Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhân Quả Qua Một Câu Chuyện

10 Tháng Mười 201607:43(Xem: 7565)
Nhân Quả Qua Một Câu Chuyện

NHÂN QUẢ QUA MỘT CÂU CHUYỆN 

Chân Hiền Tâm

Nhân quả qua một câu chuyện

Nhân quả là thực lý chi phối thế giới này.

Nghĩa là …

Mọi thứ đều có nhân duyên, không có thứ gì tự nhiênxuất hiện, dù là ở mặt vật chất hay tinh thần.

. Nếu mình có những ý nghĩ thiện và tạo được các hành vi thiện thì mình sẽ có được những cảnh giới tốt đẹp trong đời sống của mình.

. Nếu mình có những ý tưởng xấu và chẳng may mình thực hiện được những ý tưởng đó thì quả báo khổ nạn không sao kể xiết.

Xin nghe câu chuyệnHòa thượng Thiện Siêu đã kể:

Một hôm nọ, vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) và hoàng hậu Mạt-lợi (Mallika) đến tịnh xá Kỳ Viên nghe Phật thuyết pháp. Vua cưỡi ngựa, còn hoàng hậu ngồi trên kiệu do 4 người Phiến-đề-la khiêng vác. Đến nơi, trong lúc vua và hoàng hậu vào nghe thuyết pháp thì 4 tên khiêng kiệu nằm chờ ở cổng tịnh xá. Trong lúc bọn chúng ngủ mê, một kẻ gian lén trộm lấy ngọc mani trên kiệu báu của hoàng hậu. Khi ấy cận vệ của hoàng hậu ra ngoài xem chừng, thấy mất ngọc Mani liền nghi 4 tên này ăn trộm, nên nổi giận lấy roi đánh tụi nó. Bị đánh đau quá, một tên bỏ chạy vào tịnh xá kêu oan làm mọi người chú ý.

Phật báo ngài A Nan:

- Người hãy ra bảo cận vệ đừng đánh oan người vô tội. Vì 4 người ấy chính là thầy đời trước của hoàng hậu.

Hoàng hậu nghe Phật nói như vậy, liền đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật:

- Bạch đức Thế Tôn ! Như lời Thế Tôn nói thì 4 người khiêng kiệu cho con chính là thầy đời trước của con. Con thật mê muội không rõ, cúi xin Thế Tôn từ bi nói rõ nhân duyên cho chúng con được biết.

Phật nói như sau:

- Trong một kiếp quá khứ, gặp lúc hạn hán, thiên tai, dân chúng đói khát, khi ấy có 5 vị Tỳ-kheo lười biếng không học giáo lý, kinh luận, không tu hành nghiêm túc nên không ai cúng dường, bị đói khát khốn khổ. 5 người bày mưu với nhau: Mỗi người đi xin, sắm được tọa cụ, tìm chỗ đồng trống quét dọn sạch sẽ, rồi làm bộ ngồi thiền nhập định để người đời trông thấy tưởng là thánh nhân, sẽ đem đồ ăn đến cúng dường. Quả nhiên đúng như vậy! Dân chúng từ từ đồn nhau tới cúng dường bậc thánh nhân.

Khi ấy có một nữ cư sĩ thuần thành tên là Đề Vi nghe tin đồn, liền sai người đi dò hư thực. Người đi dò tin về thưa rằng: “Có 5 vị thánh nhân ngồi tu trong núi, người ta đua nhau xúm lại hầu hạ cúng dường”.

Đề Vi nghe xong, trong lòng rất hoan hỷ, sai người sắm sửa hương hoa, kỹ nhạc, trăm món thức ăn đi đến chỗ 5 thầy Tỳ-kheo để cúng dường.

Đến nơi làm lễ, thiết đãi cúng dường 5 thầy Tỳ-kheo xong. Đề Vi và quyến thuộc cung kính chắp tay thưa với 5 thầy Tỳ-kheo rằng:

- Quý ngài là bậc chân tu, đức dày, phước lớn. Đệ tử muốn thỉnh quý ngài quang lâm đến bần xá, để trọn đời cúng dường hầu hạ. Nhà đệ tử có vườn cây thanh tịnh, suối ao trong mát, cúi xin quý ngài từ bi thương xót hứa khả.

Thấy bà Đề Vi và quyến thuộc thành khẩn cầu thỉnh đôi ba lần, 5 vị Tỳ-kheo nhận lời.

Đế Vi hoan hỷ từ tạ trở về, sai người chuẩn bị xe báu, đến rước 5 thầy Tỳ-kheo về nhà cúng dường. Nhà bà có vườn cây vuông vức mười mẫu, trong đó có suối trong, ao mát, nhiều hoa thơm quả lạ. Bà cho xây dựng phòng ốc bằng bảy báy, sắm đủ giường nệm và tọa cụ tốt đẹp, rồi mời 5 thầy Tỳ-kheo về ở và trọn đời cung cấp phụng sự đầy đủ.

Khi ấy, 5 thầy Tỳ-kheo được chủ nhân cúng dường hậu hỷ, khởi nghĩ rằng: “Có gì sung sướng cho bằng. Người ta sinh ra ở đời phải tìm mọi cách kiếm sống qua ngày, dù được như ý nhưng cũng không thể bằng bọn ta, chẳng nhọc thân mà lại được hưởng phước lợi, đây há chẳng phải nhờ sức trí tuệ hay sao?”

5 thầy Tỳ-kheo tuy được bà Đề Vi hết lòng trọng đãi, cúng dường đầy đủ các thứ cần dùng, nhưng lòng tham chưa thỏa, muốn kiếm thêm tiền của để sau này thọ hưởng riêng thú vui ngũ dục. Họ bàn với nhau rồi sai một người đi dạo trong làng xóm, rao nói mọi người :”4 thầy tỳ kheo kia, ở yên một chỗ vắng lặng, giữ gìn giới cấm, dứt hẵn rượu thịt, tu thiền chỉ quán, chứng nghiệp vô lậu. Chẳng bao lâu sẽ chứng quả A-la-hán, thật là bậc vô thượng phước điền trong thiên hạ”.

Nhiều người nghe thấy, đua nhau mang đến đủ thứ tiền tài ẩm thực, cung kính cúng dường… như thế nhiều năm. Còn bà Đề Vi vẫn một lòng tin kính, tiếp tục cúng dường, không chán. Sau khi chết, bà được tái sinh lên cõi trời Hóa Lạc.

Còn năm vị Tỳ-kheo kia, chuyên làm việc lừa đảo, lợi dụng lòng tốt của kẻ khác, nên sau khi mạng chung, sinh vào địa ngục tám nghìn ức kiếp chịu quả báo rất khổ. Sau khi hết tội địa ngục, phải chịu thân ngạ quỷ trải qua tám nghìn kiếp. Sau khi hết nghiệp ngạ quỷ, phải làm thân súc sinh để đền trả sự cúng dường đời trước cho chủ nhân.

Phật bảo vua Ba-tư-nặc:

- Bà Đề Vi thuở đó chính là hoàng hậu hiện nay, còn 5 thầy Tỳ-kheo, bây giờ là 5 người khiêng kiệu cho hoàng hậu.

Vua bạch Phật rằng:

- Theo như lời đức Thế Tôn nói thì có 5 người nhưng sao chỉ thấy có 4 người khiêng kiệu, còn một người nữa ở chỗ nào?

Phật bảo vua:

- Người thứ năm là người thưởng ở trong cung quét dọn cầu xí và đổ phân.

Hoàng hậu nghe xong rùng mình rởn ốc, ôm lòng kính sợ, bạch với Phật rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Nay con biết được họ là thầy con đời trước, lòng con rất lo sợ phạm tội. Bởi vì đối với bậc thầy của mình thì phải cung kính lễ bái mới phải. Mà nay trở lại sai khiêng kiệu không khác gì trâu ngựa. Vì nhân duyên đó nên con rất lo sợ, cúi xin Phật thương xót dạy con sám hối.

Phật bảo hoàng hậu:

- Hoàng hậu không có tội lỗi gì nên chớ kinh sợ. Chúng sinh nhiều căn tánh, hạnh nghiệp không giống nhau, làm lành thì hưởng phước, làm ác thì thọ tai ương. Hoàng hậu đời trước tâm thanh tịnh, ưa cúng dường các bậc tu hành, nhờ phước đức đó nên sinh ra mỗi kiếp thường gặp minh sư. Cho đến ngày nay, hưởng phước gặp Phật ra đời, được nghe Chánh pháp, tín thọ phụng hành, nên không có tội lỗi chi.

Sau khi nghe Phật khai thị, hoàn hậu muốn tha cho bốn tên Phiến-đề-la, không dám sai khiến nữa và cầu xin Phật thuyết pháp cho chúng hiểu đạo, bỏ ác tu thiện để mau thoát khổ.

Phật bảo hoàng hậu:

- Nay nếu muốn Ta khai hóa thì phải gọi người đổ phân trong cung lại đây luôn.

Hoàng hậu liền sai sứ đi gọi người thứ năm đến. Sứ giả vâng lệnh đi gọi, trong giây phút cả 5 người Phiến-đề-la nhóm lại đứng trước Phật.

Đức Thế Tôn từ bi hỏi thăm:

- Các ngươi thân thể có được mạnh khỏe, an ổn, vui sướng chăng?

Năm người nổi giận nói rằng:

- Chúng tôi ngày đêm cực khổ, bị đánh đập sai sử không được nghỉ ngơi, có vui sướng gì đâu, Phật há không biết hay sao mà lại hỏi các ngươi có an ổn, vui sướng chăng?

Phật bảo 5 người rằng:

- Sự khổ của các ngươi ngày nay đều do đời trước gian dối nịnh hót, đem tâm bất thiện, lường gạt người khác, để thọ hưởng cúng dường. Nghiệp tội đó đền trả đến nay còn chưa hết. Nếu muốn thoát khỏi quả báo ác thì phải hết lòng sám hối, cải dữ tu hành.

Bọn Phiến Đề La nghe Phật nói, đùng đùng nổi giận quay lưng đi, không muốn nghe nữa. Phật bèn dùng thần lực hiện ra một hóa Phật đứng trước mặt bọn chúng, dùng phương tiện khuyên bảo sám hối. Nhưng bọn chúng tức mình quay mặt về hướng Đông. Cũng thấy hóa Phậttrước mặt. Quay về hướng Tây, cũng có hóa Phật. Quay hướng nào cũng đều có Phật đứng trước mặt. Bọn chúng bí quá la lên:

- Chúng tôi là người tệ ác. Phật không thương xót mà còn bao vây, áp đảo thêm nữa!

Khi ấy, Thế Tôn liền thâu nhiếp hóa Phật lại thành một Phật và bảo đại chúng:

- Các ngươi phải biết chúng sinh tội nghiệp có hai món chướng. Một là nghiệp chướng, hai là phiến não chướng. Người tội nhẹ thì có phiền não chướng, người tội nặng thì có nghiệp chướng. Bọn Phiến Đề La đây có đủ hai chướng. Ví tội chướng quá nặng nên không thể nghe được lời giáo hóa của Phật.

Hoàng hậu thấy Bọn Phiến Đề La không chịu nghe lời Phật giáo hóa, buồn cảm thương tâm nói với năm người rằng:

- Ta nay đã rõ nhân duyên đời trước nên tha cho các ngươi, muốn đi đâu tùy ý.

Bọn chúng quỳ gối khóc lóc thưa với Hoàng hậu:

- Muôn tâu lệnh bà, chúng tội phụng sự hầu hạ không biết có lỗi gì mà lệnh bà lại đuổi chúng tôi? Nếu có gì không vừa ý, cúi xin lệnh bà rộng lòng tha thứ, cho chúng tôi hầu hạ như trước.

Hoàng hậu khiêm nhường từ chối đôi ba lần, nhưng bọn Phiến-đề-la nhất định ở lại, không chịu đi đâu hết. Túng thế Hoàng hậu cầu cứu đến Phật:

- Thưa Thế Tôn! Con thiệt tình dung thứ cho bọn Phiến-đề-la mà chúng nhất định không chịu đi, nhất định ở lại trả nợ, vậy phải làm sao đây?

Phật bảo hoàng hậu:

- Bọn chúng trả nợ đời trước chưa hết, nhân duyên bó buộc nên không đi được. Hoàng hậu chẳng cần làm sao, cứ để chúng phụng sự như trước, đến khi nào trả hết nợ tự động chúng sẽ ra đi.

Mới thấy…

. Nếu tâm địa mình lương thiện, mình có tâm tôn trọng Phật – Pháp – Tăng thì dù mình có cúng dường nhầm người, quả báo mình nhận được vẫn tốt. Ở đây, cần phân định cho rõ: Phu nhân bị 5 người kia dùng bề ngoài lường gạt, thành Phu nhân cúng dườngcúng dường cho bậc chân tăng. Không phải thấy 5 người kia bê tha, đội lốt tăng chúng mà vì tư tình, vì được thỏa mãn cái tôi mà vẫn cúng dường. Phu nhân chỉ vì lòng tôn trọng Phật – Pháp - Tăng mà cung dưỡng. Do tâm đó mà quả báo Phu nhân nhận được vẫn tốt đẹp. Với tâm lượng sau thì quả báo không như vậy. Cho nên, trong kinh Niết-bàn Phật nói “Nến cúng dường cho người đáng cúng dường. Không cúng dường cho người không đáng cúng dường”.

. Nhân gây rồi nếu không chuyển tâm tu hành thì sẽ trả quả cho hết mới thôi. Có tha cũng không chịu buông.

. Dùng áo Như Lai để gạt gẫm chúng sinh mưu lợi, quả báo đọa địa ngục vô lượng kiếp, làm thân ngã quỉ vô lượng kiếp, rồi sau mới làm trâu làm ngựa trả cái quả ấy.

. Tâm sân hận khiến chúng sinh không thấy được lẻ phải, không nhận được điều tốt đẹp trước mắt. Dù Phật có hiện ra trước mắt cũng không thể thấy. Tâm sân hận đáng sợ như vậy. Cần cẩn thận với tâm sân hận của chính mình.  

. Nghiệp của chúng sinh, nếu không tự chuyển tâm cứu mình thì dù có năng lực tu hành như Phật cũng chẳng thể cứu. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 781)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1101)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1341)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 791)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 763)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 808)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 802)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 948)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 835)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 929)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1015)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 956)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 885)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1144)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 915)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1017)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1156)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1617)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1165)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 978)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 920)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 806)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1380)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant