Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiểu sử đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III

10 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9143)
Tiểu sử đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III


Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III ra đời vào năm 1543 ở làng Khangsar thuộc thung lũng Tolung cách Lhasa không xa lắm. Cha của Ngài, Depa Namgyal và mẹ, Paldzom Butri là một gia đình quý tộc có quan hệ tốt với dòng dõi Phagmotru và chùa Sakya. Cũng như hai vị Đạt-lai Lạt-ma trước, những dấu hiệu kỳ lạ đã xảy ra trong lúc Ngài đản sanh. Theo tiểu sử viết về Ngài, lúc vừa chào đời, hài nhi đã bắt đầu tụng đại thần chú của Tây Tạng “Om mani padme hum”. Sau khi biết nói bập bẹ, cậu bé thường nói về tiền thân của mình với những thông tin thật chính xác, thậm chí còn tuyên bố rằng mình chính là Gendun Gyatso (vị Đạt-lai Lạt-ma thứ II). Những dấu hiệu này đã gây sự chú ý cho phái đoàn tìm kiếm tái sinh của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II.

Phái đoàn tìm kiếm đã tham khảo lời tiên tri của thần Nechung, một trong những vị Hộ Thần chủ yếu của Tây Tạng. Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II đã thiết lập mối quan hệ rất đặc biệt đối với vị thần này và tất cả các hậu thân sau này của Ngài cũng tiếp tục duy trì mối quan hệ đặc biệt ấy. Ngài Sungrad Gyatso, dẫn đầu phái đoàn tìm kiếm của Drepung và từng là chánh thư ký‎ của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II, cũng đã tham khảo những dấu hiệu trong hồ Nữ Thần huyền bí. Cuối cùng, chỉ có thung lũng Tolung là địa điểm cần được xem xét. Sau những tiến trình tìm kiếm theo đúng nghi thức, cậu bé, lúc ấy được bốn tuổi, đã nhanh chóng được xác nhậntái sinh của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II. Ngài Sungrab Gyatso đã đứng ra sắp xếp lo liệu mọi việc cho sự tấn phong và việc học hành của Ngài.

Được đưa vào ở Dredung, Ngài đã chứng tỏ mình là một học trò thông minh xuất chúng và sớm phát triển những khả năng đặc biệt dưới sự dạy dỗ của Panchen Sonam Drakpa - người đã trao truyền ngũ giới cho Ngài. Ngài được đặt Pháp danh là Sonam Gyatso. Năm lên mười tuổi, Ngài chính thức đăng quang tại Drepung và bốn năm sau đó lại đăng quang một lần nữa tại Sera. Suốt thời gian ấy, Ngài được học hành dưới sự hướng dẫn của nhiều bậc Thầy lỗi lạc. Bên cạnh đó, Ngài còn làm chủ trì cho toàn bộ Đại Lễ Hội Cầu Nguyện.

Khi còn rất bé, Sonam Gyatso đã hành hương đến chùa Chokhor Gyal. Đây là chuyến hành hương mà tất cả các vị Đạt-lai Lạt-ma đều phải thi hành trong cuộc đời của mình với mục đích cho sự thực hiện thiền định Mật tông. Cả hàng nghìn người xếp hàng bên lề đường để đón nhận sự ban phúc của Ngài. Ngài cũng đã viếng thăm rất nhiều ngôi chùa trên suốt lộ trình của mình. Kể từ đó, Ngài phải chia thời gian ra để quản lý giữa hai chùa Chokhor Gyal và Drepung; đồng thời Ngài còn thuyết giảng nhiều nơi ở phương xa. Để đáp lại nhiều lời thỉnh cầu, Ngài đã phải đến những vùng xa xôi của dân du mục ở tận phía Bắc Tây Tạng; rồi lại đến miền Nam, nơi mà Ngài đã khước từ chức vụ Viện trưởng của Tashi Lhunpo và chỉ nhận cương vị như một người đại diện mà thôi; rồi lại đến trung tâm Tây Tạng để thuyết giảng.Tuy nhiên, Ngài vẫn duy trìgia tăng lịch trình thiền định nghiêm khắc hàng ngày và nhập thất định kỳ của mình. Dù những Phật sự chiếm hầu hết thời gian của Ngài; tuy vậy, Ngài vẫn trước tác hơn bốn mươi tác phẩm. Với lòng nhiệt huyết vì sự truyền bá giáo pháp, Ngài đã rất thành công trong công cuộc củng cốtruyền bá giáo lý của ngài Tsongkhapa trên khắp đất nước Tây Tạng.

Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III được chọn làm thầy giáo riêng cho vua Nedong - một trong những người thống trị hùng mạnh nhất của dòng dõi Phagmotru, ông băng hà vào năm 1564. Sự qua đời của nhà vua khiến cho vận mệnh của phái Gelugpa, phái đã từng được sự ủng hộ của dòng dõi Phagmotru, trở nên sa sútáp lực của những người ủng hộ phái Karma Kagyud. Sonam Gyatso thường đóng vai trò là người hòa giải trong những mối xung đột ấy. Vào năm 1573, Ngài sáng lập chùa Namgyal, một ngôi chùa dành riêng cho tất cả các Đạt-lai Lạt-ma, tọa lạc trên ngọn đồi Potala ngay bên ngoài Lhasa, nhưng nó lại bị tiếp quản bởi Tsang, người ủng hộ cho lực lượng phái Kagyud. Năm 1574, Tsang xâm chiếm trung tâm Tây Tạng và nắm trọn quyền lực. Trong bối cảnh ấy, một Thái tử đầy quyền uy của Mông Cổ, Altan Khan, người đã từng chiến thắng trong cuộc tấn công vùng biên giới của Trung Quốc, mời Ngài đến thăm đất nước Mông Cổ.

Vào triều đại của Kublai Khan và Sakya Phagpa, người Mông Cổ đã từng đón nhận niềm tin Phật giáo; nhưng sau sự thất bại của triều đại Yuan, họ đã trở về với lối tín ngưỡng Pháp sư cũ của họ. Mãi đến thời kỳ này, Altan Khan mới trở lại nghiên cứu và biết được sức mạnh của giới Giáo sĩ ở châu Á và nhớ đến quá khứ lịch sử huy hoàng của khối liên minh Kublai-Sakya, nên đã mời ngài Sonam Gyatso đến Mông Cổ. Sự kiện này đã được người dân Trung Quốc đặc biệt hoan nghinh. Trong nhiều năm qua, họ đã vô cùng lúng túng trước những lực lượng tấn công của Mông Cổ. Vì vậy, họ có thể thấy được những lợi thế ủng hộ những nỗ lực của các Đạo sư Tây Tạng khiến cho Mông Cổ phải từ bỏ tín ngưỡng của mình để theo Phật giáo, điều đó sẽ làm giảm tinh thần chiến đấu của người Mông Cổ, làm suy yếu một cách có hiệu qủa về mối đe dọa quân sự của họ.

Thận trọng trước những ý định của Mông Cổ, Sonam Gyatso từ chối lời mời của thái tử Altan Khan và thay vào đó là gởi người đại diện đến. Năm 1576, Altan Khan gởi lời thỉnh cầu thứ hai cùng với một phái đoàn lớn đến để thuyết phục. Đến thời điểm này, Sonam Gyatso mới đầy đủ cơ duyên để truyền bá Phật giáo trên khắp đất nước Mông Cổ. Sonam Gyatso đã bắt đầu thực hành lời tiên đoán mà Ngài (đức Đạt-lai Lạt-ma II) đã nói vào khoảng cuối đời trước của mình rằng Ngài “sẽ trở lại để làm việc với những người ở phía Nam”. Công việc này sẽ tác động nhiều đến sự hiểu biết của thế giới bởi lẽ nó chinh phục được những cuộc tấn công của quân đội Mông cổ đã phá phách rất nhiều ở châu Á và thậm chí cả một số vùng của châu Âu.

Do tiếng tăm của mình, Ngài được các nhân vật quan trọng tầm cỡ trong xã hội cũng như các bậc lãnh đạo Giáo hội đưa tiễn Ngài lên đường. Cả một đoàn người đông đúc cùng tháp tùng với Ngài qua nhiều dặm đường cách Lhasa thật xa trước khi họ nghẹn ngào rơi lệ, bịn rịn, miễn cưỡng chia tay Ngài. Đoàn tùy tùng của Ngài đã lên đường với một tốc độ rất chậm, cuộc hành trình kéo dài đến hơn cả năm trời. Nguyên do chính là vì trên lộ trình có rất nhiều chùa chiền và các gia đình quý tộc thỉnh cầu Ngài dừng lại để ban phước lành và thuyết giảng giáo lý cho họ. Chuyện kể rằng, dọc đường, để chế ngự những dòng nước chảy xiết khiến đoàn tùy tùng của Ngài khó có thể vượt qua được, Ngài đã làm cho dòng thác phải đảo ngược dòng. Và từ một tảng đá rất lớn, Ngài đã rút ra một chiếc vỏ ốc xà cừ có trôn xoáy (vật biểu lộ như một điềm báo trước về một dấu hiệu rất hy hữu, may mắn và có triển vọng tốt đẹp). Do những hiện tượng ấy, tiếng tăm của Ngài đã trở nên lừng lẫyMông Cổ trước cả khi Ngài đặt chân đến đó, đồng thời điều đó cũng chứng tỏ rằng “Ngài và tôn giáo của Ngài có những năng lượng được coi là hết sức quan trọng”. Cuối cùng một đoàn người hùng hậu mang theo vô số quà tặng của Thái tử Altan Khan đã ra nghinh đón trước và cùng tháp tùng với phái đoàn của Ngài đi đến doanh trại của Altan Khan.

Trong cuộc nói chuyện đầu tiên của mình khi vừa đặt chân đến Mông Cổ và vùng biên giới Trung Quốc, Sonam Gyatso đã công bố những điều luật mới cho miền đất này, chẳng hạn như: phải tuân giữ các giới luật của đức Phật, cấm những sự hiến máu của tất cả các loài vật; không được buộc những người góa phụ phải hy sinh để thủ tiết; không được trả thù hay chống báng Tăng sĩ… Vị thần Mông Cổ Ongghon được thay thế bằng vị thần bảo hộ Trí tuệ Mahakala, một hiện thân của đức Quán Thế Âm. Người Mông Cổ cũng phải hạn chế những việc cướp phá và các cuộc tấn công xâm lấn Trung QuốcTây Tạng. Nói chung, người dân ở đây được khuyến khích nên kết hợp những lời dạy của đức Phật vào cách sống của họ. Sau đó, Altan Khan đã tuyên bố rằng những giới cấm ấy được xem như những điều luật của quốc gia, sự kiện này đã trở nên rất hữu ích cho nền hòa bình của nhân dân Trung QuốcTây Tạng.

Sau đó, Altan Khan trao tặng cho Sonam Gyatso tước hiệu “Tale” (Dalai), nghĩa là “biển”, “đại dương”, tương đương với ý nghĩa phần thứ hai tên Tây Tạng của Ngài là Gyatso. Nghĩa bóng của từ này hàm ý là “Biển Tuệ” hay “Trí tuệ như Đại dương”. Kết hợp thành từ “Dalai Lama” hay “bậc Đạo Sư (trí tuệ như) đại dương”; bậc “Đại Đạo Sư”. Danh hiệu này cũng được áp dụng cho những vị tiền thân của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III (nghĩa là vị thứ I và thứ II) và cho tất cả các tái sinh của Ngài tiếp theo sau này. Về phía mình, Sonam Gyatso cũng ban tặng danh hiệu “Đạo Vương Nghiêm Tịnh” cho Altan khan. Chuyện kể rằng, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III đã tiết lộ, Altan Khan chính là tái sinh của Kublai Khan và Ngài (Sonam Gyatso) chính là tái sinh của Phagpa, bậc Đại Đạo sư lỗi lạc của phái Sakya; do đó mối quan hệ trong tiền kiếp giữa bậc đại Đạo sư và nhà vua bảo trợ này đang được phục hồi lại.

Để củng cố các nghi thức Phật giáo, Sonam Gyatso đã kiến lập ngôi chùa Tekchen Chokhor, tiếp theo sau đó nhiều ngôi chùa khác được xây dựng. Ngài cũng sắp đặt cho Lama Yonten Gyatso (người có cùng tên với đức Đạt-lai Lạt-ma thứ IV sau này, do vậy độc giả không nên nhầm lẫn!) ở lại đó với tư cách là người đại diện của Ngài, vị này cũng đã tiếp tục trở thành một trong những bậc xuất chúng của Phật giáo Mông Cổ. Một thời gian sau đó, Yonten Gyatso rất được tín nhiệm vì đã có công cứu Altan Khan từ cõi chết được mạnh khỏe trở lại, do đó củng cố được niềm tin Phật pháp của người Mông Cổ. Altan Khan sắp xếp và cung thỉnh Sonam Gyatso đến viếng thăm cung điện Hoàng gia và mời Ngài tham dự một cuộc hẹn gặp gỡ để xúc tiến mối quan hệ song phương giữa Trung QuốcTây Tạng. Sonam Gyatso đã thực hiện điều đó; tuy nhiên, Ngài chỉ thuyết giảng ở miền Tây Trung Quốc, sau đó các quan chức chính quyền đã phiên dịch rộng rãi ra cho tất cả dân chúng.

Vài năm kế tiếp, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III tiếp tục du hành đến các tỉnh Amdo, Kham ở miền Đông Tây Tạng và đã xây dựng chùa chiền, truyền bá giáo pháp‎ ở đó. Đặc biệt, Ngài được sự trợ giúp nhiệt tình của vua xứ Litang, người mà trước kia đã từng bảo trợ cho phái Karmapa và kiến lập một ngôi chùa tại đó. Ngài cũng xây ngôi chùa Kumbum tại nơi ngài Tsongkhapa chào đời. Kumbum sau này phát triển thành trụ sở đầu tiên của phái Gelugpa ở miền Đông Tây Tạng. Những chuyến đi này đã làm nổi bật một cách đáng kể về thanh thế của đức Đạt-lai Lạt-ma trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp của phái Gelugpa trên những xứ sở này, nơi mà đã từng chịu ảnh hưởng rất lớn từ phái Nyingmapa và đạo Bon.

Vào năm 1585, nhận lời mời của Dhuring Khan - người nối ngôi của Altan Khan - Sonam Gyatso đã trở lại Mông Cổ. Trong thời gian ở đó, Ngài đã được yêu cầu làm người hòa giải mối bất hòa về biên giới giữa Mông CổTrung Quốc, có lẽ đây là lần đầu tiên vị Đạt-lai Lạt-ma đã hành xử toàn quyền về chính trị. Ngài cũng nhận được lời mời của Hoàng gia Trung Quốc nhưng Ngài đã từ chối và hứa là sẽ đến vào dịp sau. Năm 1588, Ngài trở về miền Đông Bắc Tây Tạng và ngã bệnh, cảm thấy sắp đến lúc ra đi, Ngài đã truyền những di huấn cho các đệ tử và nói rằng Ngài sẽ sớm trở lại trong một thân hình khác. Cũng giống như các tiền thân của mình, Ngài ngồi thiền nhập địnhdần dần thâu thần viên tịch. Tro cốt của Ngài được đưa về Lhasa và được bảo quản phụng thờ ở Drepung.

Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng ngay từ lúc bắt đầu sự nghiệp của mình. Kết hợp các truyền thồng của Nyingmapa và Gelugpa, Ngài duy trì sự thiền định và nhập thất như một tấm gương mẫu mực cho đệ tử của mình. Công việc của Ngài ở Mông Cổ và miền Đông Tây Tạng đã đẩy mạnh được phong trào Phật giáo nói chung và truyền thống Gelugpa nói riêng. Những hoạt động này liên quan đến nền hòa bình của Tây TạngTrung Quốc nên Trung Quốc đã sớm có mối liên hệ với Tây Tạng. Tuy nhiên, di sản lớn nhất của Ngài là đã hóa độ được người Mông Cổ đến với Phật giáo. Kể từ đó, Mông Cổ vẫn luôn duy trì là một quốc gia rất tận tụy đối với vấn đề tâm linh cho đến tận bây giờ.

Phỏng dịch theo phần: “A History of Dalai Lamas within the Context of Their Times” của tác giả Ardy Verhaegen.

Nguồn: Tập San Pháp Luân 23


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8027)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35565)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19703)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11713)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23200)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13361)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5850)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10627)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10364)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10066)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20873)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6209)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6860)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8901)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6025)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18163)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6357)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6737)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6558)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13024)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5876)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7896)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10210)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7879)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9878)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9088)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5990)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24558)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36416)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7737)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11555)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10050)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5232)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5426)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10011)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7890)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9376)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8668)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46538)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6910)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12326)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5802)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14517)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13004)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12446)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14578)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12447)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10959)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9645)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16717)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8487)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5976)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9961)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6380)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11358)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7050)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46724)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13514)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8401)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6862)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9181)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6187)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6911)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17861)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18185)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15809)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6963)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31259)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9586)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7699)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21633)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34182)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33331)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14243)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35676)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13013)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15784)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13694)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33057)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26392)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41425)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40365)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20062)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33721)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29686)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33735)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18884)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22728)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22454)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49017)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11975)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11169)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22524)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18010)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15121)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22698)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16007)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13121)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19727)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12070)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant