Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

23. Bộ não không thể hiểu rõ

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 7347)
23. Bộ não không thể hiểu rõ

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

23

Bộ não không thể hiểu rõ

T

rong chừng mực nào đó, chết của Krishnamurti cũng huyền bí như sống của anh. Thật mỉa mai rằng, suốt phần lớn sống của anh bởi vì đã cảm thấy rằng ‘lẻn đi’ lại dễ dàng hơn sống, anh cứ tiếp tục sống trong khi anh lại ao ước ‘lẻn đi’. Anh đã tin rằng anh biết lúc nào anh sẽ chết, tuy nhiên chết của anh lại gây ra sự ngạc nhiên cho anh. Trong ghi lại cuối cùng của anh tại Ojai, khi anh nói về ‘những điều mê tín đáng sợ của người Ấn độ’, dĩ nhiên anh có ý niềm tin truyền thốngẤn độ rằng một con người thiêng liêng có thể định đoạt cho chính người ấy chết. K có thể yêu cầu được chết bằng cách rút ống dẫn thuốc bổ ra, nhưng anh cảm thấy việc đó sẽ là một vụ tự tử, một xúc phạm đến thân thể được giao phó cho trách nhiệm của anh – một ủy thác thiêng liêng. Nhưng tự định đoạt chết cho chính mình, nếu thành công, cũng là một hình thức của tự tử?

 K bày tỏ sự ngạc nhiên rằng ‘cái khác lạ’ lại muốn cư ngụ trong một thân thể bệnh tật; tại sao nó không buông bỏ anh ấy? Anh tự hỏi liệu bệnh tật của anh đã bị gây ra bởi việc gì đó mà anh đã làm sai trái. Người ta có lẽ hỏi, ‘cái khác lạ’ cho phép anh chết bởi vì thân thể của anh đã trở nên vô dụng, hay nó cho phép anh phát triển một căn bệnh gây chết người bởi vì không còn lại bất kỳ điều gì để anh phải nói, bởi vì lời giảng của anh đã hoàn tất? Rõ ràng trong cả hai trường hợp, ‘cái khác lạ’ đã không rời bỏ anh tại khúc cuối.

K tin rằng ‘cái gì đó’ đang quyết định điều gì nên xảy ra cho K, cái gì đó mà anh không được phép nói; tuy nhiên, cùng lúc, anh đang nói nó sẽ lạ thường làm sao nếu đã có cái gì đó đang quyết định mọi việc đã xảy đến cho K. Chắc chắn có một mâu thuẫn ở đây? Nhưng lại có những không bình thường khác trong những câu nói của anh về chính anh.

K không bao giờ nghi ngờ rằng anh đã luôn luôn được bảo vệ bởi cái gì đó. Anh được thuyết phục rằng không việc gì có thể xảy đến cho anh trong khi anh đang ở trên máy bay hay đi lại bằng bất kỳ phương tiện nào để nói chuyện, và rằng sự bảo vệ đó được mở rộng đến bất kỳ ai theo cùng anh. Dẫu vậy nó cũng là bổn phận của anh không được đặt anh vào bất kỳ tình thế nguy hiểm nào chỉ vì vui thú, như là chơi môn máy bay lượn. Anh không bao giờ ngờ vực về hoặc là sự quan trọng của lời giảng hoặc là sự quan trọng của thân thể được ủy thác cho anh chăm sóc. Anh còn tiến xa hơn nữa khi nói rằng đã phải mất nhiều thế kỷ mới sáng tạo được một thân thể như thế. (Nó luôn luôn là ‘lời giảng’, ‘thân thể’; không bao giờ là ‘lời giảng của tôi’, ‘thân thể của tôi’.) Dường như cả bên trong lẫn bên ngoài anh là sự huyền bí riêng của anh. Anh không muốn tạo tác một huyền bí; dẫu vậy một huyền bí đã tồn tại mà dường như anh hoàn toàn không có khả năng giải đáp cho chính anh, suy nghĩ rằng đó không phải công việc của anh để làm việc đó, mặc dù anh háo hức khuyên những người khác nên giải đáp nó, trong trường hợp đó anh sẽ có thể chứng thực sự giải đáp của họ.

K đã nói rằng lời giảng đến như ‘một thiên khải’, rằng nếu anh ngồi xuống để suy nghĩ về nó, nó sẽ không đến với anh, và tuy nhiên chắc chắn nó đến mỗi ngày khi anh đang viết quyển Notebook của anh. Điều gì bỗng nhiên thúc giục anh viết quyển Notebook? Ngoại trừ nội dung của nó, nó là một bản viết tay lạ thường, 323 trang không một vết tẩy xóa.

Từ những từ ngữ riêng của K người ta bị bắt buộc phải kết luận rằng anh là một ‘phương tiện’ cho cái gì đó và rằng do bởi cái gì đó này mà lời giảng đến với anh. Tuy nhiên, trong hầu hết sống của anh, anh được thẩm thấu cùng cái gì đó này đến độ nó anh, thậm chí khi nó rút lui, nó sẽ quay lại nếu anh nói chuyện nghiêm túc về nó hay tự cho phép chính anh cởi mở cùng nó, đặc biệt trong những thiền định vào ban đêm – không bao giờ mời mọc nó. Thỉnh thoảng anh ngạc nhiên khi nó ở đó, như khi anh đang diễn tả trong quyển Notebook làm thế nào anh đã chuyển từ sự thanh bình của Gstaad đến căn hộ tầng thứ tám ở Paris để nhận thấy rằng ‘ngồi yên lặng vào buổi chiều, nhìn qua những mái nhà . . . không mong đợi nhất, phước lành đó, sức mạnh đó, cái khác lạ đó đến bằng sự rõ ràng dịu dàng; nó tràn đầy căn phòng và vẫn ở đó. Nó ở đây khi điều này đang được viết.’ Tôi đã nghe người ta bàn bạc rằng cảm hứng của K không khác biệt gì với cảm hứng của bất kỳ nghệ sĩ nào khác, đặc biệt là nhạc sĩ; rằng giá như người ta cố gắng tìm ra thiên tài của Mozart đến từ đâu. Nếu lời giảng đến qua bộ não của K lập luận đó sẽ đứng vững, nhưng không thiên tài nào mà tôi đã biết đã từng trải qua bất kỳ cái gì giống như ‘cái tiến trình’.

Sự huyền bí của Krishnamurti sẽ tan biến ngay lập tức nếu người ta chấp nhận lý thuyết Chúa Maitreya tiếp quản cái thân thể được chuẩn bị cho ngài. Vậy thì mọi sự việc về ‘cái tiến trình’ sẽ trở nên rõ ràng – tất cả những thông điệp đó ‘được mang qua’ tại Ojai, Ehrwald và Pergine, và sự tin tưởng riêng của K rằng sự đau đớn là cái gì đó phải được chịu đựng mà không có bất kỳ nỗ lực nào để ngăn cản hay làm dịu bớt. Chất lượng độc nhất của hiện tượng sẽ được giải thích bởi thông điệp đó gửi cho Nitya ‘được mang qua’ tại Ojai: ‘Công việc đang được làm lúc này có tầm quan trọng vô cùng và sự tinh tế cực kỳ. Đó là lần đầu tiên thí nghiệm này được thực hiện trong thế giới.’

Chính K cũng không hoàn toàn bác bỏ lý thuyết này, giống như anh phủ nhận là Thầy Thế giới. Anh chỉ nói rằng nó ‘quá tồn tại ở dạng vật chất’, ‘không đủ mộc mạc’, và, thật ra, người ta có cảm thấy điều này về nó. Năm 1972, khi nói chuyện với nhóm người tại Ojai đã đặt ra câu hỏi anh là ai, anh trả lời: ‘Tôi cảm thấy chúng ta đang dò tìm vào vấn đề gì đó mà cái trí ý thức không bao giờ có thể hiểu rõ . . . Có cái gì đó, một nguồn dự trữ khủng khiếp như nó đã là, mà, nếu cái trí có thể thâm nhập, phơi bày cái gì đó mà không thần thoại thuộc trí năng nào – sáng chế, phỏng đoán, tín điều – có thể phơi bày. Có cái gì đó nhưng bộ não không thể hiểu rõ nó.’ Tuy nhiên, khi hai năm sau tôi vặn hỏi anh, anh nói rằng mặc dù anh không thể tự tìm ra về chính anh (‘nước không thể biết nước là gì’), anh ‘bảo đảm tuyệt đối’ rằng Mary Zimbalist và tôi và những người khác có thể khám phá sự thật nếu chúng tôi ngồi xuống và nói: ‘Chúng ta sẽ tìm hiểu’, nhưng, anh thêm vào, ‘các em phải có bộ não của các em trống không’.

Điều này dẫn chúng ta đến ‘cái trí trống không’. Suốt sự tìm hiểu của tôi, K cứ quay trở lại cái trí trống không ‘của cậu bé’ – một trống không mà, anh đã nói, anh đã không bao giờ mất. Cái gì đã giữ nó trống không? Anh hỏi. Cái gì đã luôn luôn bảo vệ sự trống không? Nếu chính anh đang viết về Huyền bí, anh sẽ bắt đầu bằng cái trí trống không. Những từ ngữ đó mà anh đã thốt lên chín ngày trước khi anh chết cũng đang ám ảnh tôi như bất kỳ điều gì anh đã nói: ‘Ước chi tất cả các em đều biết các em đã bỏ lỡ cái gì – trống không vô hạn đó.’

K khẳng định rằng Theosophy mà anh đã được nuôi dưỡng chưa bao giờ quy định được anh. Dẫu vậy, có thể rằng nơi tầng ý thức sâu thẳm bên trong anh đã bị quy định bởi nó (mặc dù anh đã không công nhận có một sự việc như tầng ý thức sâu thẳm bên trong), và rằng khi anh rời khỏi thân thể của anh tất cả mọi điều anh đã được bảo về Chúa Maitreya, Những Bậc Thầy, vân vân lại được xuất hiện? Nhưng điều đó sẽ không giải thích tại sao anh rời khỏi thân thể, tại sao ‘cái tiến trình’ luôn luôn xảy ra.

Một khía cạnh khác phải lưu ý là cái năng lượng rất thường xuyên đi vào anh hay đi qua anh. Khi anh đang nói nghiêm túc về anh là ai, anh thường nói, ‘Bạn có thể cảm thấy nó trong phòng lúc này – một rung động rộn ràng.’ Trong cuộn băng cuối cùng của anh được thâu lại, anh nói, ‘Tôi không nghĩ người ta nhận ra cái năng lượng vô hạn và thông minh tột đỉnh đã đi qua thân thể này đến mức độ nào…’ Khi tôi nghe những từ ngữ đó trên một băng cát-xét ngay lập tức tôi nghĩ về quyền năng, sức mạnh, mà đã ùa ra ập vào tôi qua cái cửa phòng khách tại Brockwood buổi chiều đó khi tôi đang ít mong đợi nó nhất. Nếu sức mạnh đó, ‘năng lượng khủng khiếp’ đó, đã sử dụng liên tục thân thể của K từ lần đầu tiên ‘cái tiến trình’ bắt đầu năm 1922, sẽ rất kinh ngạc khi anh có thể sống lâu đến thế. Năng lượng đó là ‘cái khác lạ’? Có phải năng lượng đó gây ra sự đau đớn của ‘cái tiến trình’? Năng lượng, ‘cái tiến trình’, tiếp tục từ 1922 đến suốt phần còn lại thuộc sống của anh bằng một lượng giảm bớt dần dần của đau đớn chỉ bởi vì thân thể của anh đã từ từ thông thoáng để tạo ra trống không nhiều thêm nữa? Năng lượng mà đi qua anh khi anh già yếu sẽ giết chết anh bằng sức mạnh của nó nếu nó ập vào anh toàn bộ cùng một lúc trước khi thân thể đã được làm cho hòa hợp để thâu nhận nó?

Bây giờ tôi nghĩ người ta phải hỏi: K biết nhiều về anh là ai và là gì hơn những điều anh đã tiết lộ? Khi anh bảo với Mary Zimbalist và tôi rằng nếu chúng tôi có thể tìm ra sự thật, anh sẽ có thể chứng thực nó và rằng chúng tôi sẽ có thể tìm ra những từ ngữ diễn tả nó, anh đang thực sự nói, ‘Anh không được phép nói cho các em nhưng nếu các em có thể tự tìm ra cho chính các em, lúc đó anh có thể nói, “Đúng rồi, đó là nó”’? Có lẽ điều quan trọng nhất mà anh đã từng nói là với Mary, khi chị hỏi anh trước khi anh rời Brockwood để đi Delhi vào cuối tháng mười rằng liệu chị sẽ gặp lại anh: ‘Anh không chết đột ngột đâu . . . Tất cả đều được quyết định bởi người nào đó. Anh không thể nói về nó. Anh không được phép nói, em hiểu chứ? Nó nghiêm túc ghê lắm. Có những sự việc mà em không hiểu được đâu. Khủng khiếp. Và anh không thể nói cho em.’ (Tất cả đều được quyết định bởi ‘người nào đó’, lưu ý, không phải ‘cái gì đó’.)

Vậy là có những việc K biết về chính anh mà anh đã không bao giờ tiết lộ, mặc dù anh đã vén một góc màn trong cuốn băng cát-xét cuối cùng đó.

Nhiều người sẽ cảm thấy rằng bất kỳ nỗ lực nào để giải đáp sự huyền bí của Krishnamurti không chỉ là một lãng phí thời gian mà còn hoàn toàn không quan trọng; chính là lời giảng mà phải quan tâm, không phải con người. Nhưng đối với bất kỳ người nào đã biết Krishna lúc còn bé và tham gia vài biến cố ban đầu và không thể chấp nhận rằng lời giảng đã phát triển trong bộ não riêng của anh, một nghi vấn trêu ngươi trước mặt sẽ vẫn còn bị ám ảnh nếu, có lẽ, người ta không thể thành công trong làm trống không bộ não riêng của người ta. K đã nói, ‘Cái đó ở trong phòng. Nếu bạn hỏi nó nó là gì, nó sẽ không trả lời. Nó sẽ nói, “Bạn quá nhỏ nhoi”.’ Vâng, đó là cảm giác hèn mọn mà người ta bị bỏ lại; người ta quá nhỏ nhen, quá tầm thường, kèm theo một bộ não mãi mãi huyên thuyên.

Hoàn toàn giống nhau, K đã nói trong cuộn băng cuối cùng: ‘Tất cả họ sẽ giả vờ hay cố gắng tưởng tượng rằng họ đã tiếp xúc với cái đó. Có lẽ trong chừng mực nào đó họ sẽ, nếu (chữ in nghiêng của tôi) họ sống cùng những lời giảng.’

Nhưng, bỏ qua nguồn gốc của nó, lời giảng của Krishnamurti đã có mặt tại một khoảnh khắc nghiêm trọng trong lịch sử của thế giới. Như có một lần anh đã nói với một phóng viên ở Washington: ‘Nếu con người không thay đổi triệt để, từ cơ bản không tạo ra một thay đổi trong chính anh ấy, chúng ta sẽ tự hủy diệt chính chúng ta. Một cách mạng tâm lý chỉ có thể được ngay lúc này, không phải một ngàn năm sau. Chúng ta đã qua hàng ngàn năm rồi và chúng ta vẫn còn là những con người man rợ. Vì vậy nếu chúng ta không thay đổi ngay lúc này, chúng ta sẽ vẫn còn là những con người man rợ ngày mai hay một ngàn ngày mai nữa.’ Sau đó nếu người ta hỏi: làm thế nào sự thay đổi của một người có thể ảnh hưởng thế giới?, chỉ có câu trả lời riêng của K giải đáp: ‘Thay đổi và thấy điều gì xảy ra.’

 

(Dịch xong 7-2009)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6165)
Phật dạy rằng tất cả nhân quả thiện ác trên thế gian như bóng theo hình, không sai chạy tơ hào. Song, những kẻ không tin tưởng luật nhân quả thì cho đó là lời rỗng tuếch.
(Xem: 7244)
Minh Tâm là một yếu pháp trong hết thảy các pháp và Tịnh Tâm là một yếu hạnh trong hết thảy các hạnh. Nhưng cái yếu pháp Minh Tâm không chi bằng niệm Phật.
(Xem: 6769)
Khi tâm mình nhẹ nhàng, thảnh thơihạnh phúc thì ba nẻo đường đen tốiđịa ngục, ngạ quỷsúc sanh không thể xuất hiện.
(Xem: 6180)
Đã mấy chục năm trôi qua, sinh ra làm người giữa cuộc đời này, cho đến hôm nay, hương linh đã chính thức kết thúc cuộc đời con người,
(Xem: 5665)
Nếu bạn có bạn bè hay người thân đang lâm trọng bệnh hoặc sắp qua đời, tôi biết là không có ai bảo bạn hãy cứ thản nhiên với họ.
(Xem: 4938)
Mục đích thứ nhất của chúng ta khi tu học Phật Pháp đương nhiên là để liễu thoát sanh tử luân hồi, ra khỏi tam giới.
(Xem: 5345)
Hành giả tu học pháp môn Tịnh Độ, tất yếu đầy đủ tư lương Tịnh Độ. Những gì gọi là tư lương?
(Xem: 6655)
Bất cứ một ai khi trì tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần chú là rộng khắp, vô biên...
(Xem: 5965)
Phật Pháp đến nơi nào thời cũng làm lợi ích cho chúng sanh, làm cho chúng sanh được vui vẻ và được an vui...
(Xem: 12005)
Nguyện con sắp đến lúc lâm chung, Trừ hết tất cả các chướng ngại, Tận mặt thấy Phật A Di Đà, Liền được sanh về cõi Cực lạc.
(Xem: 5749)
Tâm thức chánh niệm hay tán loạn của con người khi lâm chungyếu tố quyết định cho sự vãng sanh Tịnh độ hay đọa lạc về các cảnh giới khổ đau.
(Xem: 7053)
Người Nhật khi nghe đến Shinran Shonin (Thân Loan Thánh Nhân) họ liền hiểu ngay gần như là Giáo Tổ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản,
(Xem: 5504)
Trong xã hội ngày nay, với nhiều biến loạn và nhiễu nhương, những người phát tâm học Phật chân chính cần phải có một nhận thức sáng suốt.
(Xem: 5889)
Do chúng sinh có nhiều bệnh, nên đức Phật mới lập ra nhiều pháp môn, nhưng tất cả giáo lý đều lấy giác ngộ làm đích đến.
(Xem: 4915)
Tu học pháp môn niệm Phật là có thể mang nghiệp vãng sanh, nhưng chúng ta cũng tận lực, hy vọng có thể mang đi ít một chút.
(Xem: 4458)
Chúng ta học được từ nơi Phật Bồ Tát là ở ngay trong cuộc sống thường ngày, nhất định phải dùng tâm chân thành, chân thì không giả, thành thì không hư vọng...
(Xem: 8244)
Thiền (hay Thiền–na) là âm của tiếng Phạn "Dhyana", là pháp môn "trực chỉ Chơn tâm, kiến tánh thành Phật".
(Xem: 6534)
Một câu A Di Đà Phật làm cho chúng ta tỉnh lại. Sau khi tỉnh rồi mới biết được chính mình vốn dĩ là A Di Đà Phật, chính mình vốn dĩ là Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 7400)
Tất cả chúng ta đang sống trong Ánh sáng Vô lượng (Vô lượng Quang) và Đời sống Vô lượng (Vô lượng Thọ), trong bổn nguyện của Phật A Di Đà,
(Xem: 5822)
Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là giáo dục. Giáo dục Phật giáo cứu cánh viên mãn, giúp chúng ta phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui.
(Xem: 5479)
Ở Trung Hoa, kinh Quán Vô Lượng Thọ đóng một vai trò quan yếu trong giai đoạn đầu tiên của sự truyền bá Tịnh độ tông hơn bất kỳ kinh văn nào khác của tông nầy.
(Xem: 6415)
Niệm Phật là một trong những pháp môn tu hành rất căn bản được Đức Thế Tôn chỉ dạy rất rõ ràng, hiện còn lưu lại trong các bản kinh cổ nhất,
(Xem: 6746)
Tịnh Độphương cách thích hợp nhất để đạt thành tựu trong một kiếp, và là cách tốt nhất để cứu độ chúng sinh.
(Xem: 7547)
Gặp được Phật pháp rất khó! Trên đời này không có pháp nào thoát ly sanh tử, chỉ có giáo pháp của Phật mới ra khỏi sinh tử luân hồi.
(Xem: 4879)
Tâm thường đế trụ, độ thế chi đạo, ư nhất thiết vạn vật, tuỳ ý tự tại, vi thứ giá loại, tác bất thỉnh chi hửu.
(Xem: 4630)
Học Phật trước tiên phải làm người tốt, xử lý tốt mối quan hệ giữa người với người rồi, tiến thêm một bước, chúng ta phải xử lý tốt mối quan hệ với môi trường tự nhiên.
(Xem: 5271)
Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh.
(Xem: 12640)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9707)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10468)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10335)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9911)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 12023)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10149)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10790)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9902)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8774)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9502)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14529)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8783)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 9091)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 9338)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8812)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10525)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9199)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8370)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 9420)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8990)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9024)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 8356)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8955)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8979)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8746)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9374)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 9045)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8786)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 4091)
Ngày nay, nhiều người niệm Phật A Di Đà để cầu vãng sinh Tây phương Cực Lạc. Điều này phù hợp với đại nguyện của đức Phật A Di Đà cứu độ chúng sinh về cõi Tịnh độ của Ngài để tiếp tục tu hành tới ngày thành Phật.
(Xem: 9051)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 9881)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant