Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bồ Đề Tâm Đồng Với Công Đức Của Tất Cả Phật Pháp

26 Tháng Hai 202215:26(Xem: 2562)
Bồ Đề Tâm Đồng Với Công Đức Của Tất Cả Phật Pháp

Bồ Đề Tâm Đồng Với Công Đức Của Tất Cả Phật Pháp

Nguyễn Thế Đăng

 
Bồ Đề Tâm Đồng Với Công Đức Của Tất Cả Phật Pháp

Bồ đề tâm là phát nguyện và thực hành Bồ tát hạnh để đạt đến giác ngộ trong mong muốn giáo hóa và giải thoát chúng sanh khỏi khổ đau của sanh tử. Như thế Bồ đề tâm gồm hai yếu tố chủ đạo: trí huệ đạt đến giác ngộ và đại bi cứu độ chúng sanh.

Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu về Bồ đề tâm trong phần Đức Di Lặc giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm sau khi đồng tử đã trải qua một trăm mười vị thiện tri thức, chỉ còn gặp Bồ tát Phổ Hiền là vị cuối cùng. Đoạn này ở phẩm Nhập Pháp GiớiKinh Hoa Nghiêm. Đây là sự giảng dạy của Đức Di Lặc và sau đó cho Thiện Tài vào trong lầu gác của ngài để chứng nghiệm cảnh giới sự sự vô ngại, trước khi gặp Bồ tát Phổ Hiền, vị cuối cùng trên con đường nhập pháp giới thành Phật của đồng tử Thiện Tài.

1/ Bồ đề tâm là sự hợp nhất của trí huệ và đại bi

Mở đầu Đức Di Lặc giới thiệu đồng tử Thiện Tài, đầy đủ đại trí huệđại từ bi và đại hạnh:

Đồng tử này xu hướng Đại thừa, đi trong đại huệ, phát đại dũng mãnh, mặc giáp đại bi, dùng tâm đại từ cứu hộ chúng sanh. Khởi đại hạnh tinh tấn ba la mật, làm đại thương chủ hộ trợ các chúng sanh, làm thuyền pháp lớn vượt qua biển các cõi Hữu, trụ nơi đại đạo, tích tập pháp bảo lớn, tu các pháp trợ đạo rộng lớn. Những người như thế rất khó được nghe, rất khó được thấy, rất khó được gần gũi, cùng ở cùng đi.

Tại sao thế? Vì đồng tử này phát tâm cứu hộ tất cả chúng sanh, làm cho tất cả chúng sanh thoát khổ, vượt khỏi các đường xấu ác, lìa hiểm nạn, phá vô minh che tối, ra khỏi sanh tử, dứt luân lạc trong các loài, vượt cảnh giới ma, chẳng nhiễm pháp phiền não thế gian…” (phẩm Nhập Pháp giớiKinh Hoa Nghiêm).

Bồ đề tâm là ánh sáng trí huệ soi rõ tánh Không, tức là tánh của tất cả các pháp, và đại bi đi cùng, tức là hoạt động cứu độ chúng sanh đang bị cuốn trôi trong dòng sanh tửTrí huệ và đại bi là hai động lực đi cùng nhau làm năng lượng cho con đường Bồ tát.

 

Sau đó Bồ tát Di Lặc nói lý do và công đức của việc phát tâm Bồ đề, tức là tâm Giác ngộ vô thượng:

Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Ngươi vì lợi ích tất cả thế gian, vì cứu hộ tất cả chúng sanh, vì siêng cầu tất cả Phật pháp, nên phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Thiện nam tử! Ngươi được lợi lành, khéo được thân người, khéo trụ thọ mạng, khéo gặp Như Lai xuất hiện, khéo thấy Văn Thù Sư Lợi đại thiện tri thức. Thân ngươi là thiện pháp khí được những thiện căn thấm nhuần, được pháp trong trắng giữ gìn, mọi mong muốn hiểu biết đều được thanh tịnh, đã được chư Phật đồng hộ niệm, đã được thiện hữu đồng nhiếp thọ.

Tại sao thế? Vì Bồ đề tâm như hạt giống, có thể sanh tất cả Phật pháp”.

Đoạn Kinh này dùng nhiều chữ “thiện”, tốt lành, khéo. Vì sao thế? Vì với Bồ tát thực hành Bồ đề tâm thì có đầy đủ nhân duyên, cơ hội tốt lành: có “tất cả thế gian”, có “tất cả chúng sanh”, có “tất cả Phật pháp”, có “khéo được thân người, thọ mạng”. Trên thì có “chư Phật đồng hộ niệm”, sống và làm việc thì được “pháp trong trắng giữ gìn, các thiện hữu tri thức đồng nhiếp thọ”.

Tóm lại, nói theo ngôn ngữ bây giờ, “nếu một người phát tâm thì được tất cả vũ trụ giúp đỡ”. Chính Bồ đề tâm hạnh hay Bồ tát hạnh khiến cho Bồ tát “tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh, nhập Pháp giới”:

Bồ tát Di Lặc nói về Thiện Tài:

“Đồng tử này trong một đời có thể thanh tịnh Phật độ, có thể giáo hóa chúng sanh, có thể dùng trí huệ thâm nhập pháp, có thể thanh tịnh các Bồ tát đạo, có thể đầy đủ những hạnh Phổ Hiền”.

 

Bồ đề tâm hạnh hay Bồ tát hạnh là sự đồng thời của trí huệ và đại bi, sự đồng thời của lợi mình, lợi người, tự giác và giác cho người khác. Thí dụBố thí ba la mật là một hạnh Bồ tát. Khi bố thí mà không trụ vào các tướng, không trụ vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì đây là trí huệ ba la mật (theo Kinh Kim Cương) và bản thân sự bố thí là một hành động từ bi. Thế nên Bồ tát hạnh là sự hợp nhất của trí huệ và đại bi, sự hợp nhất của lợi mình lợi người, sự hợp nhất của tự giải thoát cho mình đồng thời với sự giải thoát cho người khác.

 

2/ Những ích lợi thực dụng của Bồ đề tâm

Ở đây chúng ta chỉ tóm gọn ý chính của gần 120 câu kinh nói về ích lợicông hiệu thực dụng của Bồ đề tâm.

Vì sao thế?

Bồ đề tâm như hạt giống, vì có thể sanh tất cả Phật phápBồ đề tâm như ruộng tốt vì có thể sanh trưởng pháp trắng sạch cho tất cả chúng sanhBồ đề tâm như đại địa, vì có thể giữ gìn tất cả thế gian…

Bồ đề tâm được ví như hạt giống, có thể sanh trưởng, phát triển tất cả thiện căn của Phật pháp. Hơn nữa, Bồ đề tâm còn như môi trường cho các thiện căn phát triển và giữ gìn các thiện căn ấy (như ruộng tốt, như đại địa).

Như thế Bồ đề tâm là tâm chúng sanh hiện giờ của chúng ta, chỉ cần phát Bồ đề tâm nguyện và Bồ đề tâm hạnh được phần nào thì phần ấy dần dần chuyển hóa thành Bồ đề tâm.

Bồ đề tâm như mặt trời trong sáng, vì chiếu khắp cả thế gianBồ đề tâm như mặt trăng sáng, vì những pháp trắng sạch đều viên mãnBồ đề tâm như đèn sáng, vì có thể phóng ra quang minh của những pháp. Bồ đề tâm như mắt sáng, vì thấy khắp tất cả các chỗ an, nguy…

Bồ đề tâm là ánh sáng chiếu cho thấy cái đúng cái sai, chỗ an chỗ nguy. Nếu không có ánh sáng ấy con đường đời chúng ta dễ dàng lạc lối, rơi vào hư hỏng và uổng phí. Bồ đề tâm soi sáng cho chúng ta thấy những ý nghĩa và giá trị của đời sống.

 

Bồ đề tâm như cỗ xe lớn, vì có thể chuyên chở khắp các Bồ tátBồ đề tâm như cửa nẻo, vì khai thị tất cả hạnh Bồ tátBồ đề tâm như khu vườn, vì ở trong đó dạo chơi hưởng pháp lạcBồ đề tâm như nhà cửa, vì an ổn tất cả chúng sanhBồ đề tâm là chỗ về, vì lợi ích tất cả thế gianBồ đề tâm là chỗ dựa, vì là chỗ dựa nương của Bồ tát hạnhBồ đề tâm như từ phụ, vì dạy dỗ tất cả Bồ tátBồ đề tâm như từ mẫu, vì sanh trưởng tất cả Bồ tátBồ đề tâm chính là chỗ trụ, vì tất cả Bồ tát đều trụ nơi ấy…

Một vị Bồ tát thì không thể lìa bỏ Bồ đề tâm, vì nó là nhà cửa, chỗ nương dựa, cỗ xe chuyên chở của Bồ tát. Không thể lìa, vì nó là cha mẹ nuôi dưỡng và giáo dục cho mình. Bồ đề tâm còn là khu vườn để dạo chơi và hưởng thụ lạc thú của pháp, khiến cho trần gian dần dần biến thành quang cảnh vui thú, “tam muội tự thọ dụng”.

Bồ đề tâm như thuốc hay, vì trị được tất cả bệnh phiền nãoBồ đề tâm như hố sâu, vì có thể làm sụp đổ tất cả các pháp xấu ác… Bồ đề tâm như chiên đàn trắng, vì trừ dục nóng bức làm cho mát mẻBồ đề tâm như kiếp hỏa đốt cháy, vì thiêu sạch tất cả các thứ hữu viBồ đề tâm như ngọc rồng, vì tiêu được tất cả độc phiền nãoBồ đề tâm như ngọc làm trong sạch nước, vì có thể lắng trong tất cả mọi dơ đục phiền não…

Bồ đề tâm là thuốc chữa lành tất cả mọi khổ đau phiền não, làm cháy tiêu mọi tướng hữu vi, có thể tịnh hóa mọi thứ độc, mọi dơ đục trong tâm để tâm trở lại bản tánh thanh tịnh của chính nó.

Bồ đề tâm như trầm hương đen, vì có thể xông khắp pháp giới. Bồ tâm như thuốc Vô Sanh Căn, vì trưởng dưỡng tất cả Phật phápBồ đề tâm như kho tàng, vì xuất sanh công đức tài bảo không hề thiếu thốnBồ đề tâm như suối trào, vì sanh nước trí huệ không cùng tậnBồ đề tâm như gương sáng rộng khắp, vì hiện khắp tất cả hình tượng pháp mônBồ đề tâm như đại dương, tất cả công đức trọn nhập vào đó”.

Bồ đề tâm trùm khắp pháp giới, không hề thiếu thốn, không cùng tận, rộng khắp và hiện khắp, rộng lớn như đại dươngBồ đề tâm chính là pháp giới, nhập vào Bồ đề tâm chính là Nhập Pháp Giới.

Chúng ta chỉ tư duy một ít về “Bồ đề tâm như thuốc Vô Sanh Căn” Vô Sanh Căn là Gốc Vô Sanh. Gốc vô sanh là gốc tánh Không. Chính tánh Không vô sanh này “trưởng dưỡng tất cả Phật pháp”, nghĩa là tánh Không gồm chứa tất cả Phật pháp, tất cả công đức. Như thế, Bồ đề tâm là trí huệ tánh Không và gồm chứa tất cả công đức. Tích tập trí huệ và tích tập công đức đều đầy đủ trong Bồ đề tâm.

Bồ đề tâm như lưỡi cày bén, vì có thể dọn sạch tất cả ruộng chúng sanhBồ đề tâm như thần kim cương, vì có thể dẹp tất cả kẻ địch ngã kiếnBồ đề tâm như thương nhọn vì có thể xuyên thủng tất cả giáp phiền nãoBồ đề tâm như dao bén, vì có thể chặt được tất cả đầu phiền nãoBồ đề tâm như gươm bén vì có thể chém đứt tất cả áo giáp kiêu mạnBồ đề tâm như cưa bén, vì có thể cưa đứt tất cả cây vô minh…

Bồ đề tâm là những vũ khí tốt nhất để phá tan tất cả vô minhphiền nãochấp ngã và chấp pháp che chướng thực tại pháp giới khiến cho Bồ tát thấy và sống được trong pháp giới vốn xưa nay thanh tịnh.

Bồ đề tâm như áo lông ngỗng, vì chẳng dính tất cả bụi dơ sanh tửBồ đề tâm như sợi bạch diệp vì bản tánh xưa nay thanh tịnhBồ đề tâm như lưu ly thanh tịnh, vì tự tánh sáng sạch không có các dơ bẩnBồ đề tâm như mặt trời sáng sạch, chiếu soi tất cả thế gianBồ đề tâm như núi Tu Di, vì bình đẳng nơi tâm tất cả chúng sanhBồ đề tâm như núi Thiết Vi, vì nhiếp giữ tất cả thế gianBồ đề tâm giống như hư không, vì có những công đức kỳ diệu rộng lớn vô biênBồ đề tâm như cam lồ vì làm cho an trụ cảnh giới bất tử”.

Bản tánh Bồ đề tâm vốn thanh tịnh xưa nay, đó là Bồ đề tâm tuyệt đối hay Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na. Còn Bồ đề tâm mà Bồ tát phát nguyện và thực hành, vì còn giới hạn trong không gian thời gian tương đối nên được gọi là Bồ đề tâm tương đối. Chính nơi Bồ đề tâm tương đối này Bồ tát thâm nhập từng phần vào Bồ đề tâm tuyệt đối, do đó mà có các Địa của Bồ tát.

Sự thực hành Bồ tát hạnh là làm cho Bồ đề tâm tương đối trùng hợp từng phần với Bồ đề tâm tuyệt đốiTrùng hợp được phần nào thì chứng ngộ được Pháp giới vốn thanh tịnh được chừng đó. Như thế con đường Bồ tát là chuyển hóa thế giới này thành Pháp giới thanh tịnh của chư Phật, chuyển hóa thế giới thành “vườn tược vui chơi hưởng thụ pháp lạc”, thành “ngọc như ý, cây như ý”, thành “như Trời Công Đức vì được trang nghiêm bằng tất cả công đức”.

Bồ đề tâm như mạng căn, vì giữ cho Bồ tát trụ thân đại biBồ đề tâm như tấm lưới lớn, nhiếp khắp tất cả không sót chúng sanh nào. Bồ đề tâm giống như mồi câu, kéo lên các loài ở đáy vực sâu. Bồ đề tâm chính là báu diệu vì làm cho tất cả tâm đều hoan hỷBồ đề tâm như hội đại thí vì làm sung mãn tâm tất cả chúng sanh”.

Bồ đề tâm của Bồ tát luôn luôn bao gồm đại bi nên như tấm lưới lớn cứu vớt không sót một chúng sanh nào, dù là những chúng sanh ở dưới tầng đáy của hiện hữu sanh tửBồ đề tâm là ánh sáng trí huệ và nước mát đại bi phát xuất từ Phật tâm nên là báu diệu vì làm cho tất cả tâm chúng sanh đều hoan hỷsung mãn.

 

Đức Di Lặc đã kết thúc đoạn kinh này như sau:

“Này thiện nam tử! Bồ đề tâm thành tựu vô lượng công đức như vậy. Tóm lại, phải biết Bồ đề tâm đồng với công đức của tất cả Phật pháp.

Vì sao thế? Vì do từ Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnhBa đời Như Lai từ Bồ đề tâm mà xuất sanh. Thế nên nếu ai phát tâm Vô thượng Bồ đề thì ắt đã xuất sanh vô lượng công đức, có thể nhiếp giữ khắp đạo Nhất thiết trí”. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 770)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1094)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1265)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 994)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1334)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 752)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 819)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 821)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 978)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 918)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 918)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 845)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1001)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 888)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 983)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 894)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 947)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1002)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1136)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1603)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1153)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1244)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1102)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 963)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 948)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 792)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1350)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1320)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1261)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1364)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1319)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1463)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1344)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1196)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1296)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant