Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đi Tìm Bản Ngã

05 Tháng Mười Hai 202120:17(Xem: 2612)
Đi Tìm Bản Ngã
ĐI TÌM BẢN NGÃ

Geshe Ngawang Dhargyey
Thanh Danh


chu tieu 4

Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi. Khi đó, ngài đến Tu viện Sera ở Lhasa. Ngài rời khỏi Tây Tạng năm 1959 và đến năm 1971 được bổ nhiệm làm người truyền Pháp chính tại Thư viện lưu trữ các tác phẩm Tây Tạng. Ngài ở đó cho đến khi sang New Zealand vào năm 1985 và qua đời 10 năm sau đó. Ngài giảng những lời này ở Trung tâm thiền đại thừa Tushita, New Delhi ngày 2 tháng 1 năm 1980. Robert Thurman đã biên tập lại và xuất bản lần đầu trong quyển Những lời dạy ở Tushita vào năm 1981. 

---

Tất cả chúng ta đều lo buồn; rất nhiều chúng sinh hữu tình thường xuyên khốn khổ. Tuy nhiên, ngay tại đây và bây giờ, chúng tathời gian, không giannăng lực để suy nghĩ cách từ bỏ khổ đau – không phải chỉ là vượt qua một vấn đề hoặc trở nên yên bình hơn, mà là hoàn toàn chấm dứt khổ đau. 

Con người chúng ta có rất nhiều phương pháp tìm kiếm hạnh phúc cho mình nhưng ngay cả khi sống trong một căn nhà đầy đủ mọi thứ chúng ta vẫn cảm thấy không thỏa mãn. Đó là bởi vì chỉ có một thứ duy nhất có khả năng xóa bỏ sự bất thỏa mãn và mang lại hạnh phúc thực sự: đó chính là thực hành Pháp

Nếu chúng ta kiểm lại bên trong chính mình, chúng ta sẽ khám phá ra rằng tất cả bất hạnh của chúng ta đến từ bám luyến hoặc sân hận. Những thứ này thì lại đến từ cái thấy không đúng về bản ngã. Ngay tại giây phút này, chúng ta vẫn coi “Tôi” là một điều rất thật. Trong Nhập Trung Đạo, Chandrakirti phát biểu rằng tất cả khổ đau cảm xúc khởi sinh từ vô minh – hiểu sai về bản tánh của ngã. Đây chính là cội rễ. Để từ bỏ mọi cành nhánh của khổ đau và ngăn ngừa chúng quay trở lại thì chúng ta cần chặt bỏ từ gốc rễ. Bằng cách đó chúng ta chấm dứt khổ đau ngay cả sanh, bệnh, già và chết. 

Những giáo lý chính của đức Phật để xóa bỏ vô minh bằng cách hiểu rõquán chiếu trí huệ tánh Không được ghi lại trong Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (Prajnaparamita), và những đoạn văn này là nguồn biên soạn chính của ngài Long Thọ trong tác phẩm Sáu Mươi Kệ Tụng Biện Luận Lý Tính Duyên Khởi, đặc biệtLuận Trung Quán (Mulamadhyamakakarika). Những lời dạy khác về trí huệ quán chiếu tánh Không có thể tìm thấy trong tác phẩm Bốn trăm bài tụng của ngài Thánh Thiên (Aryadeva); tác phẩm Luận về Trung quán của ngài Phật Hộ (Buddhapalita); tác phẩm Minh Cú Luận của ngài Nguyệt Xứng (Chandrakirti) và chương thứ chín trong tác phẩm Con Đường Bồ Tát Hạnh của ngài Tịch Thiên

Điểm cốt tủy của tất cả các kỹ thuật được miêu tả trong các bản văn trên và các ghi chú khác nhằm phát triển một hiểu biết về tánh Không của tự ngã là một phương pháp được gọi là “Bốn điểm cốt yếu” hay “Bốn chiếc chiếc chìa khóa”. Những điểm này cung cấp một cách tiếp cận rất hiệu quả đến tánh Không. Chúng ta bắt đầu bằng cách áp dụng bốn phương pháp phân tích này để đạt được hiểu biết về vô tự tánh của con người (vô ngã) và sau đó dùng chúng để đạt được hiểu biết về vô tự tánh của hiện tượng (vô pháp). 

ĐIỂM CỐT YẾU ĐẦU TIÊN 

Chiếc chìa khóa đầu tiên là “xác quyết đối tượng cần được tiêu trừ”. Chúng ta không thể quán chiếu tánh Không mà đầu tiên còn không biết cái gì là rỗng không. Tánh Không không phải chỉ là hư vô mơ hồ. Điểm đầu tiên này giúp chúng ta hiểu cách bản ngã giả tạm – đối tượng cần bác bỏtiêu trừ - tồn tại. Chúng ta cần nhận ra cách mà chúng ta xem cái “Tôi” là một tồn tại riêng rẽ, như thể nó độc lập khỏi tổng hòa thân và tâm này. Cái “Tôi” xuất hiện như kiểu đã được hình thành đầy đủ, tự tồn tại và kiểu tồn tại này thì không có vẻ bị tác động bởi những phóng chiếu của tâm. 

Cách mà chúng ta níu giữ và tin rằng cái “Tôi” tồn tại trở nên đặc biệt rõ ràng khi chúng ta giận dữ hoặc sợ hãi. Vào những lúc đó, chúng ta nên phân tích cách mà bản ngã xuất hiện trong tâm cũng như cách mà tâm diễn giải nó. Chúng ta có thể khơi gợi những cảm xúc này trong khi thiền định và trong lúc duy trì chúng, sử dụng một phần tinh tế của thức của mình để nhận ra cách chúng ta tiếp tưởng về cái “Tôi”. 

Để bắt được kẻ trộm, trước tiên chúng ta phải biết hắn là ai và hắn trông như thế nào. Kẻ trộm lớn nhất chính là tri kiến sai lầm về bản ngã – khái niệm cho rằng ko chỉ bản thân ta mà tất cả sự vật hiện tượng đều thật sự tồn tại. Chúng ta tin rằng sự vật hiện tượng thật sự tồn tại theo cách mà chúng xuất hiện đến các giác quan của chúng ta, cũng như chúng cũng tự tồn tại hết sức khách quan. Điều này, khi đó chính là điều chúng ta cần biết để tóm được kẻ đã trộm mất hạnh phúcan lạc của mình. 

Nếu chúng ta không nhận ra được khái niệm sai trái này mà vẫn đi vòng quanh và hô to “tánh Không, tánh Không” chúng ta sẽ dễ rơi vào một trong hai thái cực của đoạn kiến hoặc  thường kiến – tin rằng hoặc mọi thứ tự tồn tại hoặc chẳng có gì tồn tại cả, do vậy tiếp tục phóng đại hoặc chối bỏ hiện thực vốn có. 

Do đó, chúng ta phải nhận ra bản ngã giả tạm này chính là đối tượng cần bác bỏ trước khi thực hành bác bỏ và loại trừ nó. Đây là bước khởi đầu trong việc phát triển hiểu biết về tánh Không và nền tảng để quán chiếu tánh Không. Đầu tiên chúng ta phải tìm kiếm bản ngã giả tạm chứ không phải không có bản ngã. Điều này đòi hỏi phải thực hành thật tinh tấn

Để việc thực hành tánh Không được được hiệu quả, chúng ta trước hết cần chuẩn bị tâm bằng cách tịnh hoá uế trược (tiêu cực) và tích tập công đức. Cốt tủy của tịnh hoá và hình thành công đức là thực hành bảy điểm bao gồm: lễ lạy , cúng dường, sám hối, tùy hỉ, thỉnh cầuhồi hướng. Chúng ta cũng có thể thực hành những nghi quỹ ban đầu như cúng dường mười vạn mạn đà la, trì chú Kim cương tát đỏa…

Khi chúng ta bắt đầu quán sát được bản ngã giả tạm – bản ngãchúng ta theo thói quen cho rằng tồn tại trong mỗi con người, mỗi sự vật hiện tượng, biểu lộ, chúng ta sẽ thật nhanh chóng nhận ra rằng nó chẳng hề tồn tại. Trước khi gặt hái được nhận thức này, cái “Tôi” trông rất thật, rất cụ thể. Nhưng ngay khi chúng ta bắt đầu kiểm tra thì lại chẳng thấy nó đâu cả. Nó biến mất. Nếu cái “Tôi” thật sự tồn tại thì càng tìm kiếm chúng ta càng phải thấy nó rõ hơn chứ? … Hoặc ít ra phải thấy được nó. Nếu không thể tìm thấy thì làm sao nó tồn tại được? 

ĐIỂM CỐT YẾU THỨ HAI 

Cái “Tôi” hoặc là tồn tại đồng nhất cùng với thân và tâm hoặc tự tồn tại một cách độc lập. Không có một cách thứ ba nào khác để nó có thể tồn tại. Đây là chiếc chìa khóa thứ hai, xác quyết sự tồn tại luận lý của hai khả năng, hoặc là tồn tại cùng với thân tâm hoặc là độc lập

Chúng ta hãy xem xét cái “Tôi” độc lập – cái tự nó hình thành mà không phải được tạo ra bởi tâm. Nếu ngã không tồn tại như cách nó xuất hiện thì chúng ta không tin vào nó. Chúng ta có lẽ nghĩ rằng nó đang ở một chỗ nào đó khác – rằng nó sẽ xuất hiện khi chúng ta gặp đạo sư của mình hay nó vẫn đang trôi nổi đâu đó ngoài cửa sổ kia. Nhưng chúng ta cần hiểu rằng không có một cách thứ ba nào cả. Do đó, chúng ta nên thực hành điều cốt tủy thứ hai với nhận thức rằng cái “Tôi” hiển hiện này nếu không đồng nhất hoặc cũng không tách rời khỏi năm uẩn của thân tâm thì không có cách gì nó có tồn tại cả. Tại điểm này, mọi thứ sẽ trở nên dễ dàng hơn cho chúng ta khi muốn hiểu về đặc tính tổng quát của tánh Không

ĐIỂM CỐT YẾU THỨ BA 

Chìa khóa thứ ba là xác quyết sự vắng mặt của sự đồng nhất giữa cái “Tôi” và năm uẩn. Một khi chúng ta đã xác quyết mục tiêu của sự bác bỏ bằng cách thiền định về tánh Không và đã thấy được rằng cái “Tôi” không thể tồn tại độc lập khỏi năm uẩn cũng như không thể là một với năm uẩn, chúng ta tiếp theo tập trung xem xét nếu nó tồn tại với một trong năm uẩn này. 

Nếu “Tôi” là một trong năm uẩn thì bởi vì có năm uẩn, phải có năm trạng thái liên tục của cái “Tôi. Còn nếu chỉ có một cái “Tôi” thì năm uẩn không thể là năm mà chỉ một, không thể chia cắt. Chúng ta do vậy, nên xem xét từng uẩn coi nó có phải chính là tự ngã hay không. Chúng ta hỏi: “Có phải tôi và thân tôi là một?”, “Có phải tôi và cảm giác của tôi là một?”, “Có phải tôi và nhận thức phân biệt của tôi là một?” và tiếp tục đặt ra những câu hỏi tương tự như vậy. 

Có nhiều quy trình phân tích khác nhau cho thấy khái niệm bản ngã đồng nhất với một trong các uẩn là không đúng. Tôi sẽ nói ngắn gọn về chúng một chút. Ví dụ, nếu bản ngã là một thực thể thường hằng, tự tồn tại, thì phá hủy nó là điều không thể. Tiếp đến, nếu cái “Tôi” tồn tại trong cùng cơ thể này thì cơ thể này sẽ không chết, giả sử có chết thì xác cũng không bị thiêu cháy vì cái tôi cũng sẽ bị phá hủy theo. Việc này thật vô lý đúng không. 

Cũng như vậy, thân và tâm lý ra sẽ không thay đổi bởi vì đó là bản tánh của ngã trường tồn. Xa hơn thế, nếu cái “Tôi” tồn tại không phân biệt với thân và tâm vậy thì sẽ chỉ có một thực thể tồn tại không phân biệt. Lúc đó, cái tồn tại riêng rẽ “thân tôi”, “tâm tôi” sẽ không còn đúng nữa. 

Do đó, có nhiều cách để làm rõ và và thiền định để đi đến kết luận rằng sự thực và cách mà chúng ta nhận thức sự vật hiện tượnghoàn toàn khác nhau. Chúng ta không phải là những thực thể cố định và bất biến

ĐIỂM CỐT YẾU THỨ TƯ 

Sau khi đã xác quyết như trên, rằng bản ngãnăm uẩn không phải là một, chúng ta hãy xem xét nếu bản ngã khác và không liên quan gì đến năm uẩn này. Đây là chiếc chìa khóa thứ tư, xác quyết sự vắng mặt của sự khác nhau giữa bản ngãnăm uẩn

Ví dụ nếu bạn có một con cừu, một con dê và một con trâu thì bạn có thể thấy được con trâu nếu bỏ đi con cừu và con dê. Tương tự như vậy, nếu cái “Tôi” tồn tại độc lập khỏi thân và tâm, khi chúng ta loại bỏ thân và tâm, chúng ta sẽ còn lại một thực thể thứ ba gọi là “Tôi”. Nhưng khi chúng ta khởi sự tìm kiếm bên ngoài thân, ngoài cảm giác, ngoài ý thức thì lại chẳng thấy cái “Tôi” nào cả. Hàng thế hệ các hành giả du già đã tìm kiếm và thấy rằng chẳng thấy gì cả ngoài năm uẩn

Một lần nữa, có nhiều cách để làm rõ khi quán chiếu về các khả năng mà bản ngã tách rời khỏi năm uẩn. Nếu chúng thật sự khác nhau thì sẽ không có liên hệ nào giữa chúng. Ví dụ khi chúng ta nói “Đầu của tôi đau”, từ “của tôi” chiếu đến một cái gì khác chứ ko phải “đầu” (sắc) và “đau” (thọ); nó là một cái gì đó nằm ở chỗ khác. Chính uẩn gây đau, không phải tôi. Nếu bản ngã là một cái gì đó khác, khác hẳn với uẩn thì thật ngớ ngẩn khi nói rằng “Đầu tôi đau”, “Tay tôi đau”… mặc dù cơn đau bằng cách nào đó cũng tác động đến bản ngã

Bằng nhiều cách phân tích khác nhau, chúng ta thu hoạch được một điều chắc chắnbản ngãnăm uẩn không thật sự khác biệt. 

THIỀN TẬP VỀ TÁNH KHÔNG 

Vì bốn chiếc chìa khóa chứa đựng những điểm cốt yếu trong kiến giải của ngài Long Thọ về Trung Đạo, chúng giúp cho thiền định về tánh Không có phần dễ dàng hơn. 

Nếu chúng ta thiền định với bốn chiếc chìa khóa nhằm tìm kiếm bản ngã trong thân này thì từ đầu đến chân và cả trong các uẩn của tâm chúng ta đều sẽ không tìm thấy gì cả. Khi đó, chúng ta ngộ ra được một điều là cái tôi cứng chắc, không lay chuyển chẳng hề tồn tại. Điều này trông giống như tìm kiếm một con bò trên cánh đồng, chúng ta tìm trên đồi, dưới thung lũng, xuyên qua đám cây, mọi nơi có thể. Sau khi tìm kiếm toàn bộ khu vực mà không thấy gì, chúng ta đi đến kết luận rằng con bò không có ở đó. Tương tự như vậy, chúng ta cũng không tìm thấy một cái tôi có tự tánh khi tìm kiếm trong các uẩn của thân tâm. Đây chính là hiểu biết về tánh Không

Chúng ta khi đó tập trung vào chỉ một điểm duy nhất là sự vắng mặt của bản ngãchúng ta vẫn luôn cho rằng có tồn tại. Mỗi khi sự chắc chắn này yếu hoặc mờ đi, chúng ta lại quay về với thiền phân tích bằng bốn chiếc chìa khóa như đã nói. Khi sự sắc bén quay trở lại chúng ta tập trung vào một điểm duy nhất này. Bằng cách này, chúng ta gặt hái được hai thứ: chắc chắn rằng không có cái tôi nào ngoài kia và kinh nghiệm khách quan làm cách nào nhận thức này đã xuất hiện. Bằng cách giữ hai điều này cùng với nhau và không cho phép tâm đi lang thang, chúng ta sẽ đạt được sự tập trung duy nhất vào một điểm hấp thu cân bằng không gian. Nơi mọi thứ xuất hiện không hai, như nước rót vào nước vậy. 

Chúng ta cũng cần phải học cần phải làm gì khi ra khỏi thiền định – trong giai đoạn hậu thiền định phải thấy mọi thứ như huyễn. Mặc dù mọi thứ xuất hiện như thể nó có tự tánh, nó cũng chỉ là một biểu hiện của tánh Không mà thôi, như các trò ảo thuật vậy. Trạng thái này gọi là định của những huyễn hiện.

Việc thực hành của chúng ta bằng cách này, luân chuyển giữa định hoà tan như không gian và định của huyễn hiện, sẽ giúp chúng ta tránh rơi vào các cực của thường kiếnđoạn kiến. Điều này sẽ kích hoạt một nhân tố kích thích thần kinh (ectasy) và giúp chúng ta kinh nghiệm trạng thái rất thư giãn của tinh thầnthể chất. Việc thiền định lúc này tự nó cất cánh mà không cần nhiều nỗ lực. Một khi chất ectasy này được kích hoạt, năng lực thiền định sẽ tăng lên hàng trăm lần giúp chúng ta xuyên thấu tới trí huệ tánh Không

Chúng ta nên dành nhiều thời gian hơn cho việc thiền định về bốn chiếc chìa khóa này. Sẽ có nhiều khó khăn nhưng đây là cách thiền định mạnh mẽ nhất và lợi lạc nhất để đối phó với mê lầm. Như ngài Thánh Thiên từng nói: “Ngay cả nghi ngờ về căn cứ của tánh Không cũng có thể xé toạc sinh tử luân hồi”. 

Thiền định về tánh Không cũng là cách mạnh mẽ nhất để thanh tịnh nghiệp xấu. Trong thời của đức Thích Ca Mâu Ni, có một vị vua đã giết chính cha mình. Nhưng ông ấy quá sợ hãi về việc mình sẽ bị đày xuống địa ngục nên đã cầu xin đức Phật lời khuyên. Đức Phật dạy nhà vua thiền định về tánh Không. Nhà vua đã toàn tâm thực hành theo phương pháp này và về sau thanh tịnh được nghiệp xấu trong dòng tâm thức của mình. 

Sau khi đức Tsong Khapa - Tông Khách Ba thành tựu giác ngộ, ngài đã viết bài thơ “Xưng Tán Duyên Khởi” trong đó ngài nói rằng mặc dù tất cả lời dạy của đức Phậtlợi lạcsáng suốt nhưng cái lợi lạcsáng suốt nhất chính là lời dạy về tánh Không bởi vì chính nhờ thiền định về tánh Khôngchúng sinh hữu tình có thể cắt đứt cội rễ của sinh tử luân hồiđạt được giải thoát khỏi khổ đau. Trong sự kinh ngạchân hoan, đức Tsong Khapa xưng tán nhận thức siêu việttrí huệ đáng tin cậy của đức Phật như là một triết gia và cũng là một nhà khoa học. 

Khi chúng ta hiểu rằng đức Phật đã thật sự thấu suốt và mô tả bản tánh của hiện tại bằng các lời dạy của ngài về tánh Không, một niềm tin vững chắc sinh khởi bên trong chúng ta. Niềm tin này không phải dựa trên những câu chuyện hay tưởng tượng mà chính dựa vào kinh nghiệm mà mỗi chúng ta đã có thông qua thực hànhquán chiếu. Chúng ta thấy được hiện tại hiện hữu một cách chính xác như đức Phật đã mô tả. Hơn thế nữa, ngài đã tìm ra điều này lâu, rất lâu trước khi có các phương tiện khoa học kỹ thuật như ngày nay. 

Trích từ “NHỮNG GIÁO LÝ TỪ TÂY TẠNG - Hướng dẫn của những Lạt Ma vĩ đại”

Nicholas Ribush biên tập bản tiếng Anh. NXB. Lama Yeshe Wisdom Archive, 2005.

Thanh Danh dịch sang tiếng Việt, 2021.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21403)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22185)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16895)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 13432)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22820)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 19016)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18469)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21636)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20045)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14086)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15020)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 17255)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15895)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 13015)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13147)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 22669)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 19373)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37723)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 17909)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14574)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19723)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14646)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 15944)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 29850)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 17772)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 18539)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 19937)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 19109)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18569)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20700)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
(Xem: 19428)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18533)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 29873)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 21611)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 20826)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26340)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 52157)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 21794)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 35041)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 17258)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18044)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19589)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 17476)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 30837)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19193)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 19561)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19770)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 19413)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 58772)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 19773)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 19130)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15121)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33058)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17492)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19129)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 23010)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16624)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16470)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16514)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22995)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant