Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hãy Để Cho Các Pháp Tự Vận Hành!

17 Tháng Ba 201607:06(Xem: 10075)
Hãy Để Cho Các Pháp Tự Vận Hành!

HÃY ĐỂ CHO CÁC PHÁP TỰ VẬN HÀNH!

Tô Đăng Khoa

Hãy Để Cho Các Pháp Tự Vận Hành!

 

Vô Thường! Vô Thường!” Đây là đặc tính vi diệu, khó thấy thứ nhất của sự hiện hữu do Đức Thế Tôn ấn chứng.

Điều này có nghĩa là:  Tất cả Pháp (không có một ngoại lệ) chỉ là phù du trong thoáng chốc! Chúng được sinh ra chỉ để  bị diệt đi. Sự xuất hiện của chúng ví như chiếc cầu vòng xuất hiện trong hư không, mà bản chất chỉ là một hiện tượng quang học, không có thực chất tính.

“Vô Thường” 
Điều này đích thực như vậy.
Quá khứ, hiện tại, vị lai đều như vậy.
Bất cứ nơi nào, hay ở cảnh giới nào cũng đều như vậy.
Phật ra đời hay không ra đời cũng như vậy.
Chúng tanhận ra hay không nhận ra cũng như vậy.
Các Pháp trước sau rốt ráo như vậy.
Hãy đến để mà thấy đúng như thật như vậy:

 “Vô Thường”

Nhưng mà:  Chúng ta thường không chịu thấy đúng như thật như vậy đặc tính vi diệu này của Pháp!

Thói quen bám víu của chúng ta khiến chúng ta thấy các Pháp là Thường.

Đây là một trong 62 tà kiến: “Trong khi các Pháp vốn vô thườngchúng ta thấy là thường”

Vì thấy chúng là Thường, ta đón nhận chúng, hoan hỷ với chúng, hy vọngmong ước chúng ở lại với chúng ta mãi mãi. Khi chúng thay đổi và niềm hy vọng bị tan nát, chúng ta đau khổ buồn rầu.

Cho nên:

Khổ! Khổ!”.  Đây là đặc tính vi diệu khó thấy thứ nhì của sự hiện hữu do Đức Thế Tôn ấn chứng

Để có thể tự giải thoát khỏi thực tế khổ này, chúng ta phải tu tập, rèn luyện cách nhìn mới sao cho phù hợp với nhịp điệu của vận hành của các Pháp trong tự nhiên.

Quy luật đó là:  "Phàm bất cứ cái gì được sanh ra, cái đó sẽ đoạn diệt".

Ví như, trong trọng trường của quả địa cầu thì: “Phàm cái gì được ném lên, cái đó sẽ rơi xuống”; cũng tương tự như thế trong Pháp Giới Duyên Khởi thì:  “Phàm Pháp gì được sanh ra, cái đó sẽ đoạn diệt.

Các pháp tự nó sanh ra, hãy để cho tự đoạn diệt. Đừng bám víu chúng.  Đừng dựng lập khái niệm gì để nhốt hay đóng khung chúng.  Xin hãy từ bi để cho các pháp tự vận hành!

Chính vì chúng ta hay bám víu muốn giữ nó lại thành “cái của Ta, cái thuộc về Ta”, cho nên chúng ta đau khổ.

Vì thế ta phải tự mình quyết tâm thực hành cho kỳ được điều này, tức là:

“Hãy để  cho các pháp tự vận hành!”

Hãy là người quan sát một cách độc lập quy luật vững chắc, tất yếu tự nhiên này của lý duyên khởi:

"Phàm bất cứ cái gì được sanh ra, cái đó sẽ đoạn diệt".

Ví như,  chiếc cầu vòng xuất hiện giữa hư không rồi sẽ đoạn diệt trong hư không, các pháp (khi đủ duyên) hiện ra rồi (khi hết duyên) đoạn diệt theo đúng Pháp Tánh của chính nó.

Sự nhận thức này cho ta bừng vỡ ra rằng các Pháp rốt ráo chỉ là “chiếc cầu vòng trên hư không”. Sự xuất hiện của cầu vòng chính là một minh họa, phơi bày “nguyên lý quang học” do chính năng lực vô lượng quang của mặt trời đang thi triển.  Cũng thế, sự xuất hiện của các Pháp chính là sự phơi bày, bộc lộ năng lực biết luôn sáng chói của Tâm theo nguyên lý Duyên Khởi.  Nói cách khác:  Sự xuất hiện của các Pháp là sản phẩm duyên khởi của “đám mây đen vô minh”, của những “bám víu ái dục”, và “nguyên lý quang học” phản chiếu, biến hiện vô cùng vô tận của Tâm.  Sự thấu hiểu này đưa đến nhận thức được sự thật rằng:

  1. Khái niệm "Ta" chẳng qua chỉ là một góc nhìn  được phóng đại bởi đám mây đen Vô Minh.
  2. Sự  “hiện diện của các Pháp”  chỉ là những ảo ảnh do cái “Ta” đó phóng rọi ra.

Hãy để cho các Pháp tự vận hànhchiêm nghiệm lại (trong tĩnh lặng) sự vận hành của chúng theo đúng như lời dạy thâm sâu sau đây của Đức Thế Tôn.  Hãy nghe và khéo tác ý cho thật sâu:

1.       Tất cả pháp lấy dục làm căn bản.
2.       Tất cả pháp lấy tác ý làm sanh khởi.
3.       Tất cả pháp lấy xúc làm tập khởi.
4.       Tất cả pháp lấy thọ làm chỗ quy tụ.
5.       Tất cả pháp lấy định làm thượng thủ.
6.       Tất cả pháp lấy niệm làm tăng thượng.
7.       Tất cả pháp lấy tuệ làm tối thượng.
8.       Tất cả pháp lấy giải thoát làm lõi cây.
9.       Tất cả pháp lấy bất tử làm chỗ thể nhập.
10.   Tất cả pháp lấy Niết-bàn làm cứu cánh.
(Kinh “Lấy Căn Bản Nơi Thế Tôn” Tăng Chi Bộ Kinh, Phẩm 10 Pháp. AN 10.58 )

Hãy quan sát một cách độc lập, không bám víu, không hệ lụy.
Hãy để cho các Pháp tự vận hành theo quy luật của chính nó.
Hãy giữ Tâm thật bình thản trước sự thay đổi vô thường của các Pháp.
Xin đừng bám víu vào bất cứ điều gì.
Hãy “Như Lý Tác Ý” sự vận hành của tất cả Pháp cho đến khi nào xảy ra  một sự bùng vỡ nữa:

“Vô Ngã! Vô Ngã!”  Đây là đặc tính vi diệu khó thấy thứ ba của sự hiện hữu do Đức Thế Tôn ấn chứng

Ở đây, và bây giờ không còn việc gì đáng làm hơn thế nữa.

Vào lúc đó:

Tất cả pháp được giải thoát khỏi Vô Minh
Tất cả pháp thể nhập vào bất tử
Tất cả pháp cứu cánh Niết-bàn.

Con xin đê đầu đảnh lể Đức Từ Phụ đã chỉ con đường vượt khổ, chấm dứt vô minh, chứng ngộ bất tử, cứu cánh Niết Bàn.

Nguyện cho tất cả pháp (chúng sanh cũng là pháp) đều cứu cánh Niết Bàn.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 918)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1238)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 707)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 678)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 750)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 763)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 744)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 727)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 884)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 770)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 926)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 930)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 854)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 865)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 806)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 952)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 884)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 830)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 916)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 839)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 789)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 891)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 819)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1076)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 853)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 940)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1085)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1560)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1096)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1165)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1042)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 912)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 860)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 889)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 745)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1421)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1295)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1258)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1201)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1326)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1254)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1401)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1280)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1139)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1199)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1248)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1232)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1356)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1252)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant