Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bồ Tát Quán Thế Âm

25 Tháng Hai 201400:00(Xem: 6910)
Bồ Tát Quán Thế Âm


BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM

 

Hạnh Cơ

 

lrg-72-33tiguanyin29-jpg“Sáng cho nguời thêm niềm vui, chiều giúp người bớt khổ.”, đó là một trong những lí do thiết yếu để đạo Phật có mặt ở thế gian. Bởi vậy, cho vui cứu khổ đã trở thành một nhiệm vụ chánh yếu của mọi người tu học theo Phật pháp – dù xuất gia hay tại gia, ở bất cứ phương trời nào, bất cứ thời khắc quá hiện vị lai nào. Đặc biệt, đối với các hành giả phát tâm tu tập Bồ Tát Đạo, nhất là chư vị Đại Bồ Tát, thì cho vui cứu khổ còn là một trong những hạnh nguyện trọng đại, được thực hiện thường xuyên, không gián đoạn, không ngưng nghỉ. Vì vậy, trong trường hợp này, đạo Phật cũng được gọi là đạo Từ Bi, hay đạo Cứu Khổ, hoặc đạo Từ Bi Cứu Khổ. Trong các vị Đại Bồ Tát, hình ảnh cứu khổ tiêu biểu nhất, đó là đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Phật tử Việt-nam, lòng tín ngưỡng đối với Ngài rất là mãnh liệt. Hình ảnh của Ngài thật vô cùng quen thuộc, gần gũi; hầu như trong tâm khảm của người Phật tử Việt-nam nào cũng in đậm hình ảnh đáng tôn kính của Ngài, bởi vì đã có vô số trường hợp người ta cảm nhận được sự linh ứng cứu độ của Ngài. Vậy nên, việc thờ kính Ngài, niệm danh hiệu Ngài, từ lâu đời, đã trở thành một trong các pháp môn tu tập quan yếu của Tăng tín đồ Phật giáo Việt-nam.

Đức tin của Phật tử chúng ta đối với Bồ Tát Quán Thế Âm tuy đã thâm sâu vững chắc, nhưng nhiều người có lẽ còn chưa biết rõ về Ngài. Vậy chúng tôi xin giới thiệu sau đây vài nét cụ thể về sự tíchcông hạnh của Ngài.

 

A. DANH HIỆU “QUÁN THẾ ÂM”

Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm (dân gian Việt-nam thường quen gọi là Quan Âm). Với tâm nguyện đại bi, Ngài dùng tánh nghe viên thông để quán nghe tiếng kêu cầu của chúng sinh đau khổthị hiện cứu độ, đó là ý nghĩa của danh hiệu “Quán Thế Âm”. Kinh Pháp Hoa (phẩm Phổ Môn) nói: Chúng sinh bị khổ não, nếu nhất tâm xưng niệm danh hiệu Bổ Tát Quán Thế Âm, Ngài liền quán sát âm thanh của họ mà cứu độ họ được thoát khổ; vì thế mà gọi là Quán Thế Âm. Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, cách nay vô lượng vô số kiếp về đời quá khứ, từ thời đức Phật Quán Thế Âm tại thế độ sinh, Bồ Tát Quán Thế Âm đã từng sở trường về pháp tu tam muội gọi là “nhĩ căn viên thông”, đầy đủ khả năng quán sát sâu rộng âm thanh kêu cầu của chúng sinh đau khổ, để hiện đến cứu độ. Cho nên trải qua bao nhiêu kiếp tu hành đạo Bồ-tát, cho đến hiện nay, Ngài vẫn giữ lấy danh hiệu của đức Phật kia Quán Thế Âm làm tên của mình.

“Quán Thế Âm” là cách dịch cũ (trước thời đại pháp sư Huyền Trang); các nhà dịch kinh Trung-hoa từ pháp sư Huyền Trang (thế kỉ thứ 7 dương lịch) trở về sau, đã dịch danh hiệu của Ngài là Quán Thế Tự Tại – gọi tắt là Quán Tự Tại, với ý nghĩa rằng, Ngài quán sát thế gian để cho vui cứu khổ một cách tự tại, không bị bất cứ một thứ gì, một thế lực hay hoàn cảnh nào làm cho chướng ngại. Quán Tự Tại cũng có nghĩa là Ngài dùng trí tuệ bát nhã để quán sát và thấy rõ tất cả các pháp là hư huyễn, không có tự tánh, không chân thật, cho nên không còn bị vướng mắc vào bất cứ pháp nào, hoàn toàn giải thoát mọi khổ đau sinh tử.

Phật tử Việt-nam, với lòng tôn kính thiết tha, thường xưng niệm Ngài bằng một danh hiệu thật dài, và thật đầy đủ ý nghĩa: “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát”.

 

B. SỰ TÍCH BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM

Trong Kinh Bi Hoa, đức Phật Thích Ca có dạy: Vào thời quá khứ xa xôi, khi chưa xuất gia tu hành, có một kiếp đức Quán Thế Âm sinh làm một vị thái tử, tên là Bất Huyến, con trưởng của vua chuyển luân Vô Tránh Niệm, trị vì cả bốn châu thiên hạ của thế giới San-đề-lam. Lúc đó có đức Phật ra đời, hiệu là Bảo Tạng. Vua Vô Tránh Niệm phát tâm qui y Tam Bảo, đồng thời khuyến khích một ngàn vị thái tử con mình, cùng toàn thể quần thần đều qui y Tam Bảo. Đức vua phát tâm sắm sửa các thứ cần dùng hằng ngày như ẩm thực, thuốc men, y phục, giường nệm v.v... đem đến đạo tràng cúng dường lên Phật và chúng tăng suốt ba tháng; nguyện đem công đức ấy hồi hướng về đạo quả Vô thượng Bồ đề; liền được Phật Bảo Tạng thọ kí, vô số kiếp về sau sẽ thành Phật hiệu là Vô Lượng Thọ, giáo chủ thế giới An-lạc. Thái tử Bất Huyến cũng vâng lời phụ vương, hết lòng tin kính, sắm sửa lễ vật trân quí như vua cha, đem đến đạo tràng cúng dường lên Phật và chúng tăng suốt ba tháng. Nhờ nghe lời giảng giải của một vị đại thần thiện tri thức, thái tử tự nghĩ rằng: Bởi chúng sinh trong đời không gặp được những bậc hiền nhân khuyên dạy việc lánh dữ làm lành, chỉ gặp toàn những kẻ ác tâm xúi giục làm điều bất thiện, hủy báng Chánh Pháp, khinh bỉ Tam Bảo, ngập sâu tà kiến, khiến cho mất hết căn lành, không còn biết đến đạo đức là gì, nên phải chịu đày đọa trong ba dường dữ, không ngày giải thoát.

Nghĩ như thế xong, thái tử đến trước Phật, cung kính bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay con ở trước Thế TônThánh Chúng, xin nguyện rằng: Con nguyện đem công đức cúng dường Tam Bảo và những phước lành đã tu tập được, xin hồi hướng về đạo quả Vô thượng Bồ đề. Trong khi tu hành đạo Bồ-tát, con nguyện luôn luôn làm lợi lạc cho chúng sinh. Như có chúng sinh nào chịu nhiều điều khốn khổ, bị tù hãm trong hoàn cảnh tối tăm, cô đơn buồn rầu, không nơi nương tựa, không có người giúp đỡ, nếu chúng sinh ấy nghĩ đến và xưng niệm danh hiệu con, tức thì con dùng thiên nhĩ để lắng nghe, dùng thiên nhãn để quan sát, xem kẻ đau khổ kia đang ở chỗ nào, con hiện đến để cứu giúp cho họ thoát khổ được vui. Nếu không được như lời nguyện ấy thì con quyết sẽ không thành Phật. Bạch đức Thế Tôn! Nay con vì hết thảy chúng sinh mà phát lời nguyện lớn, tu học pháp xuất thế, chóng được tự giác tự lợi. Khi phụ vương con là Vô Tránh Niệm, trải hằng sa kiếp, chứng thành quả Phật, hiệu là Vô Lượng Thọ Như Lai, giáo chủ thế giới An-lạc; lại trải qua vô lượng kiếp, đức Phật ấy hóa độ chúng sinh xong rồi, liền nhập niết bàn, Chánh Pháp truyền lại, con ở trong ấy tu tập hạnh Bồ-tát, thường làm Phật sự. Đến khi Chánh Pháp của đức Phật ấy sắp diệt, hễ diệt vào đầu hôm, thì cuối đêm con sẽ thành Vô thượng Chánh giác. Cúi xin đức Thế Tôn từ bi thọ kí cho con.”

Phật Bảo Tạng nghe những lời nguyện ấy, liền đặt hiệu cho thái tử Bất Huyến là Quán Thế Âm, và thọ kí cho thái tử, sau khi đức Phật Vô Lượng Thọ (tức Phật A Di Đà) nhập niết bàn, thế giới An-lạc (tức Cực-lạc) sẽ được đổi tên là Nhất-thiết-trân-bảo-sở-thành-tựu, Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ thành Phật, hiệu là Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai, thọ mạng dài đến chín mươi sáu ức na do tha kiếp, sau khi nhập niết bàn, chánh pháp sẽ còn truyền đến sáu mươi ba ức kiếp.

Từ đó, trải qua hết kiếp này đến kiếp khác, ngài Quán Thế Âm đều giữ vững bản nguyện, tinh tấn tu hành hạnh Bồ-tát, cầu đạo Bồ-đề, cứu giúp chúng sinh đau khổ, không khi nào xao lãng hạnh nguyện đại bi. Hiện tại, vua Vô Tránh Niệm, do tu hành tinh tấn, công hạnh viên mãn, đã thành Phậtthế giới Cực-lạc, hiệu là A Di Đà, cách nay đã mười kiếp (theo Kinh A Di Đà); còn đức Quán Thế Âm (tức thái tử Bất Huyến), công hạnh cũng tròn đầy, trở thành một vị Đại Bồ Tát, chứng đến bậc Đẳng-giác, cũng đang ở thế giới Cực-lạc hầu cận đức Phật A Di Đà, hằng ngày tiếp dẫn chúng sinh khắp mười phương đem về cõi ấy.

Trong Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Đắc Đại Thế Bồ Tát Thọ Kí có nói: Trong vô lượng kiếp sau, đức Phật A Di Đà sẽ nhập niết bàn. Sau đó, đức Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ thành Phật, hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai, thay thế Phật A Di Đà nhiếp hóa chúng sinh.

Trong Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni có ghi lời Phật dạy rằng: “Bồ Tát Quán Thế Âm vốn đã thành Phật từ kiếp xa xưa, có danh hiệuChánh Pháp Minh Như Lai, nhưng vì lòng đại bi, muốn thành tựu đạo nghiệp cho tất cả chúng sinh, muốn cho chúng sinh được an vui, ngài thường thị hiện làm thân Bồ-tát...”

Trong nền văn học cổ điển Việt-nam có hai tác phẩm văn vần, viết về hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, rất được truyền tụng trong dân gian Việt-nam, mọi người đều kính ngưỡng thiết tha; đó là hai truyện Quán Âm Thị Kính Quán Âm Nam Hải.

Truyện Quán Âm Thị Kính viết về một nàng con gái xinh đẹp ở nước Cao-li, tên Thị Kính, vì bị nghi oan có ý định giết chồng, không có cách gì giải tỏa được, bèn ngậm mối oan tình mà trở về nhà cha mẹ, rồi giả dạng nam nhi vào chùa xin tu hành; trở thành chú Kính Tâm. Nàng đã xa lánh trần tục, quên nỗi oan cũ, quyết tâm tu hành, tưởng được yên thân nơi chốn thiền môn; nhưng trớ trêu làm sao, nàng lại bị một cô gái khác tên Thị Mầu, để ý yêu thích! Cô gái này vốn tính trăng hoa, tư thông với chính người đầy tớ trai trong nhà, đến nỗi có mang; bị làng tra hỏi, cô bèn đổ oan cho Kính Tâm. “Chú” bị làng dùng đủ thứ cực hình tra khảo, nhưng vẫn nhẫn nhục chịu đựng. “Chú” không nhận tội, nhưng cũng nhất quyết giữ bí mật cái “phận gái” của mình. Thấy “chú” có thể bị tra tấn đến chết, sư cụ Trú Trì bèn xin nộp phạt cho làng để bảo lãnh “chú” về chùa. Về sau Thị Mầu sinh được một bé trai, chẳng biết giấu đi đâu, cô bèn mang bé lên chùa, bỏ trước cổng tam quan. Kính Tâm nghe tiếng trẻ con khóc ở ngoài cổng chùa, ra xem, thấy đứa bé, rất xót thương, nên bồng vào nuôi. Dù bị người làng dèm pha, nguyền rủa, Kính Tâm vẫn nhẫn nhục chịu đựng, không một lời minh oan biện bạch. Khi đứa bé lớn lên, cũng là lúc Kính Tâm kiệt sức. “Chú” biết mình sắp lìa đời, bèn viết bức di thư để lại cho cha mẹ, kể rõ hết sự tình oan khuất của mình. Sau khi nàng qua đời, sư cụ trú trìmọi người làng mới biết nàng là gái, và bao nhiêu sự thật mới được phơi bày rõ ràng. Do tâm chí thành tinh tấn tu hành, do lòng từ bi bao la và đức nhẫn nhục kì vĩ, Kính Tâm đã công thành quả mãn, đắc đạo, được tôn hiệu là Phật Quán Âm.

Truyện Quán Âm Nam Hải kể chuyện một nàng công chúa tên Diệu Thiện, con vua Diệu Trang ở nước Hưng-lâm (thuộc lãnh thổ nước Ấn-độ ngày nay), sang nước Đại-Việt (tên xưa của Việt-nam) tu hành chứng quả; vì thường cư trú ở vùng biển nước Nam ta, nên được gọi là Quán Âm Nam Hải. Nguyên vua Diệu Trang có ba người con gái, đều xinh đẹp, hiền lành, hiếu thuận. Hai công chúa lớn đã vâng lệnh phụ vương đi lấy chồng, còn Diệu Thiện là công chúa út thì không muốn lập gia đình, mà quyết chí xuất gia tu hành để cứu giúp mọi người đang đau khổ. Nhà vua đã tìm mọi cách để cản trở việc xuất gia của cô con út, nhưng không thành công; nàng vẫn nhất quyết sống đời phạm hạnh trong một ngôi chùa, trở thành một vị ni cô mẫu mực. Thấy thế, nhà vua vô cùng tức giận, cho lệnh đốt ngôi chùa ấy; nhưng thình lình trơi mưa xối xả, dập tắt hết lửa, cứu sống mọi người trong chùa. Nhà vua lại sai quân lính bắt ni cô Diệu Thiện đem xử chém. Khi lưỡi gươm của đao phủ chém gần đến cổ ni cô, thì bất chợt một con mãnh hổ xuất hiện, cõng ni cô chạy mất! Con mãnh hổ cõng ni cô Diệu Thiện chạy vượt qua bao núi non hiểm trở, sang đến lãnh thổ nước Đại-Việt, đặt ni cô xuống đất, rồi bỏ đi. Sau đó ni cô gặp được vị hoàng tử con vua đầu nhà Lí (thế kỉ 11 TL), biết ni cô quyết tâm tu hành, ông giúp ni cô đến động Hương-tích (tức núi Hương-sơn, tỉnh Hà-đông, Bắc-Việt) để ẩn tu. Sau nhiều năm tu hành tinh tấn, ni cô Diệu Thiện bừng sáng trí tuệ, đắc thành đạo quả, có sức nghe mầu nhiệm, nghe được nhiều tiếng kêu thương của mọi người, dù ở thật xa, cho nên ni cô thường xuống núi để cứu giúp và hóa độ mọi người. Tiếng đồn vang khắp chốn nơi, dân gian kính ngưỡng thiết tha, đều tôn xưng ni côBồ Tát Quán Âm, hoặc gọi là Phật Bà Quán Âm Hương-tích.

 

C. TRÚ XỨ của BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM

Theo Kinh Tân Hoa Nghiêm ghi chép, đức Bồ Tát Quán Thế Âm cư trú tại núi Bổ-đà-lạc-ca (hoặc gọi là Phổ-đà-lạc-già - tiếng Phạn là Potala), một hải đảo nhỏ ở gần bờ biển Nam của nước Ấn-độ; chính tại nơi đây, Thiện Tài Đồng Tử đã đến tham bái Ngài để cầu đạo Bồ-đề.

Theo các kinh Đại A Di Đà, Vô Lượng Thọ, Quán Thế Âm Thọ Kí, thì Bồ Tát Quán Thế Âm thường cư trú tại thế giới Cực-lạc, cùng với Bồ Tát Đại Thế Chí, là hai vị hầu cận và trợ thủ đắc lực nhất của đức Phật A Di Đà trong việc tiếp dẫn chúng sinh ở cõi Ta-bà về thế giới Cực-lạc. Bởi vậy, tông Tịnh Độ đã tôn xưng đức Phật A Di Đà và hai vị Bồ Tát này là “Tây Phương Tam Thánh”.

Một hòn đảo nhỏ ở gần bờ biển phía Đông của huyện Định-hải, tỉnh Triết-giang, Trung-quốc, cũng được đặt tên là núi Phổ-đà; và theo tín ngưỡng từ lâu đời, người Phật tử Trung-hoa đã coi đó là đạo tràng của đức Bồ Tát Quán Thế Âm trên đất nước Trung-quốc.

Theo tín ngưỡng của Phật tử Việt-nam, đức Bồ Tát Quán Thế Âm, qua hóa thâncông chúa Diệu Thiện (trong truyện Quán Âm Nam Hải vừa ghi trên), đã tu hành đắc đạo tại động núi Hương-tích, miền Bắc Việt-nam; và Ngài thường xuyên có mặt trêm biển Nam-hải (Việt-nam) để cứu độ chúng sinh.

Phật giáo Tây-tạng thì tin rằng, đức giáo chủ của họ (tức vị Đạt-lai Lạt-ma) chính là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Vì vậy mà cung điện của vị Đạt-lai Lạt-ma (cũng đồng thờiquốc vương nước Tây-tạng) đã được xây cất vô cùng nguy nga hùng tráng, được đặt tên là điện Potala; và đức Bồ Tát Quán Thế Âm luôn luôn được dân chúng xứ này sùng kính đặc biệt.

 

D. HẠNH NGUYỆNOAI THẦN của BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM

Hạnh nguyện độ sinh của Bồ Tát Quán Thế Âm thật là rộng lớn vô biên. Qua lời giới thiệu của đức Phật Thích Ca (trong Kinh Đại Bi), đức Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị cổ Phật, đã thành Phật từ vô lượng kiếp trước –hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai,– vì hạnh nguyện đại bi muốn cứu độ chúng sinh, nên Ngài hiện thân làm Bồ-tát. Ở trước đức Phậthội chúng đông vô lượng, chính Bồ Tát Quán Thế Âm đã nói thần chú “Đại Bi Tâm Đà La Ni”. Trước khi nói thần chú này, Ngài bạch Phật rằng: “Con nói thần chú này vì muốn cho chúng sinh được an vui, dứt tất cả bệnh hoạn; được sống lâu, giàu có, diệt trừ tất cả nghiệp ác, khỏi các chướng nạn, tiêu tan mọi sợ hãi; được tăng trưởng mọi công đức lành, mau chóng đầy đủ mọi điều mong cầu.” Ngài cũng tự kể rằng, trong vô lượng kiếp về trước, có đức Phật Thiên Quang Vương Tịnh Trụ ra đời, lúc đó Ngài vừa chứng bậc Bát-địa Bồ-tát, liền phát nguyện trước đức Phật kia rằng: “Nếu về sau con có thể thành tựu được những việc lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh, thì ngay bây giờ đây, nơi thân con hãy sinh đủ ngàn tay ngàn mắt!” Nói lời ấy xong thì thân thể Ngài liền hiện đủ ngàn tay, ngàn mắt.

Trong Kinh Bi Hoa, Ngài từng phát nguyện trước đức Phật Bảo Tạng rằng: “Trong khi tu hành đạo Bồ-tát, con nguyện luôn luôn làm lợi lạc cho chúng sinh. Như có chúng sinh nào chịu nhiều điều khốn khổ, bị tù hãm trong hoàn cảnh tối tăm, cô đơn buồn rầu, không nơi nương tựa, không có người giúp đỡ, nếu chúng sinh ấy nghĩ đến và xưng niệm danh hiệu con, tức thì con dùng thiên nhĩ để lắng nghe, dùng thiên nhãn để quan sát, xem kẻ đau khổ kia đang ở chỗ nào, con hiện đến để cứu giúp cho họ thoát khổ được vui.”

Theo phẩm “Phổ Môn” trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, hễ ai thờ Ngài thì đều được phước đức lớn; ai cầu nguyệnxưng niệm danh hiệu Ngài, đều được Ngài chở che và cứu giúp thoát khỏi mọi hoàn cảnh đau khổ, hiểm nguy.

Trong Kinh Địa Tạng, đức Phật có khen ngợi Bồ Tát Quán Thế Âm rằng: “Ông có nhân duyên lớn đối với thế giới Ta-bà này. Các hàng trời, người, rồng, thần, quỉ, cho đến các chúng sinh đau khổ trong khắp nẻo luân hồi, hễ nghe danh hiệu ông, thấy hình ảnh ông, mà kính ngưỡng, tán thán, thì các chúng sinh ấy đều được hưởng phước báo an vui mầu nhiệm nơi các cõi Trời và Người, đối với đạo quả Bồ-đề thì không bị thối chuyển, và đến khi nhân duyên thành thục thì được gặp chư Phật thọ kí cho.”

Hạnh nguyện của đức Bồ Tát Quán Thế Âm đã vô cùng rộng lớn như vậy, mà oai thần diệu dụng cứu độ chúng sinh của Ngài lại càng không thể nghĩ bàn. Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương nói rằng, từ vô lượng vô số kiếp xa xưa (trong những thời đại của các đức Phật Tì Bà Thi, Thi Khí, Tì Xá Phù v.v...), khi đức Thích Ca Mâu Ni còn đang tu tập hạnh Bồ-tát, Ngài đã từng nhiều lần nghe biết và thán phục công đức cũng như sức oai thần lớn của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong lúc đức Phật sắp bắt đầu nói kinh này ở tinh xá Kì-viên (thành Xá-vệ), thì đức Quán Thế Âm đang ở đại địa ngục A-tì để cứu độ chúng sinh đau khổ; và lúc đó, từ trong địa ngục ấy, ánh hào quang rực rỡ của đức Bồ Tát đã rọi lên chiếu sáng cả khu vườn Cấp-cô-độc, làm cho quang cảnh Kì-viên tăng phần trang nghiêm vi diệu. Đồng thời đức Bồ Tát cũng cứu độ vô số ngạ-quỉ được vãng sinh về thế giới Cực-lạc, trở thành những vị Bồ Tát bất thối ở cõi Tây-phương. Kinh này cũng chép rằng, có một lúc Bồ Tát Quán Thế Âm đến thành Ba-la-nại, bấy giờ thành phố này rất dơ bẩn, vô số trăm ngàn vạn loại sâu bọ dòi trùng chen chúc. Ngài phát tâm từ bi, muốn cứu độ các chúng sinh dơ bẩn kia. Ngài liền hóa thân thành một con ong, bay tới chỗ ấy, trong tiếng kêu vo-ve có phát ra tiếng “Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng”. Các loài sâu bọ dòi trùng nghe tiếng ấy cũng đều bắt chước kêu theo như thế: “Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng”; tức thì tất cả đều mạng chungvãng sinh về thế giới Cực-lạc.

Trong Kinh Đại Bi, đức Phật bảo tôn giả A Nan rằng: “Bồ Tát Quán Thế Âm thần thông oai lực không thể nghĩ bàn. Vị Bồ Tát ấy có ngàn tay, mỗi tay đều tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các điều mong cầu của chúng sinh (như cầu được giàu sang, được khỏi bệnh, được yên ổn, được gặp bạn lành, thoát khỏi ách nạn, hàng phục ma quỉ, quyến thuộc hòa thuận, được thân cận Tam Bảo, được vững tâm bồ-đề, v.v...). Đó là do tâm đại bi của vị Bồ Tát ấy hóa hiện.” Kinh này còn nói, vì tâm đại bi cứu độ chúng sinh mà đức Bồ Tát Quán Thế Âm nói ra thần chú “Đại Bi”. Chính Ngài đã bạch lên đức Phật về sức oai thần của thần chú ấy: “Nếu chúng sinh nào tụng trì thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào ba đường dữ, không được sinh về các cõi Phật, con thề không thành Chánh-giác. Những người tụng trì thần chú này, mọi điều mong cầu đều được toại nguyện – ngoại trừ mong cầu những điều bất thiện. Ai tụng trì thần chú này với lòng tin tưởng chân thành, đều được chư Phật mười phương chứng minh hộ niệm, cho nên mọi tội lỗi nặng nhẹ, kể cả trọng tội ngũ nghịch, cũng đều được tiêu trừ...”

Trong Kinh Pháp Hoa (phẩm Phổ Môn), sức oai thần diệu dụng cứu độ của Bồ Tát Quán Thế Âm còn được đức Phật chỉ dạy cho chúng ta thấy một cách cụ thể:

- Ái dục, sân hậnsi mêba loại phiền não độc hại nhất từng nhận chìm chúng sinh trong biển sinh tử luân hồi từ vô thỉ đến nay, nhưng nếu ai bị nhiều nỗi đau khổ hành hạ vì tâm ái dục quá nhiều, hoặc vì tâm sân hận quá cao, hoặc vì tâm si mê quá nặng; mà được phước duyên nghe được danh hiệu đức Bồ Tát Quán Thế Âm, rồi thành tâm trì niệm danh hiệu Ngài, sẽ được Ngài cứu độ cho cởi bỏ được ba loại phiền não độc hại ấy.

- Trong tất cả các trường hợp bị tai nạn, nếu thành tâm xưng niệm danh hiệu đức Bồ Tát Quán Thế Âm, do “sức niệm Quán Âm”, liền được thoát khỏi tai nạn – mà điển hình là bảy loại tai nạn: nạn lửa, nạn nước, nạn gió, nạn dao gậy, nạn gông cùm, nạn giặc cướp, nạn ác quỉ.

- Một cách tổng quát, oai thần diệu dụng cứu độ của Bồ Tát Quán Thế Âm lớn lao không thể nghĩ bàn. Người trì niệm danh hiệu của Ngài sẽ được vô lượng vô biên phước đức; chỉ cần chí thành niệm danh hiệucung kính lễ bái cúng dường Ngài một lần trong đời, thì phước đức ấy cũng sánh bằng với người trọn đời niệm danh hiệulễ bái cúng dường sáu mươi hai ức hằng sa chư vị Bồ Tát khác trong mười phương.

- Do oai thần diệu dụng rộng lớn như thế, đức Bồ Tát Quán Thế Âm thường xuyên có mặt ở thế giới Ta-bà, bằng đủ mọi loại thân hình thị hiện (từ thánh nhân cho đến trời, người, cùng 8 bộ long thần), để cứu độ rộng khắp mọi chúng sinh đau khổ. Trong phẩm “Phổ Môn” này, đức Phật đã kể ra 32 hiện thân như thế của Bồ Tát Quán Thế Âm, đó là thân Phật, thân Phật Bích-chi (Kinh Thủ Lăng Nghiêm thì kể làm hai thân: Độc-giác và Duyên-giác), thân Thanh-văn (3 loại thân thánh nhân); các thân trời Phạm Vương, trời Đế Thích, trời Tự Tại, trời Đại Tự Tại, Đại tướng quân của trời Đế Thích, trời Tì Sa Môn (6 loại thân trời); các thân quốc vương, trưởng giả, cư sĩ, quan lại, bà la môn, tì kheo, tì kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ, phụ nữ, đồng nam, đồng nữ (12 loại thân người); các thân thiên, long, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, thân người nói chung, thân các loài phi-nhân khác, thân thần cầm chày kim cang (11 loại thân nhânphi nhân). Thật ra, chúng sinh thì nhiều vô lượng, nỗi đau khổ của chúng sinh thì vô biên, cho nên thân ứng hóa của Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong thế gian cũng vô biên vô lượng; sự liệt kê 32 (hoặc 33) thân ở trên chỉ mang ý nghĩa tượng trưng mà thôi.

Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, ngoài 32 ứng thân như trên (liệt kê có khác đôi chút), đức Bồ Tát Quán Thế Âm còn thành tựu được 14 năng lực vô úy; nhờ đó mà “tất cả chúng sinh trong mười phương, những ai đang bị khổ nạn, nếu thành tâm xưng niệm danh hiệu Ngài, liền được thoát khỏi các khổ nạn; dù vào hầm lửa lớn, lửa không đốt cháy được; dù bị rớt xuống nước, nước không nhận chìm được; dù vào nơi ác quỉ, ác quỉ không hại được; dù gặp nạn đao kiếm, đao kiến liền bị gẫy; v.v...”thế cho nên trong Kinh Pháp Hoa (phẩm Phổ Môn), Ngài được gọi là “bậc bố thí đức tính không sợ hãi”.

 

*

* *

 

Nói tóm lại, đức từ bi của Bồ Tát Quán Thế Âm rộng lớn vô biên, hạnh nguyện cứu độ chúng sinh của Ngài bao la vô tận, và oai thần diệu dụng cứu độ của Ngài thật không thể nghĩ bàn. Vì tình thương là đức tính tiêu biểu của Ngài, cho nên ở các nước Á-đông, người Phật tử thường tôn thờ Ngài bằng hình ảnh một bà Mẹ hiền; vì qua hình ảnh đó, họ mới cảm nhận được trọn vẹn niềm thân thương ấm cúng, sự đùm bọc che chở của Ngài.

Tất cả hạnh nguyện độ sinh của Bồ Tát Quán Thế Âm được đặt trên nền tảng tâm đại bi. Bi tâm ấy hoàn toàn thanh tịnh, sáng suốt, bình đẳng. Vì thế, bất cứ ở đâu, lúc nào, hễ có chúng sinh đau khổ là liền có Ngài thị hiện để cứu độ; và cũng vì thế mà sự cứu độ của Ngài luôn luôn được thi thiết trên nguyên lí “cảm ứng” – nghĩa là có cảm tất có ứng. Những người có lòng tin tưởng vững chắc nơi Ngài, thời thời thờ kính Ngài, mỗi khi có điều kêu cầu (cảm) liền được Ngài cứu độ (ứng) đã đành; đến như những người xưa nay chưa từng tin tưởng và thờ kính Ngài (như người ngoại đạo chẳng hạn), trong trường hợp nguy hiểm khẩn cấp, bỗng dưng được biết và chí thành xưng niệm danh hiệu Ngài để cầu xin cứu độ, tức khắc họ được Ngài cứu độ. Thậm chí, những kẻ suốt đời làm ác, phỉ báng Tam Bảo, phá hoại Phật pháp, rồi trong một hoàn cảnh nguy khốn, quá sợ hãi, bỗng dưng nhớ được danh hiệu Ngài, chí thành xưng niệm, kêu cầu cứu độ, cũng tức khắc được Ngài cứu độ! Có điều nên biết, là chúng ta không thể nào hiểu biết được sự cứu độ của Ngài, vì nó hoàn toàn vượt ra ngoài tầm hiểu biết của chúng ta; chúng ta chỉ cảm nhận được bằng trực giác rằng, chúng ta “đã được Ngài cứu độ” mà thôi – hạnh phúc riêng ai nấy biết.

Phật tử chúng ta không những trọn lòng tín ngưỡng đức Bồ Tát Quán Thế Âm, mà còn nên tu tập theo hạnh đại bi của Ngài, làm cho công hạnh độ sinh của Ngài được thể hiện ngay nơi mỗi người Phật tử chúng ta. Con người hiện nay ngày càng tàn ác; càng văn minh tiến bộ về vật chất thì càng dơ bẩn, thụt lùi về tâm linh. Bởi vậy, những khổ nạncon người trên thế giới phải gánh chịu do thiên tai, do chiến tranh, do lừa lọc, do cướp bóc, do bạo hành, do đâm chém bắn giết, v.v..., cứ xảy ra không những hằng ngày, hằng giờ, mà phải nói là hằng phút, hằng giây. Số chúng sinh đau khổ quá nhiều, dù chúng ta cũng thấy có xuất hiện không biết bào nhiêu tấm lòng nhân ái, nhường cơm xẻ áo, trợ giúp kẻ khốn cùng, dùng lời từ ái để xoa diệu phần nào nỗi đau thương thống khổ cho người bất hạnh, nhưng vẫn không làm sao vơi hết khổ đau được! Người Phật tử thấy rõ tình trạng đó, hãy cùng khuyến tấn nhau thời thời sống với tâm từ bi, không tham lamtinh tấn bố thí; không hận thùhỉ xảyêu thương người; nghe nơi nào cần giứp đỡ liền tùy khả năng mà ra tay tế độ. Đó chính là hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm. Một triệu người Phật tử sống đời sống như thế, là một triệu hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm trong cõi đời đau khổ này!

Sáng cho người thêm niềm vui; chiều giúp người bớt khổ.

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.

 

Ý kiến bạn đọc
30 Tháng Chín 201416:46
Khách
Bài viết rất hữu ích.cảm ơn
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8028)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35568)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19704)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11714)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23202)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13361)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5851)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10627)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10364)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10068)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20873)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6210)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6860)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8901)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6025)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18164)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6357)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6738)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6558)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13025)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5879)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7898)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10213)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7879)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9879)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9088)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5990)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24560)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36417)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7737)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11556)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10051)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5232)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5426)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10012)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7890)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9377)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8669)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46538)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 12328)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5803)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14517)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13004)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12447)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14580)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12447)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10961)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9645)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16718)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8488)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5976)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9961)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6380)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11359)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7051)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46726)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13514)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8402)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6862)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9181)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6187)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6911)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17864)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18187)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15812)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6965)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31262)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9586)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7699)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21636)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34182)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33332)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14243)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35676)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13013)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15784)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13694)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33058)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26393)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41426)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40366)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20063)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33721)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29687)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33735)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18886)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22730)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22456)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49018)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11975)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11169)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22524)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18011)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15121)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22698)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16007)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13121)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19728)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12070)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
(Xem: 17662)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant