Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền sư Trung Hoa

24 Tháng Mười 201300:00(Xem: 46724)
Thiền sư Trung Hoa

THIỀN SƯ TRUNG HOA 

HT Thích Thanh Từ

thiensutrunghoa

MỤC LỤC TẬP 1

Lời Dẫn Ðầu.
Ðời Thứ Nhất Môn Ðệ Lục Tổ Huệ Năng.
1- Thiền sư Hành Tư (Thanh Nguyên)

2- Thiền sư Hoài Nhượng (Nam Nhạc)

3- Thiền sư Huyền Giác (Vĩnh Gia)

4- Thiền sư Bổn Tịnh

5- Quốc sư Huệ Trung

6- Thiền sư Thần Hội (Hà Trạch)

Ðời Thứ Hai Sau Lục Tổ.
7- Thiền sư Hy Thiên (Thạch Ðầu)

8- Thiền sư Ðạo Nhất (Mã Tổ)

Ðời Thứ Ba Sau Lục Tổ.
A Phái Hành Tư.
9. Thiền sư Duy Nghiễm (Dược Sơn)

10. Thiền sư Thiên Nhiên (Ðơn Hà)

11. Thiền sư Ðạo Ngộ (Thiên Hoàng Tự)

12. Thiền sư Bảo Thông (Ðại Ðiên)

B. Phái Hoài Nhượng
13. Thiền sư Hoài Hải (Bá Trượng)

14. Thiền sư Phổ Nguyện (Nam Tuyền)

15. Thiền sư Huệ Hải (Ðại Châu)

16. Thiền sư Ẩn Phong (Ðặng Ẩn Phong)

17. Thiền sư Huệ Tạng (Thạch Củng)

18. Thiền sư Trí Tạng (Tây Ðường)

19. Thiền sư Trí Thường (Qui Tông)

20. Thiền sư Pháp Thường (Ðại Mai)

21. Thiền sư Vô Nghiệp.

22. Thiền sư Ðạo Ngộ (Thiên Vương Tự)

23. Thiền sư Linh Mặc.

24. Thiền sư Duy Khoan.

25. Thiền sư Như Hội.

26. Thiền sư Bảo Triệt (Ma Cốc)

27. Thiền sư Tề An.

28. Cư sĩ Long Uẩn.

Ðời Thứ Tư Sau Lục Tổ.
A Phái Hành Tư.
29. Thiền sư Ðàm Thạnh (Vân Nham)

30. Thiền sư Viên Trí (Ðạo Ngô)

31. Thiền sư Ðức Thành (Hoa Ðình Thuyền Tử)

32. Sa-di Cao.

33. Thiền sư Vô Học (Thúy Vi)

34. Thiền sư Nghĩa Trung (Tam Bình)

B. Phái Hoài Nhượng.
35. Thiền sư Linh Hựu (Qui Sơn)

36. Thiền sư Hy Vận (Hoàng Bá)

37. Thiền sư Ðại An.

38. Thiền sư Thần Tán.

39. Thiền sư Vô Ngôn Thông.

40. Thiền sư Hoằng Biện.

41. Thiền sư Trí Chơn.

42. Thiền sư Cảnh Sầm (Trường Sa)

43. Thiền sư Tùng Thẩm (Triệu Châu)

44. Thiền sư Sùng Tín (Long Ðàm)

MỤC LỤC TẬP 2

Lời nói đầu.
Đời Thứ Năm Sau Lục Tổ.
A. Phái Hành Tư.
1. Thiền sư Lương GiớiĐộng Sơn khai Tổ tông Tào Động.

2. Thiền sư Tăng Mật.

3. Thiền sư Khánh ChưThạch Sương.

4. Thiền sư Đại Đồng ở núi Đầu Tử.

5. Thiền sư Thiện HộiGiáp Sơn.

B. Phái Hoài Nhượng.
6. Thiền sư Nghĩa HuyềnLâm Tế khai Tổ tông Lâm Tế.

7. Thiền sư Trần Tôn Túc hiệu Đạo Minh.

8. Thiền sư Huệ TịchNgưỡng Sơn -Tổ thứ hai tông Qui Ngưỡng.

9. Thiền sư Trí Nhàn ở Hương Nghiêm.

10. Thiền sư Thường Thông ở núi Tuyết Đậu.

11. Ni Liễu Nhiên ở Mạt Sơn.

12. Thiền sư Tuyên Giám ở Đức Sơn.

Đời Thứ Sáu Sau Lục Tổ.
13. Thiền sư Bổn Tịch ở Tào Sơn - Tổ thứ hai Tào Động.

14. Thiền sư Đạo ƯngVân Cư.

15. Thiền sư Tồn Tương ở Hưng Hóa.

16. Thiền sư Huệ Nhiên ở viện Tam Thánh.

17. Hòa thượng Đại Giác.

18. Thiền sư Văn Hỷ.

19. Thiền sư Quang Dũng ở Nam Tháp.

20. Thiền sư Toàn Khoát ở Nham Đầu.

21. Thiền sư Nghĩa TồnTuyết Phong.

Đời Thứ Bảy Sau Lục Tổ.
22. Thiền sư Huyền Ngộ hiệu Quang Huệ ở Hà Ngọc.

23. Thiền sư Tùng Chí hiệu Huyền Minh ở Kim Phong.

24. Thiền sư Xử Chơn ở Lộc Môn.

25. Thiền sư Huệ Ngung hiệu Bảo Ứng ở Nam Viện.

26. Thiền sư Toàn Phó ở Thanh Hóa.

27. Thiền sư Huệ Thanh ở Ba Tiêu.

28. Thiền sư Sư Nhan ở Đoan Nham.

29. Thiền sư Tông Nhất pháp danh Sư Bị ở Huyền Sa.

30. Thiền sư Huệ Lăng ở Trường Khánh.

31. Thiền sư Văn Yến ở Vân Môn khai Tổ tông Vân Môn.

Đời Thư Tám Sau Lục Tổ.
32. Thiền sư Trí Tịnh hiệu Ngộ Không ở Cốc Ẩn.

33. Thiền sư Hành Nhơn ở Lô Sơn Phật Thủ Nham.

34. Thiền sư Diên Chiểu ở Phong Huyệt.

35. Thiền sư Thanh Nhượng ở núi Hưng Dương.

36. Thiền sư Pháp Mãn ở núi U Cốc.

37. Thiền sư Quế Sâm ở viện La-hán.

38. Thiền sư Huệ Cầu ở viện An Quốc núi Ngọa Long.

39. Hòa thượng Bạch Vân Tường hiệu Thật Tánh.

40. Thiền sư Trừng ViễnHương Lâm.

41. Thiền sư Tông Huệ hiệu Thủ Sơ ở Động Sơn.

Đời Thứ Chín Sau Lục Tổ.
42. Thiền sư Trí Nghiêm ở Cốc Ẩn.

43. Thiền sư Pháp Hiển ở viện Phổ Ninh.

44. Thiền sư Tỉnh Niệm ở Thủ Sơn Nhữ Châu.

45. Thiền sư Chơn ở Quảng Huệ.

46. Thiền sư Văn Ích hiệu Tịnh Huệ khai Tổ tông Pháp Nhãn.

47. Thiền sư Hưu Phục hiệu Ngộ Không ở viện Thanh Lương.

48. Thiền sư Thiệu Tu ở Long Tế.

49. Thiền sư Quang Tộ ở chùa Trí Môn Tùy Châu.

50. Thiền sư Giới ở Ngũ Tổ.

51. Am chủ Tường ở Liên Hoa Phong.

Đời Thư Mười Sau Lục Tổ.
52. Thiền sư Kỉnh Huyền ở núi Đại Dương.

53. Thiền sư Thiện Chiêu ở Phần Dương.

54. Thiền sư Qui Tỉnh ở viện Quảng Giáo Diệp Huyện.

55. Thiền sư Trí Tung ở Tam Giao viện Thừa Thiên.

56. Thiền sư Trùng Hiển ở Tuyết Đậu, Minh Châu.

57. Thiền sư Hiểu Thông ở Động Sơn.

58. Thiền sư Tự Bảo ở Động Sơn.

59. Quốc sư Đức Thiều ở núi Thiên Thai.

60. Thiền sư Huệ Minh ở chùa Báo Ân.

61. Thiền sư Pháp Đăng hiệu Thái Khâm ở viện Thanh Lương.

62. Thiền sư Thanh Tủng ở Linh Ẩn Hàn Châu.

Đời Thứ Mười Một Sau Lục Tổ.
63. Thiền sư Nghĩa ThanhĐầu Tử.

64. Thiền sư Thanh Phẩu ở Hưng Dương.

65. Thiền sư Từ Minh Sở ViênThạch Sương.

66. Thiền sư Quảng Chiếu Huệ Giác ở núi Lang Nha.

67. Thiền sư Nghĩa HoàiThiên Y.

68. Cư sĩ Tu Tuyển Tằng Hội.

69. Thiền sư Ỷ Ngộ ở Pháp Xương.

70. Thiền sư Phật Ấn hiệu Liễu NguyênVân Cư.

71. Thiền sư Huệ Nhật Trí Giác ở chùa Vĩnh Minh Diên Thọ

72. Thiền sư Chí Phùng ở chùa Hoa Nghiêm núi Ngũ Vân.

73. Thiền sư Bổn Tiên ở chùa Đoan Lộc.

Đời Thứ Mười Hai Sau Lục Tổ.
74. Thiền sư Đạo Giai ở Phù Dung.

75. Thiền sư Báo Ân ở núi Đại Hồng.

76. Thiền sư Huệ Nam ở Hoàng Long khai Tổ hệ phái Hoàng Long.

77. Thiền sư Phương HộiDương Kỳ khai Tổ hệ phái Dương Kỳ.

78. Thiền sư Tông Bổn hiệu Viên ChiếuHuệ Lâm.

79. Thiền sư Pháp Tú hiệu Viên Thông ở chùa Pháp Vân.

80. Thiền sư Duy Chánh ở viện Tịnh độ Hàn Châu.

(Hai hệ phái này là chi nhánh Tông Lâm Tế)

MỤC LỤC TẬP 3

Lời đầu sách.
Đời Thứ Mười Ba Sau Lục Tổ.
1- Thiền sư Pháp ThànhHương Sơn.
2- Thiền sư Tề Liên ở Đại Trí.
3- Thiền sư Tử Thuần ở Đơn Hà.
4- Thiền sư Duy Chiếu ở Bảo Phong.
5- Thiền sư Tổ Tâm Hối Đường Hoàng Long.
6- Thiền sư Khắc Văn Chơn Tịnh ở Phần Đàm.
7- Thiền sư Hồng Anh ở Phần Đàm.
8- Thiền sư Thủ ĐoanBạch Vân.
9- Thiền sư Nhơn Dũng ở Bắc Ninh.
10- Thiền sư Thiện BổnPháp Vân.
11- Thiền sư Tu Ngung Chứng NgộĐầu Tử.
12- Thiền sư Thiện Ninh Pháp ẤnKim Sơn.
13- Thiền sư Duy Nhạc Phật Nhật ở Tịnh Nhơn.
Đời Thứ Mười Bốn Sau Lục Tổ.
14- Thiền sư Chánh Giác hiệu Hoằng TríThiên Đồng Minh Châu.
15- Thiền sư Thanh Liễu Chơn Yết ở Trường Lô Chơn Châu.
16- Thiền sư Đức Chỉ Chơn TếViên Thông Giang Châu.
17- Thiền sư Cảnh Thâm ở Trí Thông Hưng Quốc.
18 Thiền sư Ngộ Tân Tử Tâm ở Hoàng Long.
19- Thiền sư Duy Thanh Linh Nguyên ở Hoàng Long.
20- Thiền sư Tùng Duyệt ở Đẩu Suất.
21- Thiền sư Cảo Phật Chiếu ở Pháp Vân.
22- Thiền sư Văn Chuẩn ở Phần Đàm.
23- Thiền sư Pháp DiễnNgũ Tổ.
24- Thiền sư Trí Bổn núi Vân Cái Đàm Châu.
25- Thiền sư Nhật Ích ở Thượng Phương.
26- Thiền sư Bảo Ấn Sở Minh ở Tịnh Từ phủ Lâm An.
27- Thiền sư Diệu Trạm Tư HuệTuyết Phong.
28- Thiền sư Chí Tuyền Tổ ĐăngVân Phong.
Đời Thứ Mười Lăm Sau Lục Tổ.
29- Thiền sư Từ Tông ở Tuyết Đậu Minh Châu.
30- Thiền sư Huệ Huy Tự Đắc ở Tịnh Từ Hàn Châu.
31- Thiền sư Huệ PhươngHòa Sơn.
32- Am chủ Diệu Phổ Tánh Không ở Hoa Đình.
33- Thiền sư Thủ Trác ở Trường Linh Thiên Ninh.
34- Thiền sư Bổn Tài Phật Tâm ở Thượng Phong Đàm Châu.
35- Thiền sư Khắc Cần Phật Quả ở Chiêu Giác.
36- Thiền sư Huệ Cần Phật GiámThái Bình.
37- Thiền sư Thanh Viễn Phật NhãnLong Môn.
38- Thiền sư Đạo Ninh ở Khai Phước Đàm Châu.
39- Thiền sư Nguyên Tĩnh ở Nam Đường Đại Tùy.
40- Thiền sư Tông Thới ở Vô Vi Hán Châu.
41- Thiền sư Biểu Tự ở Ngũ Tổ Kỳ Châu.
Đời Thứ Mười Sáu Sau Lục Tổ.
42- Thiền sư Tông Cảo Đại Huệ Diệu Hỷ.
43- Thiền sư Thiệu Long ở Hổ Khưu.
44- Thiền sư Đoan Dụ Phật Trí ở Dục Vương.
45- Thiền sư Pháp Giới Phật Tánh ở Đại Qui.
46- Thiền sư An Dân Mật ẤnHoa Tạng.
47- Thiền sư Tổ Giác Hoa Nghiêm Trung Nham.
48- Thiền sư Huệ Viễn Hạt Đường Linh Ẩn.
49- Thiền sư Tâm Đạo ở Văn-thù phủ Thường Đức.
50- Thiền sư Trí Tài ở Long Nha.
51- Thiền sư Thủ Tuần Phật Đăng ở Hà Sơn.
52- Thiền sư Sĩ Khuê Trúc Am ở Long Tường.
53- Thiền sư Pháp Trung Mục Am ở Hoàng Long.
54- Thiền sư Đạo Hạnh Tuyết Đường ở Ô Cự.
55- Thiền sư Minh Biện Chánh Đường ở Đạo Tràng.
Đời Thứ Mười Bảy Sau Lục Tổ.
56- Thiền sư Di Quang Hối Am ở Giáo Trung.
57- Thiền sư Đạo Nhan Vạn Am ở Đông Lâm.
58- Thiền sư Đảnh Nhu Lại Am ở Tây Thiền.
59- Thiền sư Thủ Tịnh Thử Am ở Tây Thiền.
60- Thiền sư Đức Quang Phật Chiếu ở Dục Vương.
61- Thiền sư Đàm Hoa Ưng Am ở Thiên Đồng.
62- Thiền sư Trung An ở Linh Nham.
63- Thiền sư Bảo Ấn Biệt Phong ở Cảnh Sơn.

LỜI DẪN ĐẦU

Tập I “Thiền sư Trung Hoa” này, chúng tôi góp dịch trong ba bộ sách “Cảnh Đức Truyền Đăng Lục”, “Chỉ Nguyệt Lục” và “Cao Tăng Truyện”. Tuy chung hội cả ba bộ sách, song hành trạng của Thiền sư “ra đi không lưu lại dấu vết”, nên chi không thể tìm kiếm đầy đủ được. Mặc dù thế, chúng tôi nghĩ một câu nói của Thiền sư, nếu độc giả lãnh hội được, cũng có thể đủ tu hành đến giải thoát. Cho nên, chúng tôi không ngại phiên dịch ra đây.

Đặc điểm trong sự truyền bá Thiền tông, Thiền sư không khi nào nói trắng ra những cái gì mình muốn dạy cho kẻ tham vấn. Các ngài khéo dùng những hành động lạ thường, những ngôn ngữ bí hiểm khiến cho người tham vấn phải ngạc nhiên, phải nghi ngờ. Vì thế, chỉ có những người lanh lợi mới có thể ngay đó thể hội được. Bằng người không thể ngay đó thể hội, thì phải ôm hoài nghi mãi trong lòng, đến bao giờ gặp cơ duyên mới tỉnh ngộ. Có một Thiền sư đã nói: “Tôi không quí Tiên sư về đức hạnh, mà chỉ quí chỗ không giải nghi cho tôi.” Do đó, khi cầm viết dịch tập sách này, tôi chỉ muốn hoàn toàn là dịch giả, không muốn xen vào một ý kiến nào.

Nhưng hành trạng Thiền sư thật quá khó hiểu. Có khi các ngài như quá ngang tàng không kể gì tội phước, như Thiền sư Đơn Hà thiêu tượng Phật. Có khi các ngài như thô bạo dám giết hại chúng sanh, như Nam Tuyền cầm dao chặt con mèo. Có khi các ngài như tàn nhẫn không biết thương kẻ hậu học, như Hoàng Bá đánh Lâm Tế. Hoặc các ngài tự bảo sau khi chết sẽ sanh làm con trâu, như Nam Tuyền, Qui Sơn... Vì thế, nếu chúng tôi không điểm sơ qua, quí độc giả khó bề lãnh hội được thâm ý. Chẳng những không lãnh hội được thâm ý, trái lại còn đâm ra nghi ngờ hoang mang, có khi phỉ báng các ngài là khác. Bởi lẽ ấy, buộc lòng chúng tôi phải dẫn giải một vài điểm đặc biệt ở sau đây, gọi là hé cửa cho quí độc giả bước vào nhà Thiền.

Người tu theo Thiền tông cốt nhận được bản tâm, thấy được bản tánh của mình. Khi nhận được bản tâm, mới tin “tâm tức là Phật”. Khi thấy được bản tánh, mới tin “tánh mình đầy đủ tất cả, xưa nay vẫn thanh tịnh”. Nhưng tâm tánh ở đâu? thế nào? Tất cả người tu Phật đều thắc mắc vấn đề này. Khi đặt câu hỏi tâm tánh ở đâu? thế nào? thì khác gì người cỡi trâu tìm trâu, vác Phật đi cầu Phật, biết bao giờ thấy được. Sao chúng ta không mạnh mẽ như Thiền sư Huệ Hải? Khi Sư đến tham vấn Mã Tổ, Mã Tổ hỏi:
- Đến đây tính cầu việc gì?
Sư thưa:
- Đến cầu Phật pháp.
- Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì? Ta trong ấy không có một vật, cầu Phật pháp cái gì?
- Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải?
- Chính nay ngươi hỏi ta, đó là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả không thiếu thốn, tự do sử dụng đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.
Ngay câu nói này, Sư nhận được bản tâm.
Thật không xa, nếu chúng ta can đảm tin nhận thì nó sờ sờ trước mắt. Bằng chúng ta không tin nhận thì tìm mãi suốt đời không ra. Bởi chúng ta đã tưởng tượng quá nhiều về tâm tánh, những tưởng tượng ấy đã tô đắp vẽ vời khiến bộ mặt thật của tâm tánh biến thành hình tướng lạ kỳ huyền bí. Giờ đây, nghe các Thiền sư chỉ thẳng bộ mặt thật của nó rất tầm thường bình dị, tất cả chúng ta không ai chịu tin. Do đó, muốn thấy bộ mặt thật của mình (Bản lai diện mục) qua các lời chỉ dạy của các Thiền sư, chúng ta phải gạt bỏ mọi tưởng tượng đã có lâu nay đi, khả dĩ mới trực nhận được tâm tánh.

Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian. Tất cả hình thức bên ngoài đối với Thiền sư không có gì là quan trọng. Dù ngồi thiền suốt ngày, dưới con mắt các ngài vẫn thấy chưa phải là tinh tấn. Vì thế, Thiền sư Hoài Nhượng mới đặt câu hỏi với Thiền sư Đạo Nhất, khi Sư này đang mải mê ngồi thiền, rằng: “Như trâu kéo xe, xe không đi, đánh xe là phải hay đánh trâu là phải?”
Huống nữa, quên tâm mình chạy theo hình thức bên ngoài, càng tu càng xa đạo. Không có sự giác ngộ nào ngoài tâm mà có. Phật là giác, nếu chúng ta cầu Phật mà quên tâm, thử hỏi bao giờ thấy Phật. Những hình tượng Phật, Bồ-tát thờ bên ngoài, chỉ là phương tiện gợi lại cho chúng ta nhớ bản tâm. Nếu chúng ta không chịu nhớ lại bản tâm, cứ cầu cạnh nơi hình tượng bên ngoài, thật là một việc làm trái đạo. Vì thế, Thiền sư Đơn Hà đã bạo dạn thiêu tượng Phật gỗ. Viện chủ Hướng nóng lòng hỏi: “Tại sao thiêu tượng Phật của tôi?” Sư đáp: “Thiêu tìm xá-lợi.” Thật là một câu đáp bất hủ. Vậy mà Viện chủ còn ngây thơ nói: “Phật gỗ làm gì có xá-lợi.” Sư bảo: “Thỉnh thêm hai vị nữa thiêu.” Quả nhiên một tiếng sấm tét màng tai, làm sao Viện chủ không tỉnh ngộ được. Do đó, người sau nói: “Đơn Hà thiêu Phật gỗ, Viện chủ rụng lông mày.” (Đơn Hà thiêu mộc Phật, Viện chủ lạc mi mao.) Hành động táo bạo của Thiền sư Đơn Hà là một sức mạnh phi thường, đánh thức được người đang chìm trong giấc mê hình thức.

Muốn trắc nghiệm chỗ thấy biết của người, không gì hay hơn ở trong một trường hợp bất thần bắt buộc họ phải thố lộ ra lời nói, hoặc hành động. Thiền sư Nam Tuyền giơ dao sắp chặt con mèo một cách đột ngột giữa đại chúng, bắt buộc chúng phải đáp một câu cho hợp ý, Sư sẽ cứu con mèo. Rốt cuộc trong đại chúng không có người đáp được, buộc lòng Sư phải hạ dao. Hành động ấy không phải nhằm vào con mèo, mà nhằm thẳng đại chúng. Nhưng đại chúng đã bất lực, Sư bất đắc dĩ phải giết con mèo như lời đã nói. Khi Tùng Thẩm đi ngoài về, Sư cũng thuật lại lời ấy, Tùng Thẩm liền cổi giày đội trên đầu. Sư bảo: “ Giá khi nãy có ngươi thì đã cứu được con mèo.” Hành động bất thần của Sư chẳng khác nào cơn sét đánh, chỉ có Tùng Thẩm biết được ý Sư nên cổi giày đội trên đầu. Bởi vì chỗ tột quí của con người là đầu, cái ti tiện nhất là giầy. Tùng Thẩm cổi giày đội trên đầu là nói lên cái thấy của mình không có quí tiện, không còn phàm thánh, vượt ngoài vòng đối đãi. Đó là chỗ thầy trò thông hội nhau. Người thời nay thấy hành động giết con mèo của Sư, liền kết ánphạm tội sát sanh. Họ có biết đâu, Sư đã khéo mượn phương tiện để thấy cứu kính.

Chân tâm là chỗ bặt suy nghĩ, càng suy nghĩ càng xa. Thiền tông xưa nay truyền trao chỉ một chân tâm không gì khác. Người tu thiền vừa móng lòng tìm chân tâm thì không bao giờ thấy nó. Vì thế, Sư Lâm Tế Nghĩa Huyền vừa hỏi “thế nào là đại ý Phật pháp” liền bị Thiền sư Hoàng Bá đập cho một gậy, ba phen hỏi đều ăn ba gậy, mà không được một lời chỉ dạy. Thế mà, đi đến Thiền sư Đại Ngu, Lâm Tế thuật lại việc bị đánh, “mà không biết có lỗi gì”, Đại Ngu còn nói: “Hoàng Bá dạy ngươi rất thống thiết, chỉ tại ngươi còn tìm lỗi.” Ngay câu nói này, Lâm Tế tỉnh ngộ. Thế mới biết, cái đánh của Hoàng Bá thật thống thiết. Nhưng, nếu khôngThiền sư Đại Ngu thì cái đánh ấy trở thành vô nghĩa.

Chân tâm hằng lộ liễu trong mọi hành động của ta. Nếu ta trực nhận là thấy, bằng không trực nhận tìm hoài suốt kiếp cũng chẳng gặp. Người học đạo không chịu ngay nơi hành động trực nhận chân tâm, mãi cầu thiện tri thức chỉ dạy cho thể hội. Nhưng làm sao chỉ dạy được, vừa nói ra là đã sai rồi. Vì thế, Sư Sùng Tín theo hầu Thiền sư Đạo Ngộ mấy năm mà không nghe chỉ dạy. Nóng lòng, Sư hỏi: “Con theo hầu Thầy mấy năm mà chưa được Thầy chỉ dạy tâm yếu.” Đạo Ngộ bảo: “Ta đã từng chỉ dạy tâm yếu cho ngươi rồi.” - “Thầy dạy con lúc nào?” - “Khi ngươi bưng cơm lên thì ta nhận, ngươi dâng trà thì ta tiếp, ngươi xá lui ra thì ta gật đầu, đâu không dạy tâm yếu cho ngươi?” Nhân câu nói này, Sư Sùng Tín tỉnh ngộ. Thật, dạy mà không dạy, nói mà không nói. Đây là đại dụng của Thiền sư, những người học ngôn ngữ không sao hiểu thấu.

Người tu Thiền phải dẹp sạch bản ngã, dù là bản ngã thánh cũng không còn. Nếu còn thấy sở đắc là còn bản ngã, giả sử thấy đắc quả thánh cũng là vị thánh tương đối, chớ chưa thật giải thoát. Chỗ giải thoát cứu kính là tâm không còn dính mắc một chỗ nào, như câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Vì thế vua Đường Túc Tông hỏi Thiền sư Huệ Trung: “Thầy được pháp gì?” Huệ Trung đáp: “Bệ hạ thấy một mảnh mây trong hư không chăng?” - “Thấy” - “Nó do đóng đinh mắc hay cột dây mắc?” Được không dính mắc mới tự tại giải thoát, còn dính mắc bất cứ một quả vị nào cũng là chưa tự tại. Thế mà, người tu thiền hiện nay ngồi lại là mong thấy cái này, chứng quả kia. Khởi tâm vọng cầu như vậy làm sao không lạc vào cảnh giới ma? Làm sao tránh khỏi cuồng loạn?

Chẳng những tâm không còn dính mắc trong quả vị, mà cũng sạch hết phàm tình thánh giải. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhược tác thánh giải tức thọ quần tà.” Phàm tình là tình chấp của chúng sanh trong lục đạo. Thánh giải là cái hiểu thánh, hiểu rằng mình chứng mình đắc trong các quả vị thánh. Nếu chưa sạch phàm tình thánh giải thì người tu khó bề thoát khỏi cảnh ma. Tổ Qui Sơn sắp tịch, bảo chúng: “Sau khi Lão tăng trăm tuổi sẽ đến dưới núi làm con trâu, hông bên trái đề năm chữ ‘Qui Sơn Tăng Linh Hựu’. Khi ấy, gọi là Qui Sơn tăng hay gọi là con trâu? Gọi là con trâu hay gọi là Qui Sơn tăng? Gọi thế nào mới đúng?” Người thời nay nghe câu nói này bèn sanh nghi “tại sao Ngài tu như vậy mà đọa làm súc sanh”? Thật là cái biết của kẻ mù, làm sao thấy được trời đất bao la? Nơi Ngài tâm phàm thánh đã sạch mới thốt ra được câu ấy.
Chúng tôi mong quí độc giả khi đọc quyển sách này, mỗi người tự cổi sạch những thiên chấp của mình để thấy được đại cơ đại dụng của Thiền sư, đừng bị đầu lưỡi các Ngài lừa.

Tập sách này, chúng tôi soạn dịch các vị Thiền sư từ đời thứ nhất sau Lục tổ Huệ Năng đến đời thứ tư, tức là đến bắt đầu chia tông phái. Tập thứ hai, chúng tôi soạn dịch từ đời thứ năm sau Lục Tổ đến đầy đủ chia năm Tông và bảy Phái, nghĩa là Tông Tào Động, Lâm Tế, Qui Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn và đến Tông Lâm Tế chia làm hai phái Huỳnh Long và Dương Kỳ.

Về phần sử chư Thiền đức ở Trung Hoa đến đây không phải là hết, song những nhân vật trọng yếu trong nhà Thiền cũng gần tạm đủ. Đợi khi có thì giờ rỗi, chúng tôi có thể sẽ dịch thêm để cống hiến quí độc giả.

Kính ghi
THÍCH THANH TỪ

Source: thuvienhoasen
Ý kiến bạn đọc
04 Tháng Tư 201614:13
Khách
NAMO BONSU THICHCA MAUNI PHAT.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8028)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35567)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19704)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11714)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23201)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13361)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5851)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10627)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10364)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10066)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20873)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6209)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6860)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8901)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6025)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18164)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6357)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6738)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6558)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13025)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5879)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7896)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10211)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7879)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9879)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9088)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5990)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24560)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36417)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7737)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11556)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10050)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5232)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5426)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10012)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7890)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9377)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8669)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46538)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6910)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12327)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5803)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14517)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13004)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12446)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14580)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12447)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10961)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9645)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16718)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8487)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5976)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9961)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6380)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11359)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7050)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 13514)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8401)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6862)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9181)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6187)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6911)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17863)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18187)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15811)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6965)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31261)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9586)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7699)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21635)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34182)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33332)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14243)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35676)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13013)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15784)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13694)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33057)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26393)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41426)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40365)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20063)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33721)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29687)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33735)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18886)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22729)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22454)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49018)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11975)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11169)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22524)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18011)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15121)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22698)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16007)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13121)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19727)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12070)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
(Xem: 17662)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant