông điệp, phần đầu tiên của nó Nitya tin là từ chính Chúa Maitreya:

 

Các Con của Ta, Ta hài lòng về sự chịu đựng và sự can đảm của các con. Nó đã là một đấu tranh lâu dàicho đến lúc này những công việc Chúng ta đã trải qua đã là một thành công tốt lành. Mặc dù đã có nhiều khó khăn Chúng ta đã khắc phục chúng một cách tương đối dễ dàng . . . Các con đã vượt qua sự thử thách rất thành công, mặc dù toàn bộ sự chuẩn bị chưa kết thúc… Chúng tôi xin lỗi về sự đau đớn, kéo dài quá lâu, mà dường như chắc là vô tận cho các con, nhưng có một vinh quang vô cùng đang chờ đợi mỗi người trong các con . . . Phước lành của Ta ở cùng các con.

Mặc dù Chúng tôi sẽ bắt đầu tại một ngày tháng trễ hơn. Ta không muốn các con rời nơi này để đi Châu âu cho đến sau lễ Wesak (lễ hội huyền bí quan trọng vào Trăng tròn tháng Năm, năm đó rơi vào ngày 18 tháng năm), khi các con sẽ thấy Ta. Mặc dù Chúng tôi đã bảo vệ ba nơi trong thân thể của con, chắc chắn sẽ có sự đau đớn. Nó giống như một ca giải phẫu; mặc dù nó có lẽ xong rồi, con chắc chắn sẽ cảm thấy những ảnh hưởng sau đó.

 

Rủi thay, chúng ta không có chuyện kể từ chính Dr Locke về điều gì bà nghĩ về ‘cái tiến trình’.

Hai anh em, cùng Rajagopal và Helen, người họ gặp ở New York, đến nước Anh vào ngày 15 tháng sáu. Mrs Besant cũng ở Nước Anh và họ bị nhiễm trong những hoạt động không ngừng nghỉ của bà, cực điểm là một Đại hội Theosophy và Star tại Arnhem ở Hà lan, được tiếp theo bởi lần họp trại đầu tiên tại Ommen, cách Castle Eeerde một dặm trên phần đất đai được trao tặng bởi Baron van Pallandt. Họp trại này sẽ là một sự kiện hàng năm cho đến khi có chiến tranh.

 Sau họp trại này, cuối cùng Krishna cũng được tự do để tận hưởng kỳ nghỉ ‘gia đình’ mà anh mong chờ. Năm đó nơi được chọn là một khách sạn ở lâu đài thuộc thế kỷ mười một tại đỉnh của một ngọn đồi dốc đứng trên làng Pergine ở Dolomites, nơi Krishna đến cùng những người bạn vào ngày 18 tháng tám. Nhóm người cũng giống năm ngoái, với sự ngoại lệ là Mar de Manziarly và thêm vào một phụ nữ người Ý cùng vài người bạn Ấn độ. Chúng tôi chiếm hai cái tháp có lỗ châu mai tại những góc của lâu đài cũng như vài căn phòng trong khách sạn và dùng những bữa ăn tại phía cuối của một phòng ăn rộng mênh mông, được kéo màn tách khỏi những người khách khác và có người đầu bếp Úc nấu món chay riêng của chúng tôi. Ngay dưới lâu đài là một cánh đồng bằng phẳng, dành chơi rounders, như đã có tại Ehrwald. Nhưng Krishna chỉ được cho phép ít hơn một tuần lễ trước khi ‘cái tiến trình’ khởi sự lại. Lần này còn gây đau đớn hơn trước nhiều lắm, mà hầu như không thể chịu đựng được sau lần ở Ojai. Tuy nhiên, lúc này Helen có mặt ở đó để giúp đỡ.

 Nitya, Lady Emily, Helen và Rajagopal đang sống dưới cùng mái nhà với Krishna trong cái tháp tròn. Khi ‘cái tiến trình’ khởi sự, những người khách ở cùng cái tháp đó không đến ăn tối cùng chúng tôi trong khách sạn. Số người còn lại của chúng tôi biết rằng cái gì đó sắp sửa xảy đến mỗi buổi tối – cái gì đó để chuẩn bị cho sự cư ngụ của Chúa Maitreya – nhưng mãi đến năm sau tôi mới được kể về ‘cái tiến trình’ và những chuyện kể của Krishna và Nitya về trải nghiệm ở Ojai được đọc to cho tôi nghe.

 Có một mục đích rõ ràng trong kỳ nghỉ của năm đó. Người ta đã sắp xếp rằng bốn cô gái – Helen, Ruth, Betty, và tôi – nên, theo sự thúc giục của Krishna, đi đến Sydney để được ‘hướng về’ theo Con đường Môn đồ bởi Leadbeater. (Rosalind đã đến đó khi hai anh em rời Ojai vào tháng sáu.) Tất cả những nói chuyện trước công chúng của Krishna trong những nơi khác nhau mà anh đã theo Mrs Besant vào mùa hè đó đã nhấn mạnh rằng, muốn vào được Con đường Môn đồ, rất cần thiết phải nhắm mắt nhảy liều, sống một cách cấp bách, cảm thấy thật mãnh liệt để có thể đủ sức vọt ra khỏi cửa sổ, để tự thay đổi chính mình một cách cơ bản. Lúc này, tại Pergine, theo sự đề nghị của Lady Emily, anh bắt đầu nói về những chủ đề đó cho nhóm người tụ họp ở đó. Sau trò chơi rounders vào buổi sáng, anh sẽ ngồi dưới một cây táo trong cánh đồng và cố gắng nói đi nói lại cho chúng tôi về những phẩm chất phải nhằm đến. Anh bảo với những cô gái rằng mặc dù bản chất tự nhiên của con người trong các cô là muốn hôn nhân và một tổ ấm riêng của họ, họ không thể có những điều đó và hầu hạ Thượng đế khi Ngài đến; nếu họ cố gắng đùa giỡn với cả hai cuộc sống, họ sẽ trở thành kệch cỡm và không điều gì tồi tệ hơn là tánh tầm thường. Nhưng họ không được trở thành khô khan; lớn lên bằng tình yêu và hạnh phúc rực sáng là cách duy nhất để phát triển. Sự trong trắng hoàn toàn về thân thể lẫn tinh thầnyếu tố cốt lõi.

 Bốn cô gái trẻ sôi nổi trong số đó có tôi, vừa mười sáu, là người ít tuổi nhất, luôn luôn được yêu cầu sống những cuộc sống độc thân bên ngoài một tu viện. Thái độ của Krishna về tình dụchôn nhân sẽ thay đổi trong một vài năm nữa. Vào năm 1922 khi anh nghe rằng Mar de Manziarly đã đính hôn và sẽ lập gia đình, anh nói rằng giá như cô tự tử thì hay hơn. (Vụ đính hôn bị hủy bỏ trước khi cô đến Ehrwald.) Anh rất khắt khe với tất cả chúng tôi ở Pergine, thường làm cho chúng tôi khóc lóc bởi những sự thật về tổ ấm anh đã bảo chúng tôi. Anh phát hiện tất cả chúng tôi đều không đáp ứng nhiệt tình lắm; anh kể cho Lady Emily rằng nó giống như đang nói chuyện với nhiều cái bọt biển mà chỉ nuốt trọn tất cả mọi thứ. Anh ước anh có thể ‘trù dập’ chúng tôi nhiều hơn nữa. ‘Các bạn giống như những người ở trong một căn phòng tối om đang chờ đợi ai đó bật đèn cho các bạn thay vì mò mẫm trong bóng tối và tự bật nó lên.’19

 Tuy nhiên bất kể sự khắt khe của anh, người ta cảm thấy tình yêu vô biên của anh dành cho chúng tôi, sự khao khát của anh rằng chúng tôi sẽ lớn lên thành những con người tốt lành – sự kinh hãi của anh rằng chúng tôi sẽ trở thành ‘tầm thường’.

 ‘Cái tiến trình’ kết thúc vào ngày 24 tháng chín khi Krishna ‘mang qua’ một thông điệp mà anh tin là từ Chúa Maitreya:

 

Hãy học phục vụ Ta, vì tiến theo chính Con đường các con sẽ tìm thấy Ta.

Hãy quên các con, vì chỉ như thế ta sẽ được tìm thấy.

Đừng tìm kiếm những Đấng Vĩ Đại khi họ có lẽ rất gần các con.

 Các con giống như người mù tìm kiếm ánh mặt trời,

Các con giống như người đói được cho thức ăn và sẽ không ăn.

Hạnh phúc các con tìm kiếm không xa lắm; nó sống trong mọi cục đá bình thường.

Ta ở đó nếu các con muốn thấy. Ta là người giúp đỡ nếu các con muốn Ta giúp đỡ.

 

Rất khác biệt với những thông điệp khác, những hàng này có nhiều văn phong của những bài thơ mà Krishna sắp sửa sáng tác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6165)
Phật dạy rằng tất cả nhân quả thiện ác trên thế gian như bóng theo hình, không sai chạy tơ hào. Song, những kẻ không tin tưởng luật nhân quả thì cho đó là lời rỗng tuếch.
(Xem: 7245)
Minh Tâm là một yếu pháp trong hết thảy các pháp và Tịnh Tâm là một yếu hạnh trong hết thảy các hạnh. Nhưng cái yếu pháp Minh Tâm không chi bằng niệm Phật.
(Xem: 6770)
Khi tâm mình nhẹ nhàng, thảnh thơihạnh phúc thì ba nẻo đường đen tốiđịa ngục, ngạ quỷsúc sanh không thể xuất hiện.
(Xem: 6180)
Đã mấy chục năm trôi qua, sinh ra làm người giữa cuộc đời này, cho đến hôm nay, hương linh đã chính thức kết thúc cuộc đời con người,
(Xem: 5666)
Nếu bạn có bạn bè hay người thân đang lâm trọng bệnh hoặc sắp qua đời, tôi biết là không có ai bảo bạn hãy cứ thản nhiên với họ.
(Xem: 4939)
Mục đích thứ nhất của chúng ta khi tu học Phật Pháp đương nhiên là để liễu thoát sanh tử luân hồi, ra khỏi tam giới.
(Xem: 5345)
Hành giả tu học pháp môn Tịnh Độ, tất yếu đầy đủ tư lương Tịnh Độ. Những gì gọi là tư lương?
(Xem: 6655)
Bất cứ một ai khi trì tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần chú là rộng khắp, vô biên...
(Xem: 5965)
Phật Pháp đến nơi nào thời cũng làm lợi ích cho chúng sanh, làm cho chúng sanh được vui vẻ và được an vui...
(Xem: 12008)
Nguyện con sắp đến lúc lâm chung, Trừ hết tất cả các chướng ngại, Tận mặt thấy Phật A Di Đà, Liền được sanh về cõi Cực lạc.
(Xem: 5749)
Tâm thức chánh niệm hay tán loạn của con người khi lâm chungyếu tố quyết định cho sự vãng sanh Tịnh độ hay đọa lạc về các cảnh giới khổ đau.
(Xem: 7053)
Người Nhật khi nghe đến Shinran Shonin (Thân Loan Thánh Nhân) họ liền hiểu ngay gần như là Giáo Tổ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản,
(Xem: 5505)
Trong xã hội ngày nay, với nhiều biến loạn và nhiễu nhương, những người phát tâm học Phật chân chính cần phải có một nhận thức sáng suốt.
(Xem: 5890)
Do chúng sinh có nhiều bệnh, nên đức Phật mới lập ra nhiều pháp môn, nhưng tất cả giáo lý đều lấy giác ngộ làm đích đến.
(Xem: 4916)
Tu học pháp môn niệm Phật là có thể mang nghiệp vãng sanh, nhưng chúng ta cũng tận lực, hy vọng có thể mang đi ít một chút.
(Xem: 4458)
Chúng ta học được từ nơi Phật Bồ Tát là ở ngay trong cuộc sống thường ngày, nhất định phải dùng tâm chân thành, chân thì không giả, thành thì không hư vọng...
(Xem: 8247)
Thiền (hay Thiền–na) là âm của tiếng Phạn "Dhyana", là pháp môn "trực chỉ Chơn tâm, kiến tánh thành Phật".
(Xem: 6535)
Một câu A Di Đà Phật làm cho chúng ta tỉnh lại. Sau khi tỉnh rồi mới biết được chính mình vốn dĩ là A Di Đà Phật, chính mình vốn dĩ là Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 7402)
Tất cả chúng ta đang sống trong Ánh sáng Vô lượng (Vô lượng Quang) và Đời sống Vô lượng (Vô lượng Thọ), trong bổn nguyện của Phật A Di Đà,
(Xem: 5822)
Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là giáo dục. Giáo dục Phật giáo cứu cánh viên mãn, giúp chúng ta phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui.
(Xem: 5479)
Ở Trung Hoa, kinh Quán Vô Lượng Thọ đóng một vai trò quan yếu trong giai đoạn đầu tiên của sự truyền bá Tịnh độ tông hơn bất kỳ kinh văn nào khác của tông nầy.
(Xem: 6415)
Niệm Phật là một trong những pháp môn tu hành rất căn bản được Đức Thế Tôn chỉ dạy rất rõ ràng, hiện còn lưu lại trong các bản kinh cổ nhất,
(Xem: 6748)
Tịnh Độphương cách thích hợp nhất để đạt thành tựu trong một kiếp, và là cách tốt nhất để cứu độ chúng sinh.
(Xem: 7550)
Gặp được Phật pháp rất khó! Trên đời này không có pháp nào thoát ly sanh tử, chỉ có giáo pháp của Phật mới ra khỏi sinh tử luân hồi.
(Xem: 4880)
Tâm thường đế trụ, độ thế chi đạo, ư nhất thiết vạn vật, tuỳ ý tự tại, vi thứ giá loại, tác bất thỉnh chi hửu.
(Xem: 4634)
Học Phật trước tiên phải làm người tốt, xử lý tốt mối quan hệ giữa người với người rồi, tiến thêm một bước, chúng ta phải xử lý tốt mối quan hệ với môi trường tự nhiên.
(Xem: 5272)
Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh.
(Xem: 12642)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9709)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10471)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10338)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9912)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 12026)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10150)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10793)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9904)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8775)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9505)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14532)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8784)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 9092)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 9340)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8814)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10526)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9202)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8371)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 9420)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8992)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9025)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 8357)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8958)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8979)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8747)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9375)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 9046)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8786)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 4091)
Ngày nay, nhiều người niệm Phật A Di Đà để cầu vãng sinh Tây phương Cực Lạc. Điều này phù hợp với đại nguyện của đức Phật A Di Đà cứu độ chúng sinh về cõi Tịnh độ của Ngài để tiếp tục tu hành tới ngày thành Phật.
(Xem: 9053)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 9883)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant