Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hoà Thượng THÍCH ẤN THUẬN (1906 - 2005)

17 Tháng Tư 201400:00(Xem: 7879)
Hoà Thượng THÍCH ẤN THUẬN (1906 - 2005)


ĐÔI NÉT VỀ HÒA THƯỢNG THÍCH ẤN THUẬN
(1906-2005)

 ---o0o---

ht_an_thuan


 Thân thế:

Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 (Thanh Quang năm thứ 32), tức Âm lịch ngày 12 tháng 03, thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh, trong một gia đình nông - thương nghiệp thuộc tầng lớp trung lưu. Cha là Trương Học Nghĩ; mẹ là Lục Thị. Ngài là con thứ hai trong gia đình, chị gái đầu sau khi xuất giá vài năm thì sức khỏe dần suy yếu và chết.

Năm bảy tuổi Ngài theo cha đến thị trấn Tân Thương học tiểu học, đến mười tuổi thì tốt nghiệp sơ tiểu học. Mùa thu năm kế Ngài đến thị trấn Hiệp Ðịnh học cao tiểu học tại trường tiểu học Khai Trí. Năm 13 tuổi tốt nghiệp cao tiểu học. Mùa thu năm ấy Ngài cũng bắt đầu học Ðông đến năm 16 tuổi. Mùa hạ năm 1921, tuy chưa phải chính thức một người dạy học, chủ yếu là tự học. Trong thời gian này, Ngài cũng từng đọc qua các sách :"Dung Tánh Cương Uyên", "Tính Mạng Khuê Chỉ", "Kim Hoa Tông Chỉ", "Tiên Thuật Bí Khố" và "Huệ Mạng Kinh", "Kỳ Môn Ðộn Giáp" và những sách đạo đức khác. Từ đó Ngài rất thích thú những vấn đề sản sinh ra Thần tiên, Ngài quyết định học về thuật biến hóa củaThần tiên. Cha Ngài sợ con mình đi vào con đường nghệ thuật nên giới thiệu Ngài đi vào con đường giảng dạy.

Mùa Thu năm 1921 (16 tuổi) đến 25 tuổi, khoảng thời gian này Ngài từng dạy qua 8 năm tiểu học, trong thời gian 8 năm này Ngài cũng đọc qua các sách :"Ðơn Kinh", "Thuật Số", "Lão Tử ", "Trang Tử", " Tân Ước", "Cựu Ước", và các kinh luận của Phật giáo, tư tưởng bắt đầu thay đổi.

Năm 1925 (20 tuổi), Ngài đọc đến Bình Mộng Trinh trong lời tựa của Trang Tử, lời chú của Ðôn Hoàng và những sách Phật pháp khác, đó là những động cơ làm Ngài thâm nhập Phật pháp. Ngài thường đến những chùa miếu lân cận thỉnh những kinh về đọc như:"Kim Cang kinh", "Long Dự Tịnh Ðộ Văn", "Nhân Thiên Nhãn Mục" và những kinh sách khác. Không bao lâu Ngài đọc đến "Thành Duy Thức Luận Học Ký "ù, "Tướng Tông Cang Yếu", “Tam Luận Tông Cang Yếu", "Trung Luận", "Tam Luận Huyền Nghĩa"..v..v...Trải qua bốn - năm năm tư duy cuối cùng ít nhiều Ngài đã liễu ngộ được tông chỉ của Phật pháp, bắt đầu tín ngưỡng Phật giáo, thâm cầu chân lýphát nguyện xuất gia làm Tăng.

Trải qua mấy tuần suy nghĩ, vào tháng 10 năm 1930, năm 25 tuổi của thời thanh niên, Ngài đến Phổ Ðà sơn xin vị tri sự ở am Phúc Tuyền là Hoà Thượng Thanh Niệm xuất gia, có pháp danhẤn Thuận, hiệu Thĩnh Chánh. Sau mười tháng, Ngài cùng với sư huynh là Thành Minh pháp sư cùng nhau đến chùa Thiên Ðổng ở huyện Ninh Ba thọ Tỳ kheo giới với Viên Anh pháp sư. Từ đó Ngài chính thức trở thành vị Tăng của Phật giáo.

Tháng 02 năm 1931 (26 tuổi), ngài đến học ở Mân Nam Phật học viện do Ngài Thái Hư làm viện trưởng (Hạ môn của Nam Phổ Ðà) bấy giờ lớp học đang vào học kỳ hai của năm thứ nhất, đến học kỳ một của năm thứ hai thì Ngài được các bạn cùng lớp đề cử giảng về những bài khoá Phật học, tuy Ngài xuất gia chưa được bao lâu nhưng đối với vấn đề Phật học có sự hiểu biết thật uyên thâm. Sau đó Ngài đến học ở Vũ Xương Phật học viện cũng do Ngài Thái Hư làm viện trưởng.

Từ năm 1932-1936 Ngài cũng từng ở tại núi Phổ Ðà đọc qua Phật Giáo Ðại Tạng kinh, và chiêm bái các thắng địa của Phật Giáo như Phúc Châu Cổ Sơn, Nam Kinh -Thê Hà Sơn..v..v.. Mục đích của Ngài là nghiên cứu uyên thâm về chân lý trong Phật pháp.

Ngài từng nói trong ba điều của người xuất gia là:1-Tu hành, 2-Học vấn, 3-Tu Phúc. Trong ba điều này Ngài đặt trọng nơi học vấn,tức là chú trọng ở "Văn-Tư, nghiên cưú thâm sâu trong tam tạng kinh -luật -luận, điều này Ngài đã thực hiện sau khi xuất gia và đã chứng minh Ngài là một bậc thật nghiêm khắc, tuân thủ những nguyên tắc đã đưa ra.

Tháng 07 năm 1938( 33 tuổi), Ngài đến Hán Tạng Giáo Lý Viện ở Trùng Khánh, cũng do ngài Thái Hư làm viện trưởng,dạy lớp Nghiên Cứu Phật Học trong một lĩnh vực mới, sau khi chiến tranh thắng lợi Ngài lưu lại đây khoảng bốn năm .

 Mùa hạ năm 1941 Ngài đến Tứ Xuyên, tại Hợp Giang Pháp Vương Phật học viện do Pháp sư Diễn Bồi sáng lập. Ngài làm đạo sư và viện trưởûng tại đây. Trong thời gian này vừa nghiên cứu vừa biên soạn và tự chính mình đã hình thành nên một hệ tư tưởng phật học, có thể xem đây là thời giantư tưởng Ngài bộc phát và đã viết ra nhiều tác phẩm.

Năm 1942 Ngài cho xuất bản tác phẩm "Ấn Ðộ Chi Phật giáo", cũng thời gian tại Trùng Khánh Ngài đã xuất bản những tạp chí và bán nguyệt san, có lần tham gia phát biểu với đề tài là : "Thử bình về Phật Giáo Aán Ðộ",do cư sĩ Trần Gia Khang biên soạn lại,Ngài nói rằng:Từ năm Tân Hợi về sau khoảng thời gian 32 năm Ngài đưa ra những hoài nghi về Tư Tưởng Ðại Thừa,Ngài cũng là người góp phần công kích,tuy nó không là vấn đề.Ngài không nghĩ rằng trong thời binh mã loạn lạctác phẩm "Ấn Ðộ Chi Phật Giáo" của Ngài lại có thể xuất bản, điều này làm cho công chúng thấy được điểm mới lạ của một kiến giải mới. Ngài tuy không dám hoài nghi Ðại Thừa , phê bình công kích Ðại Thừa Phật Giáo , nhưng trong những tác phẩm của Ngài chúng ta có thể thấy địa vị của Ðại Thừa Phật Giáo trong cái nhìn của những nhà tư tưởng phật học Trung Quốc, không thể không dao động.

Mùa xuân năm 1946 (41 tuổi) Ngài muốn trở về Hàng Châu nhưng cả vé tàu và máy bay quá đắt không mua được vé, ngay cả Ngài Diễn Bồi và Diệu Khâm cũng vậy nên đành phải tiêu dao các nơi như : Thành Ðô, Tây An, Khai Phong ở lại chỗ của Tịnh Nghiêm pháp sư là bạn đồng họcVũ Xương Phật học viện, là trụ trì Khai Phong Phật Học Xã. Trải qua chặng đường dài vân du, khi đến Khai Phong Ngài ngã bệnh, nên đành phải lưu lại nơi đây, ngài Diễn Bồi và Diệu Khâm phải về Hàng Châu trước. Khoảng trung tuần tháng 07 Tịnh Nghiêm pháp sư đưa ngài đến đất Trịnh, đến nơi thì Trịnh Châu Phật Học Xã đã ngưng hoạt động, Ngài lại phải đến Vũ Hán tạm thời dừng nghỉ lại đây.

Ðầu năm 1947, Ngài đến Thượng Hải, tại chùa Ngọc Phật, trước yết kiến Thái Hư Ðại Sư ở đất Hội (một thành phố nhỏ tại Thượng Hải), sau đó trở về Linh Phong Vũ Lâm Phật học việnHàng Châu, bấy giờ hai Ngài Diễn Bồi và Diệu khâm đã giảng dạy tại đây. Không bao lâu được tin ngài Thái Hư tại Thượng Hải lâm trọng bệnh, ngài cùng pháp sư Diễn Bồi và Diệu Khâm lại trở về Thượng Hải.Ngài Thái Hư tại đây viên tịch và chư vị phải ở lại lo tang lễ. Hậu sự hoàn tất, Ngài được ủy thác nhiệm vụ chủ trì biên tập bộ "Thái Hư Ðại Sư Toàn Thư". Trong thời gian ba tháng Ngài ở tại Hán Tạng Giáo Lý Viện tiếp tục làm công việc của học sinh, sau đó đến chùa Tuyết Ðậu ở Triết Giang, trụ trì chùa này là một đệ tử lớn của ngài Thái Hư là Ðại Tỉnh pháp sư; năm tháng sau Ngài tại đây chính thức bắt đầu biên tập bộ "Thái Hư Ðại Sư Toàn Thư". Cuối tháng 05 năm 1948 công việc biên tập hoàn tất, bộ này khoảng bảy trăm vạn chữ biên soạn thời gian khoảng một năm. Sau đó Ngài trở về Hàng Châu, Phúc châu, Hạ Môn bắt đầu công việc hoằng pháp.

Tháng 06-1949 (44 tuổi), trước một ngày Trung Quốc giải phóng Ngài cùng với một vài vị pháp sư từ Hạ Môn đến Hương Cảng( Hồng Kông). Ngài trú lại đây ba năm vừa làm công việc giảng dạy vừa biên tập. Trong thời gian này Ngài đi lại Hương Cảng và Ðài Loan.

Trung tuần tháng 07 1953 (48 tuổi), Ngài đến Ðài Loan cùng với Diễn Bồi pháp sư, Tục Minh pháp sư, Thường Giác pháp sư, Quảng Phạm pháp sư, Diệu Khâm pháp sư. Trải qua 25 năm xuất gia, thời gian một năm đối với Ngài thật là có ý nghiã sâu xa. Sau khi đến Ðài Loan Ngài đi Nhật một lần, Thái Lan, Miến Ðiện một lần, Hương Cảng hai lần, Phi Luật Tân 4 lần.

Ðầu năm 1973 (68 tuổi) Ngài được Hội Phật Giáo Hoa Kiều tại Mỹ thỉnh, nên Ngài đã đến Mỹ, tại New York vừa dưỡng bệnh vừa hoằng pháp thời gian hơn nửa tháng. Tháng 07 ngài trở lại Ðài Loan. Trong khoảng thời gian chưa đến 60 tuổi, Ngài có đến Singapore, Malaysia hoằng pháp. Còn Nhật và Miến Ðiện tham dự Hội Nghị Phật Giáo Quốc tế. Tại Ðài Loan Ngài ngoài bận công việc giảng dạy, viết lách, ngoài ra còn công tác ngoại sự rất bận rộn.

Tại Ðài Loan, Ngài đã đảm nhiệm công việc chủ biên nguyệt san "Hải Triều AÂm" do Ngài Thái Hư sáng lập năm 1920. Cũng như từng là đạo sư tại chùa Thiện Ðạo, trụ trì và các chức vụ khác. Ngài là một vị tăng có học vấn cao phật sự đa đoan nên không thể ở lại một tự viện. Ngài thích ở nơi vắng vẻ ngoài giờ làm việc ra còn phải nghiên cứu kinh điển nên phải có một trú xứ riêng biệt, đó là cá tính của Ngài.

Năm 1953 tại Tân Trúc Ngài cùng với những pháp lữ đã tu sửa và xây thêm Phước Nghiêm tinh xá. Muà đông 1954 đã xây thêm theo ý nguyện của mình khi còn ở Hương Cảng (nay là Phước Nghiêm Phật Học Viện nằm trong khuông viên Phước Nghiêm tinh xá)

Năm 1960, Tại Ðài Bắc Ngài đại trùng tu Huệ Nhật Giảng Ðường.

Năm 1964 tại Gia Nghĩa Ngài đã xây thêm Diệu Vân Lan Nhã, Hoa Vũ Tinh Xá là nơi để nhập thất tịnh tâm. Ðó là những đạo tràng của Ngài tại Ðài Loan làm cơ sở để vân tập đồ chúng giảng dạy, trước tác. Trong đó Huệ Nhật giảng đường có thể xem như là "Tịnh Ðộ" trong thành thị náo nhiệt, cũng là nơi dừng nghỉ của chư Tôn Túc từ các phương đến phật Sự tại thành phố Ðài Bắc, đó là những năm đầu của Ngài tại Ðài Loan. Những cơ sở Ngài trùng tu lại đều là những nơi cũ kỹ bị sụp đổ theo năm tháng.

Năm 1949 Ngài cho xuất bản tác phẩm "Phật Pháp khái Luận" tại nhà xuất bản ở Hương Cảng, tập sách này được Ngài viết khi ngài còn ở Ðại Lục, sau này là một tập trong "Diệu Vân tập", trong tập sách này Ngài có đềụ cập đến vấn đề của cõi "Bắc Cu Lô Châu", một thế giới cực kỳ vui vẻ, con người bình đẳng không có giai cấp, chủng tộc, tài sản cá nhân, tổ chức gia đình ..v..v..

Trong những năm đầu ở Ðài Loan những việc làm của Ngài không phải là thuận buồm xuôi gió, khoảng thời gian đầu một số vị đương quyền của Phật giáo Ðài Loan cũng như Ðảng Quốc Dân cho rằng tác phẩm "Phật Pháp Khái Luận" của ngài là vì tuyên truyền cho Ðảng Cộng Sản nên đã công kích và dùng nhiều áp lực đối với Ngài. Sau đó người ta mới tìm thấy được thực sự nội dung giới thiệu về cõi Bắc Cu Lô Châu không gì lạ hơn là Ngài miêu tả cảnh sinh hoạt truyền thống thời Ấn Ðộ cổ và Phật Giáo đối với Bắc Cu Lô Châu mà thôi.Trong thời gian này tập sách này qua nhiều cơ qua chức năng của Quốc Dân Ðảng kiểm tra. Ngài cũng được mời đến để thẩm vấn nhưng Ngài vẫn duy trì lập trường của mình lấy giáo nghĩa của phật pháp làm chính, tức tinh thần "Từ Bi -Vô Ngã". Trải qua thời gian kiểm tra thì tác phẩm đó nội dung không như những gì người ta tuyên truyền nhằm để công kích Ngài. Sau đó tác phẩm này được tu chỉnh lại, ít nhiều có thêm bớt một chút chứ không như nguyên bản. Ðó là thời gian được xem nhưđại nạn nhưng trong cuộc đời hoằng pháp của Ngài. Cũng chính vì điểm nổi bật này nên tác phẩm này được xem là một thời sự nóng bỏng của phật giáo Ðài Loan ở thập niên 19. Nhưng khi mọi việc được sáng tỏ, những người công kích Ngài trước đây sau này đa số trở thành những người hỗ trợ đắc lực cho Ngài rất nhiều trong công việc hoằng pháp tại đây.

Tháng 06-1973 (66 tuổi), Ngài tiếp tục cho xuất bản tập "Trung Quốc Thiền Tông Sử", chính tập sách này mà vào tháng 06 năm 1973 tại trường Ðại Học Ðại Chánh Nhật Bản cấp cho ngài bằng tiến sĩ văn học cho Ngài. Ðược xem là một vị Tăng đầu tiên đạt được học vị tiến sĩ trong thời cận đại của Phật Giáo Trung Quốc. Ngài không những mang lại vinh hoa cho giới Phật giáo mà còn mang lại vinh dự cho quốc gia.

Tháng 05 năm 1981 (76 tuổi), Ngài cho ra đời tác phẩm dày hơn tám chục vạn chữ mang tên "Sơ Kỳ Ðại Thừa Phật Giáo Chi Khởi Nguyên Dữ Khai Triển". Ðây là tác phẩm giá trị lịch sử và mang ý nghĩa học thuật uyên bác.

Cuộc đời xuất gia Ngài có thể được chia làm 4 giai đoạn: 1-Mười năm đầâu (Dân Quốc năm thứ 19 - năm 28) đây là thời kỳ học tập; 2-Mười hai năm tiếp theo (Dân quốc năm thứ 29 - muà hạ năm 41) đây là thời gian tư tưởng bộc phát, thuyết giảng và viết lách tương đối nhiều; 3- Mười hai năm kế (Dân Quốc mùa thu năm thứ 41- mùa hạ năm 53) đến Ðài Loan là thời gian dùng tư tưởng cho công việc giảng dạy cho thính chúng và xuất dương hoằng pháp thời gian này viết sách tương đối ít; 4-Dân Quốc mùa hạ năm thứ 53, thời kỳ trạng thái hồi phục lần thứ hai, tư tưởng tương đối thành thạo, công việc viết lách nghiêm mật hơn. Tất cả những vấn đề này được Ngài đề cập đến trong tác phẩm "Bình Phàm Ðích Nhất Sinh" của mình. Hiện nay pháp sư Ấn Thuận được xem là một bậc danh tăng thạc đức của Phật Giáo Trung Quốc và Ðài Loan. Ðệ tử và học trò của Ngài cả Tăng lẫn Ni hiện nay có nhiều vị là viện trưởng, giáo thọ các Phật học viện tại Ðài Loan như: Ðại Học Huyền Trang, Ðại Học và Bệnh viện Từ Tế, Viên Quang Phật Học Viện, Phước Nghiêm Phật Học Viện, Phật Học Viện Huyền Trang.

 Trước Tác:

Diệu Vân Tập 25 cuốn được chia thành Thượng -Trung và Hạ biến

A-Thượng biến -Kinh luận giảng ký (7 cuốn)

1-Bát Nhã Giảng Ký (bao hàm Kinh Kim CangBát Nhã)

2-Bảo Tích Kinh Giảng Ký

3-Thắng Man Kinh Giảng Ký

4-Dược Sư Kinh Giảng Ký

5-Trung Quán Luận Tụng Giảng Ký

6-Nhiếp Ðại Thừa Luận Giảng Ký

7-Ðại Thừa Khởi Tín Luận Giảng Ký

B-Trung biến- Những tác phẩm trên mười vạn chữ (6tập)

Phật Pháp Khái Luận

Trung Quán Kim Luận

Duy Thức Học Thâm Nguyên

Tánh Không Học Thâm Nguyên

Thành Phật Chi Ðạo

Thái Hư Ðại Sư Niên Phổ

C- Hạ Biến-Những tác phẩm ngắn (12 cuốn)

1- Phật Tại Nhân Gian

2- Phật Học Tam Yếu

Phật Pháp Nghiên Cưú Phật Pháp

Thanh Tịnh Dữ Thiền

Ngã Chi Tông Giáo Quán

Vô Tránh Chi Biện

Phật Chế Giáo Ðiển Dữ Giáo Học

Phật Giáo Sử Ðịa Khảo Luận

Hoa Vũ Hương Vân

10-Phật Pháp Thị Cưú Thế Chi Quang

11-Thanh Niên Ðích phật Giáo

12-Bình Phàm Ðích Nhất Sinh (Bản thêm sau này)

Ngoài ra còn Hoa Vũ Tập (5 cuốn)

Những tác phẩm không thuộc hệ thống trên (10 bộ)

Ấn Ðộ Chi Phật Giáo (Xuất bản tại Trùng Khánh 1942- Ðài Loan 1985)

Thuyết Nhất Thiết hữu Bộ Vi Chủ Ðích Luận Thư Dữ Luận Sư Chi Nghiên Cứu (Xuất bản tại Ðài Loan 1968)

Nguyên Thủy Phật Giáo Thánh Ðiển Chi Tập Thành (Xuất bản tại Ðài Loan 1971)

Trung Quốc Thiền Tông Sử (Xuất bản tại Ðài Loan 1971)

Sơ Kỳ Ðại Thừa phật Giáo Chi Khởi Nguyên Dữ Khai Triển (Xuất bản tại Ðài Loan 1981)

Như Lai Tạng Chi Nghiên Cứu (Xuất bản tại Ðài Loan 1981)

Không Chi Thâm Cứu (Xuất bản tại Ðài Loan 1985)

Ấn Ðộ Phật Giáo Tư Tưởng Sử (Xuất bản tại Ðài Loan 1988)

Trung Quốc Cổ Ðại Dân Tộc Thần Thoại Dữ Văn Hoá Chi Nghiên Cứu (bản cảo)

10-Tạp A Hàm kinh Luận Hội Biên (3 cuốn) (Xuất bản tại Ðài Loan 1983)

 Hoà Thượng Thích Ấn Thuận sau một cơn bệnh cũ tái phát đã thị tịch lúc 10h7’sáng ngày 04 tháng 06 năm 2005﹙nhằm 28-04- Ất D ậu﹚ tại bệnh viện Từ Tế huyện Hoa Liên - Đài Loan. Trụ thế 101 năm, giới Iạp 75 hạ , pháp thể được lưu lại tại Truy Ân đường của Đại học Từ Tế để tứ chúng chiêm ngưỡngđảnh lễ. Ngày 06-06-2005 kim quan được đưa về và hoàn tại Phước Nghiêm tinh xá( Phước Nghiêm Phật học viện) ở huyện Tân Trúc – Đài Loan, và lễ Trà tỳNhập tháp sẽ được cử hành vào ngày 11- 06-2005 ( nhằm 05-05- At dau)

Như Nguyệt
(Trích dịch từ Ấn Thuận Phật Học Tư Tưởng Nghiên Cứu của Quách Bằng)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8028)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35568)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19704)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11715)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23202)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13361)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5851)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10628)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10364)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10068)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20873)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6210)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6860)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8901)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6025)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18164)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6357)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6739)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6558)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13025)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5879)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7898)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10213)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 9879)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9088)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5990)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24560)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36419)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7737)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11556)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10051)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5232)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5426)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10012)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7890)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9378)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8669)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46541)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6911)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12329)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5804)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14517)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13004)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12447)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14580)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12448)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10961)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9645)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16719)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8488)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5976)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9961)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6380)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11359)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7051)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46727)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13514)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8402)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6862)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9181)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6187)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6911)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17864)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18189)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15812)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6965)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31262)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9586)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7699)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21636)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34182)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33332)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14243)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35676)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13013)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15784)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13694)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33058)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26393)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41427)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40367)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20064)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33721)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29687)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33735)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18886)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22730)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22457)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49019)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11975)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11169)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22524)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18011)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15121)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22698)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16007)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13121)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19728)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12070)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
(Xem: 17662)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant