Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa

01 Tháng Chín 201807:50(Xem: 6422)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa

Trong Cây Có Hoa
Trong Đá Có Lửa

 

Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển 
nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm

40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc

Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
Diễn đọc: Mộng Lan

 

 

Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ vào năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và viên tịch năm 1253, thọ thế 53 tuổi. Ngài là Sơ Tổ của Thiền Phái Tào Động Nhật Bản (Soto-Zen), và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng”. Ngài dạy rằng: “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa);Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)”, được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.

 

Trong cây có hoa đó là Nhân, nhưng phải nhờ có Duyên nữa mới có hoa (Quả), duyên ở đây bao gồm sự chăm sóc từ bàn tay của con người và đợi đến khi gặp thời tiết thích hợp thì cây mới ra hoa. Ví dụ như hoa Anh Đào Nhật Bản hay hoa Mai của Việt Nam, đến mùa Xuân mới có hoa, nhưng nếu ta không chăm sóc, không bón phân, không tưới nước thì sẽ khó để có được những bông hoa tươi đẹp.

 

Trong đá có lửa là Nhân, nhưng cần phải có Duyên tác động vào thì mới giúp đá phát ra lửa (Quả), duyên ở đây là hai viên đá phải cọ sát với nhau mới có lửa, nếu đặt hai viên đá xa nhau, mãi mãi sẽ không bao giờ có lửa. Ý của Ngài ở đây là muốn nhấn mạnhTrong chúng sanhPhật tánh”, nhưng Phật tánh này đang bị lớp bụi dầy đặc của vô minh che phủ từ vô thỉ, kiếp này ta cần phải phủi bụi, làm sạch lớp bụi vô minh kia, mới mong Phật tánh của ta hiển lộ, ta phải tinh tấn, tu tập miên mật, liên tục không ngừng nghỉ cũng giống như ta mài 2 viên đá để cuối cùng phát ra lửa vậy, nếu ta mài vài cái và bỏ ngang thì lửa sẽ không bao giờ có được, nếu ta giải đãi, không thường hằng tinh tấn để phá phiền não ác, thì mãi mãi ta không bao giờ nhìn thấy Phật tánh của mình hiển lộ.

 

Trong cây có hoa, trong đá có lửa” là hình ảnh tiêu biểu và gắn liền trong cuộc đời tu tậphoằng Pháp lợi sinh của Hòa Thượng Thích Như Điển. Ngài luôn là tấm gương sáng ngời về sự miên mật tinh tấn dõng mãnh trên đường đạo cho những kẻ hậu học.

 

Bản thân tôi từng có duyên may được Hòa Thượng  cho tháp tùng trong các chuyến hoằng Pháp của Ngài ở Hoa Kỳ, từng viếng thăm Chùa Viên Giác Hannover nhiều lần, cũng như được hầu cận, tiếp xúc trong những dịp Ngài ghé thăm bổn tự Quảng Đức, nên chứng kiến và biết được mọi sinh hoạt tu tập của Hòa Thượng. Chỉ trừ trường hợp ngã bệnh, ngoài ra trong suốt 55 năm tu tập của mình, dù ở bất cứ nơi nào Ngài chưa bao giờ bỏ qua thời công phu buổi khuya.



ht nhu dien (2)

Phái đoàn Hoằng Pháp của HT Như Điển
ở Chùa Đức Viên, San Jose, Miền Bắc California

Hòa Thượng Như Điển còn nổi tiếng về hạnh nguyện lạy Phật, vì lạy Phật là một phương pháp sám hối để tiêu trừ nghiệp chướng và cũng là phương cách gạn lọc thanh tịnh thân tâm mình qua thân, khẩu và ý nghiệp. Hòa Thượng đã phát nguyện lạy bộ Ngũ Bách Danh với 500 danh hiệu của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát; rồi 3.000 lạy của bộ Tam Thiên Phật trong quá khứ, hiện tạivị lai. Sau đó Ngài phát nguyện lạy Kinh Vạn Phật, trên 10.000 lạy. Tiếp đó, vào những mùa An Cư Kiết Hạ, Ngài đã phát nguyện lạy Kinh Pháp Hoa mỗi chữ mỗi lạy, tổng cộng có trên 70.000 lạy; hiện nay Ngài và đại chúng Viên Giác cũng đang tiếp tục lạy Kinh Đại Bát Niết Bàn gồm 2 quyển. Đến giữa năm 2019 sẽ lạy hết trọn bộ Kinh Đại Bát Niết Bàn nầy. Ngài nói rằng từ năm 1984 đến nay, trong các mùa An Cư Kiết Hạ, mỗi đêm Ngài lạy từ 250 đến 300 lạy. Quả thật đây là một công hạnh khó ai theo kịp trong thời đại này. Ngài cũng hay tâm sự với đại chúng "Cũng nhờ tụng kinhlạy Phậtbản thân tôi làm được nhiều Phật sự như ngày hôm nay". Và có lẽ nhờ công đức tu tập của HòaThượng mà mọi Phật sự trong cuộc đời của Ngài đều thông suốtviên mãn.

 

ht nhu dien (7)

HT Như Điển, HT Hạnh Tuấn và TT Nguyên Tạng
dự Đại Hội Gia Đình Phật tử tại San Jose tháng 3 năm 2011


HT Như Điển hiện là Đệ Nhị Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu và là Thành Viên Hội Đồng Chứng Minh của Giáo Hội Tăng Già Thế Giới (trụ sở đặt tại Đài Loan). Ngài sinh ngày 28 tháng 6 năm 1949 tại Duy Xuyên, Quảng Nam, và xuất gia đầu Phật năm 1964 tại Tổ Đình Phước Lâm, Hội An. Thọ Sa di năm 1967 tại Giới đàn Chùa Phổ Đà, Đà Nẵng, được Bổn Sư là Cố Hòa Thượng Thích Long Trí ban cho pháp tựGiải Minh. Năm 1971, Ngài thọ Tỳ Kheo giới tại Giới đàn Tu Viện Quảng Đức, Thủ Đức. Năm 1972, được trợ cấp học bổng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Quảng Nam với sự đồng thuận của Giáo Hội Trung Ương qua sự giới thiệu của Hòa Thượng Thích Huyền QuangHòa Thượng Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, Thích Thiện Hoa lúc bấy giờ, Ngài đã đến Nhật du học. Sau 9 tháng học nhảy 3 khóa Nhật ngữ và đã đậu vào Đại học Teikyo (Đế Kinh) tại Tokyo ngành giáo dục học. Đến tháng 2 năm 1977, Ngài đã ra trường với luận án tốt nghiệp tối ưu và tiếp tục thi đỗ vào Cao Học Phật Giáo tại Đại học Risso (Lập Chánh) tại Tokyo, và chỉ học ở đây một thời gian ngắn. Ngày 22/4/1977, Ngài đến Đức quốc với Visa du lịch, nhưng sau đó xin tỵ nạn và ở lại Đức từ đó cho đến nay, chưa có cơ hội trở về thăm quê hương. Ngài đã ở tại Kiel một năm để học tiếng Đức tại Đại học Kiel, sau đó dời về thành phố Hannover để học tiếp ngành giáo dục hậu Đại Học. Vào ngày 15/4/1978, Ngài thành lập Niệm Phật Đường Viên Giác tại Hannover. Năm 1988 được tấn phong lên hàng Giáo phẩm Thượng Tọa tại Giới đàn Đại Nguyện chùa Pháp Hoa Marseille, Pháp quốc. Ngày 28/6/2008, tại Đại Giới Đàn Pháp Chuyên được tổ chức tại chùa Viên Giác Hannover, Đức quốc, Ngài đã được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tấn phong lên Giáo phẩm Hòa Thượng. Ngày 8/7/2011 tại Colombo, Tích Lan, Hội Đồng Tăng Già Tích Lan đã phát giải thưởng cao quý cho HT Thích Như Điển và HT Thích Minh Tâm về việc truyền bá giáo lý Phật Đà khắp năm châu do chính Thủ Tướng Tích Lan trao tặng. Hòa Thượng cũng là người sáng lập Chi Bộ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Đức Quốc, thành lập Hội Sinh Viên và Kiều Bào Phật Tử Việt Nam tại Đức từ năm 1978, 1979. Hiện nay tại Đức có 15 ngôi chùa, hơn 70 vị xuất gia. Có 23 Chi Hội và 7 Gia Đình Phật Tử.


 Năm 2018-2019 cũng là năm kỷ niệm chu niên 40 năm thành lập chùa Viên Giác và 40 năm thành lập Hội Phật Tử VNTN tại Cộng Hòa LB Đức cũng như 40 năm thành lập Chi Bộ Đức Quốc và 40 năm xuất bản báo Viên Giác. Hiện tại Chùa Viên Giác, Hannover đã trải qua 3 đời trụ trì như sau: Khai sơn sáng lập Trụ Trì từ năm 1978 đến năm 2003: Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển, thuộc dòng phái Thiền Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 41. Kế tục đời Trụ Trì thứ nhất là Thượng tọa Thích Hạnh Tấn, từ năm 2003 đến 2008, đệ nhị Trụ TrìĐại Đức Thích Hạnh Giới, từ năm 2008 đến 2017; đệ tam Trụ Trì từ 2017 đến nayĐại Đức Thích Hạnh Bổn.

 

Chùa Viên Giác, là một ngôi chùa nổi tiếng ở Âu Châu, đã chính thức được khởi công xây dựng vào năm 1989, khánh thành năm 1991 và lễ hoàn nguyện vào năm 1993 với tổng kinh phí xây dựng là 9 triệu Đức Mã (tương đương với 5 triệu Mỹ Kim). Mỗi năm Chùa Viên Giác đều có nhiều sinh hoạt Phật sự khác nhau cho người Việt đồng hương và người Đức như: Đại Lễ Phật Đản, Đại Lễ Vu Lan, lễ Hội Quan Thế Âm, Tết, Rằm Tháng Giêng cũng như những khóa tu học ngắn hạn hoặc dài hạn trong vòng từ 2 ngày đến 3 tháng. Số người Việt đi lễ chùa Viên Giác hằng năm độ 80.000 người và đặc biệt có khoảng 40.000 người Đức về chùa làm quen với Đạo Phật.

 

Có thể nói Chùa Viên Giác là ngôi chùa Việt Nam được thành lập đầu tiên tại xứ Đức và đã trở thành ngôi Tổ Đình của môn phong pháp phái Chúc Thánh nói riêng cũng như cho Phật Tử Việt Nam tại Cộng Hòa Liên Bang Đức nói chung.

 

Không những chỉ hoằng Pháp tại Đức mà vai trò hoằng pháp của HT Như Điển còn mở rộng ra bên ngoài xứ Đức. HT Như Điển nổi tiếng là một Tăng sĩ VN hải ngoại có thể giữ kỷ lục tham quan nhiều quốc gia nhất, gồm 73 nước tính từ sau năm 1975 cho đến nay 2018, trong đó nổi bật nhất là các quốc gia Âu Châu, Đông Âu, Bắc Âu, Hoa Kỳ, Canada và Úc Châu là những nơi Ngài thường xuyên lui tới để hoằng Pháp.

 

Một quốc gia quen thuộc với Ngài nhất, đó là Úc Châu, vì rằng xứ sở Kangaroo này có sự hiện diện của bào huynh Ngài là Hòa Thượng Thích Bảo Lạc (hiện là Hội Chủ GHPGVNTN Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan) và đặc biệt là có vị Giáo Thọ Sư của Ngài, đó là Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Như Huệ (1934-2016), là Hội Chủ lãnh đạo GH Úc Châu trong 16 năm từ 1999 đến 2015. Có thể nói do công đức giới thiệu của HT Như Điển từ lúc ban đầu mà HT Như Huệ đã được Cộng Đồng PTVN tại Adelaide, Nam Úc cung thỉnh Ngài sang Úc định cư và làm việc cho đến ngày viên tịch.

 

Theo lời kể của HòaThượng, Ngài đến Úc lần đầu tiên vào năm 1979 do Hội PGVN New South Wales mời qua thuyết giảngcố vấn cho Hội cách sinh hoạt, trong dịp này Hòa Thượng đã hướng dẫn thành viên Hội đóng góp định kỳ $10 Úc kim hằng tháng hoặc cho mượn Hội Thiện để Hội có kinh phí sinh hoạt và thuê mướn cơ sở.

 

Sau đó vì có bào huynh của Ngài là HT Thích Bảo Lạc, Trụ Trì chùa Pháp Bảo ở Sydney, Úc Châu, cho nên từ năm 2003, sau khi Ngài lên ngôi Phương Trượng Chùa Viên Giác,  mỗi năm 3 tháng vào mùa Đông giá lạnh tại Đức, Ngài đã rời Đức quốc đi Á Châu (Thái Lan và Ấn Độ) một tháng. Còn lại 2 tháng Ngài đã đến Sydney Úc Châu thăm  HT Thích Bảo Lạc, rồi lên núi đồi Đa Bảo để tĩnh tu nhập thất trong suốt 2 tháng liền, cho đến năm 2012 là đúng 10 năm. Trong 10 năm đó, những lần ở trên vùng núi đồi Đa Bảo tại Campbelltown hay Blue Moutain, đều là những ngày tháng vui khỏe, an lạc lạ thường của Ngài. Ngoài thời gian dành để viết hoặc dịch kinh sách, có lúc Ngài cũng cùng HT Bảo Lạc đi thăm thú đó đây quanh nước Úc, như cuối năm 2006, Ngài đi thăm Darwin, Perth, Alice Spring và núi đá đỏ Uluru. Và lúc đó trong một cuộc điện đàm thăm hỏi, Ngài đã cho biết rất mãn nguyện khi được viếng thăm núi thiêng Uluru, được xem là kỳ quan của xứ Úc.

Nhìn toàn cảnh Uluru, người ta sẽ thấy đó là khối đá khổng lồ và bóng nhẵn, tạo thành một khối thống nhất, trên khắp núi không có bất cứ loại cây cỏ nào. Chiều cao của Uluru lên tới 348m, dài 3km, chu vi chân núi khoảng 8,5km. Với kích thước lớn như vậy, nhìn xung quanh ngọn núi thiêng, du khách thấy mọi vật trở nên nhỏ bé. Một trong những điều kỳ lạ ở Uluru chính là khả năng tự biến đổi màu sắc tùy theo  thời gianthời tiết trong ngày như đỏ sẫm, vàng cam, xanh thẫm hay tím. Tảng đá thiêng có tuổi đời 600 triệu năm thường mang màu đỏ sẫm đặc trưng, nhưng khi thời tiết thay đổi, màu sắc của nó cũng biến đổi theo và HT Như Điển đã thiền hành quanh ngọn núi thiêng nầy trong 3 tiếng đồng hồ khi Ngài viếng thăm vào năm 2006.

 

DSC_5679_resize
HT Thích Như Điển ban đạo từ trong lễ Khánh Thành Bảo Tháp Liên Hoa
tại Tịnh Thất Hòa Bình, Fremont (do Sư Cô Hạnh Trì tạo dựng)


Rồi cuối năm 2010, tôi đã mời HT viếng thăm Tasmania ngay sau khi Ngài tham dự và giảng dạy tại Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu kỳ 9 ở Sydney. Ngài và đệ tử thị giả của Ngài là ĐĐ Hạnh Định phải xuống Melbourne để cùng tôi và chú đệ tử người Úc, Quảng Từ Chris Dunk lên tàu Spirit Tasmania để bắt đầu chuyến tham quan. Tôi chọn Tasmania để mời Hòa Thượng tham quan Port Arthur, là một thị trấn nhỏ và là nhà tù cũ trên bán đảo Tasman, vì trong năm 2010, báo chí Úc đưa tin UNESCO đã chính thức ghi nhận địa điểm Port Arthur là di sản của thế giới, với 11 địa danh còn lại thuộc chuỗi nhà tù do đế quốc Anh xây dựng trong thế kỷ 18-19. Cho đến ngày nay, Port Arthur là một trong những di tích lịch sử nổi tiếng nhất của Úc, thu hút được hơn 250.000 du khách đến thăm mỗi năm.

  

Trong thời gian tham quan Tasmania, tôi và Hòa Thượng đã bàn thảo với nhau về nhiều vấn đề như sinh hoạt Phật sự trong GH, hoằng phápđặc biệtchương trình dịch sách chung với nhau trong tương lai gần. Không ngờ sau chuyến viếng thăm đó, Thầy trò chúng tôi đã bắt tay vào việc ngay, hợp dịch 2 tập sách từ Anh Ngữ sang tiếng Việt. Lúc đầu tôi thỉnh Hòa Thượng dịch chung tác phẩm “Buddha & His Principal Disciples’s Relica” (Xá Lợi của Phật & Chư Vị Đại Đệ Tử của Ngài), nhưng sau đó phát hiện đã có người dịch tác phẩm này nên tôi thỉnh Hòa Thượng cùng dịch tập sách “Chết An Lạc, Tái Sanh Hoan Hỷ”, nguyên tác Anh ngữ “Peaceful Death, Joyful Rebirth” của Lạt Ma Tây Tạng, Tulku Thondup (thuộc phái Nyingma). Sách dày 515 trang, tôi dịch từ chương 1 đến chương 5, Hòa Thượng dịch từ chương 6 đến chương 10 và 2 phụ lục. Tôi chọn dịch sách này vì muốn cống hiến thêm cho kho tàng văn khố PGVN có thêm 1 tài liệu khác về PG Tây Tạng, vì cuốn sách này gạn lọc trí tuệ hàng ngàn năm của Phật Giáo Tây Tạng, trình bày những giáo lý cốt lõi về Thiền, Mật tông và Tịnh độ, không chỉ có tính cách chữa trị sự đau khổvô minh của chúng ta về sự chết và sự hấp hối mà còn giúp chúng ta chứng đạt mục tiêu an lạc vô thượng, không những cho đời này mà còn cho sự chết và cõi bên kia nữa. Tập sách thứ 2, tôi dịch chung với HT Như Điển và đã phát hành vào dịp Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu kỳ 17 tại Portsea, Úc Châu (tháng 12-2017) là “Thiền Quán về Sống và Chết, Cẩm Nang Hướng Dẫn và Thực Hành” (The Zen of  Living and Dying – A Practical an Spiritual Guide), tôi dịch từ đầu sách đến trang 136 và Hòa Thượng dịch từ trang 137 đến cuối sách trang 251, nguyên tác Anh ngữ là của Thiền Sư người Mỹ, Philip Kapleau (1912-2004), Ngài cũng là tác giả của tập sách nổi tiếng The Three Pillars of Zen (Ba Trụ Thiền). Tôi trình với Hòa Thượng về lý do chọn dịch tập sách này là có liên quan đến xứ sở Nhật Bản nơi Hòa Thượng từng du học từ 1972 đến 1977, và Lão Sư Philip Kapleau là đệ tử của Thiền Sư Bạch Vân (Nhật Bản), ông cũng đã đến Nhật vào tháng 3 năm 1947, làm thư ký Tòa án cho Quân sự Quốc tế tại Tokyo để xử các tội phạm chiến tranh thế chiến thứ 2. Ông so sánh với các phiên xử những tội phạm khủng bố của phát xít Đức ở Nuremberg thì phiên xử ở Tokyo dễ chịu hơn, ít căng thẳng hơn. Vì người Nhật biết chấp nhận hậu quả chiến tranh với sự điềm tĩnh và tự kiềm chế. Qua tìm hiểu, Kapleau biết rằng người Nhật chấp nhận quả báo khổ đau này là dựa trên "Luật nghiệp quả báo ứng(The law of karmic retribution). Khái niệm về luật nhân quả này được hoạt động trên bình diện đạo đức kích thích sự chú ý của Kapleau, vì nó ngược lại hoàn toàn với sự tự bào chữa rất thường nghe ở Đức. Với sự tò mò về vấn đề nghiệp báo, cuối cùng Kapleau đã quy hướng PG và sau đó bỏ ngang công việc và phát tâm xuất gia tu học theo PG Nhật Bản.



chetanlac

(Sách dịch chung 

của HT Như Điển & TT Nguyên Tạng
Kính mời vào xem nội dung)


Thien Quan_Song va Chet_2017

(Sách dịch chung

của HT Như Điển & TT Nguyên Tạng
Kính mời vào xem nội dung)

ht nhu dien 24

HT Như Điển & TT Nguyên Tạng ký tặng sách đến quý Phật tử 

sau buổi giảng Pháp tại Thiền Đường Mây Từ ở miền Nam Californoa, Hoa Kỳ 

 

Trước đây đã có rất nhiều sách báo viết về sự chết và hấp hối rồi, tại sao lại có thêm một cuốn sách nữa về sự chết và hấp hối nữa để làm gì? Mục đích chính của cuốn sách “Thiền Quán về Sống và Chết” là giúp người đọc học được cách sống một cách trọn vẹn với sự sống ở mọi thời điểm và chết một cách an lạc khi cái chết xảy đến. Sự chấp nhận này còn làm cho chúng ta sẵn sàng đối diện với cái chết một cách can đảmtiếp nhận những gì liên quan đến cái chết ban cho mình, đó là cách thức thay thế cái thể xác cũ mòn, đau đớn này bằng việc tiếp nhận một thân xác mới, và hơn thế nữa đây là cơ hội độc nhất trong đời sống này để đạt đến chứng nghiệm giải thoátgiác ngộ. Cả hai dịch phẩm của hai Thầy trò, HT Như Điển đều vận độngủng hộ ngân quỹ để ấn tống rộng rãi tại Âu Châu, Úc Châu, Hoa Kỳ và Canada. Con xin niệm ơn Hòa Thượng đã cho con có cơ hội cùng làm việc chung với Ngài để có được 2 đứa con tinh thần giá trị này.

 

Chúng ta còn được biết trong khoảng thời gian mười năm, chỉ với những lần đến Úc tĩnh tu mà Hòa Thượng đã có thêm 20 tác phẩm, dịch phẩm trong kho tàng văn khố của Ngài gồm khoảng 65 đầu sách. Đồng thời trong những năm này, HT đã tích cực đóng góp cho sự lớn mạnh của các Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu tại xứ sở này.

 

Nói chung, Úc Châu là nơi Hòa Thượng đến thăm thường xuyên nhất trong đời của Ngài, Ngài từng kể tôi nghe, chỉ riêng để đến Úc Ngài đã trải qua hơn triệu cây số đường bay, vì chuyến bay từ Hannover đến Sydney là 35.000 cây số, nếu đem con số này nhân cho trung bình 38 lần bay của 38 năm (từ 1979 đến 2017) thì đã có 1.292.000 cây số rồi.


Một quốc gia khác mà HT Như Điển thường đến hoằng Pháp sau Úc Châu phải nói là Hoa Kỳ, quả thật từ năm 1979, Ngài đã bắt đầu đi Hoa Kỳ và đến nay 2018 trong gần 40 năm liên tục, HT đã có trên 50 lần đến quốc gia này để làm Phật sự, điều ấy có nghĩa là mỗi năm một lần và nếu có năm không đi Hoa Kỳ thì bù lại có năm đi 2, 3 lần để thuyết giảng, hay tham dự lễ khánh thành hoặc dự lễ tang của chư Tôn Đức.


ht-nhu-dien-12-chua phat to
Phái đoàn Hoằng Pháp của HT Như Điển
ở Chùa Phật Tổ, Long Beach, California
ht nhu dien-14

Phái đoàn Hoằng Pháp của HT Như Điển
Thiền Viện Chánh Pháp, Oklahoma

ht nhu dien-12
ht nhu dien-13

Phái đoàn Hoằng Pháp của HT Như Điển
Thiền Đường Ngọc Sáng, Santa Ana, California


ht nhu dien-16

Phái đoàn Hoằng Pháp của HT Như Điển

ở Chùa Trúc Lâm, Houston, USA

ht nhu dien-19

Phái đoàn Hoằng Pháp của HT Như Điển
ở Chùa Hải Đức, Jacksonville, Florida





 

Hoằng Pháp thị gia vụlợi sanh vi sự nghiệp”, nghĩa là: “Hoằng dương giáo lý Phật Đà là việc nhà của người xuất gia và việc giúp đời, giúp người là sự nghiệp của những người xuất thế”. Người viết có duyên may được Hòa Thượng cho phép tháp tùng trong Phái Đoàn Hoằng Pháp của Ngài tại Hoa Kỳ từ 2006 đến 2012 (mỗi năm từ đầu tháng 3 đến cuối tháng 5), về sau này vì bận Phật sự tại bổn tự nên chúng tôi không tham dự nữa. Trong phái đoàn lúc đó thường có 10 vị, gồm có HT Như Điển (Trưởng Đoàn), TT Đồng Văn, TT Nguyên Tạng, TT Thông Triết, TT Hạnh Đức, TT Giác Trí, ĐĐ Thánh Trí, ĐĐ Thiện Đạo, ĐĐ Hạnh Thức, ĐĐ Viên Giác, ĐĐ Hạnh Tuệ, NS Minh Huệ…Hòa Thượng phân công cho chúng tôi mỗi vị giảng một đề tài chuyên môn theo khả năng khác nhau về cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền, về Thiền, Tịnh, Mật… tùy theo thính chúng mà uyển chuyển. Những địa phương mà Phái Đoàn đã đi gồm Nam Cali (Chùa Bát Nhã, Chùa Phật Tổ, Đạo Tràng Mắt Thương Nhìn Đời, Thiền Đường Ngọc Sáng, Liên Trì, Hiền Như Tịnh Thất…) và Bắc Cali (Chùa Đức Viên, Chùa An Lạc, Chùa Đại Nhật Như Lai, Chùa Kim Quang, Tịnh xá Quan Âm, NPĐ Fremont, Tịnh Thất Hòa Bình, Đạo Tràng Từ Bi Nguyện, Nhà Hàng Andy Nguyễn…) rồi từ đó đi Las Vegas (Chùa Liên Hoa, Chùa Phổ Quang..). Tiếp theo là Houston (Chùa Trúc Lâm, Chùa Phước Đức, Chùa Từ Bi…) Từ Houston đi Austin (Chùa Liên Hoa). Tiếp đến đoàn về Oklahoma (TV Chánh Pháp) rồi đi Philadelphia (Chùa Linh Quang, Chùa Phật Bảo, Chùa Hoa Nghiêm..). Tiếp đến đi Atlanta (Chùa Hải Ấn, Chùa Tây Phương, Tư gia Đạo Hữu Thị Phước); từ Atlanta bay đến Chicago (Chùa Trúc Lâm, Chùa Quang Minh, Chùa Phước Hậu…), rồi đi Michigan (Chùa Linh Sơn, Chùa Pháp Lâm, Chùa Việt Nam (St. Louis) , Chùa Quan Âm, Chùa Tịnh Tâmvà Jacksonville (Chùa Hải Đức). Từ Jacksonville đi Orlando hay Gainsville. Điểm cuối cùng là Mineapolis (Chùa Phật Ân và Tu Viện Tây Phương). Từ đó bay sang Montreal, Canada (Tổ Đình Từ Quang, Chùa Quan Âm, Chùa Hiếu Giang, Chùa Từ Ân….)


Phong van HT Nhu Dien_TT Nguyen Tang (148)

Nguyễn Văn Phú Bolsa Radio 
(Santa Ana, California, Hoa Kỳ)
phỏng vấn HT Như Điển và TT Nguyên Tạng 





ht nhu dien (3)
Ký giả Đoàn Trọng Little Saigon Tivi) phỏng vấn

Hòa Thượng Thích Như Điển & Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng

trong nghia-monglan
ht nhu dien (4)
Anh Chị Trọng Nghĩa-Mộng Lan (Radio, Đài Nghệ Thuật & Thương Mại)

phỏng vấn Hòa Thượng Thích Như Điển, 

Thượng Tọa Thích Nguyên TạngĐại Đức Thích Viên Giác


ht nhu dien (8)

Ký giả Phạm Khanh (Little Saigon Tivi) phỏng vấn

Hòa Thượng Thích Như Điển & Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng



Nếu chư Tôn Đức trong đoàn không có sức khỏe thì không ai có thể chịu đựng được trong 10 tuần lễ đi và làm việc liên tục như vậy. Phần lớn những thành phố, những tiểu bang mà phái đoàn đến là những nơi có chùa mà không có Tăng Ni lưu trú, trụ trì nên Phật tử cư sĩ những nơi này tha thiết cầu học giáo pháp để làm hành trang trên bước đường tu tập giải thoát. Đoàn cũng đã được báo chí tại địa phương Santa Ana phỏng vấn đưa tin, như Đài Truyền Hình Little Sàigòn (Ký giả Đoàn Trọng, Nhà báo Phạm Khanh); Báo Viễn Đông, Báo Sài Gòn Times về hiện tình của GHPGVNTN cũng như việc hoằng pháp của Đoàn. Ngoài ra đài phát thanh của ký giả Kiều Mỹ Duyên, anh chị Trọng Nghĩa-Mộng Lan cũng đã trực tiếp phỏng vấn Phái đoàn về nhiều lãnh vực khác nhau trên hành trình hoằng pháp. Đài truyền hình Việt Nam Cali Today ở San Jose do anh Nam làm giám đốc, cũng đã phỏng vấn và thu hình trực tiếp Phái đoàn về những việc liên quan với Giáo Hộiphái đoàn.

 

Nhân sanh thất thập cổ lai hy”

“Bảy mươi tuổi xưa nay đã hiếm
Sống trăm năm có được mấy người
Dẫu rằng trăm tuổi được thôi
Nhịp cầu sanh tử ai rồi cũng qua
Trong biển khổ ái hà bơi lội 
Kể xiết bao nhiêu nỗi thăng trầm
Tranh giành cuộc sống trăm năm
Càng hơn càng chán móng mầm vô minh”.


Thật vậy, người thế gian sống qua cái tuổi xưa nay hiếm, tuy có may mắn nhưng họ vẫn còn tiếp tục quanh quẩn trong thế sự thăng trầm, đau khổ và hụp lặn trong danh vọng, địa vị, cơm áo, gạo tiền… chưa có ngày nào được chút thong thả, nhẹ nhàng và an lạc. Còn đối với HT Như Điển, sắp tới đây Ngài cũng bước sang tuổi 70, nhưng có thể nói rằng trong 70 năm trụ thế, 55 năm xuất gia tu tập hoằng pháp, 40 năm xây dựng đạo tràng Chùa Viên Giác tại Đức và 40 năm chung tay lăn chuyển bánh xe Chánh Pháp trên khắp thế giới của Ngài, là một hành trình dài trọn vẹn, đẹp đẽ, thông suốtmầu nhiệm. Kỳ thật, cuộc đời của Ngài quả là một tấm gương sáng chói, cả về đạo hạnh lẫn sự nghiệp hoằng dương Phật pháp. Ngài luôn thể hiện nếp sống của bậc chân tu thật học, thiểu dục tri túc, giới đức tinh nghiêm, gắn liền đời sống tu tập của mình với sự nghiệp trước tác, phiên dịch, ấn tống kinh sách, xuất bản báo Viên Giác, dạy dỗ Tăng chúng duy trì nếp sống thiền môn quy củ, hoằng pháp lợi sinh, tạo dựng đạo tràng, bảo tồn văn hóa dân tộc. Ngài đã hóa độ 45 đệ tử xuất gia và hơn 7.000 đệ tử tại gia, ai ai cũng thọ nhận được pháp lạc vi diệu từ nơi giáo hóa của Ngài. Không có ngôn ngữ nào có thể mô tả hết sự nghiệp giáo hóa độ sanh của Ngài. Được biết chúng đệ tử thân thương của Chùa Viên Giác, Hannover, Đức quốc đang chuẩn bị mọi thứ để kính mừng Ngài thượng thọ thất tuần vào mùa Hè năm 2019, chúng con xin mạo muội viết đôi hàng này để tán dương công hạnh của Ngài, đã tận hiến cả cuộc đời của mình cho công cuộc hoằng pháp lợi sinh nơi xứ người. Chúng con đê đầu đảnh lễ Ngài, kính chúc Ngài pháp thể khinh anpháp duyên vô ngại.

 

Nam Mô A Di Đà Phật

Viết tại Tu Viện Quảng Đức, Mùa An Cư 2018

Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17581)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24366)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 25876)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13710)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13140)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 21914)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19012)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 9965)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11867)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 12998)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15119)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10500)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21697)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10075)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9816)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9723)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10162)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27201)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17775)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13147)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 24953)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34516)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26685)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 18954)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 8974)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13024)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 8962)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9421)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9088)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11750)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18468)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8741)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10628)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10893)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 27903)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17835)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14367)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16322)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13164)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15413)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14631)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7535)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 16917)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8331)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30599)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant